Từ những thành công ban đầu đến những bước tiếp theo của công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam

Bài viết đề cập đến mục đích của cải cách hành chính ở Việt

Nam trong 20 năm đổi mới; hiện tại và triển vọng sắp tới;

điểm lại một cách khái quát những văn bản của Đảng và

Nhà nước liên quan đến công cuộc cải cách hành chính; nêu

rõ nội dung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính

đến năm 2010 và những kết quả đã đạt được của bước đầu

thực hiện Chương trình này. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất

một số nội dung về cải cách hành chính cần tập trung giải

quyết trong thời gian trước mắt.

 

pdf 6 trang yennguyen 4900
Bạn đang xem tài liệu "Từ những thành công ban đầu đến những bước tiếp theo của công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ những thành công ban đầu đến những bước tiếp theo của công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam

Từ những thành công ban đầu đến những bước tiếp theo của công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam
Từ những thành công ban đầu 
đến những b−ớc tiếp theo của công cuộc 
cải cách hành chính ở Việt Nam 
Ngô Đức Mạnh(*) 
Bài viết đề cập đến mục đích của cải cách hành chính ở Việt 
Nam trong 20 năm đổi mới; hiện tại và triển vọng sắp tới; 
điểm lại một cách khái quát những văn bản của Đảng và 
Nhà n−ớc liên quan đến công cuộc cải cách hành chính; nêu 
rõ nội dung của Ch−ơng trình tổng thể cải cách hành chính 
đến năm 2010 và những kết quả đã đạt đ−ợc của b−ớc đầu 
thực hiện Ch−ơng trình này. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất 
một số nội dung về cải cách hành chính cần tập trung giải 
quyết trong thời gian tr−ớc mắt. 
ề xuất về những b−ớc tiếp theo của 
công cuộc cải cách hành chính 
(CCHC) ở Việt Nam với những gì đã đạt 
đ−ợc cho đến nay, kể cả thành công và 
tồn tại, nhằm tăng c−ờng năng lực quản 
lý của nhà n−ớc là một việc làm không 
dễ dàng, tr−ớc hết là do yêu cầu, mục 
đích và bản chất mang tính tổng thể của 
CCHC và hàng loạt vấn đề cần phải tiếp 
tục giải quyết gắn với CCHC ở n−ớc ta. 
Trong khuôn khổ bài viết này tôi xin đề 
cập đến những vấn đề sau: 
 1.Mục đích xuyên suốt của CCHC ở 
Việt Nam trong thời gian vừa qua, hiện 
nay và trong thời gian tới, là không thay 
đổi. Cải cách hành chính nhằm góp phần 
xây dựng bộ máy nhà n−ớc trong sạch, 
vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Bộ 
máy nhà n−ớc đó có nhiệm vụ thể chế hoá 
chủ tr−ơng, đ−ờng lối, chính sách của 
Đảng và tổ chức tốt việc điều hành, quản 
lý đất n−ớc thông suốt bằng việc phát 
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành 
phần, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, 
củng cố quốc phòng, an ninh, tiến hành 
đ−ờng lối đối ngoại rộng mở, tích cực và 
chủ động hội nhập quốc tế. (*) 
 Điều có thể phải điều chỉnh trong 
quá trình CCHC, đó chính là các nhiệm 
vụ và mục tiêu cụ thể đ−ợc đề ra cho 
từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển 
của đất n−ớc. Nói cách khác, cần phải 
lựa chọn các thứ tự −u tiên để tập trung 
giải quyết những vấn đề đó trong giai 
đoạn hiện nay và sắp tới nhằm đẩy 
mạnh CCHC theo chiều sâu. Đây là 
điều mà chúng ta cần phải tính toán để 
vừa không lỡ nhịp của đà CCHC, vừa 
(*) TS. luật học, Giám đốc Trung tâm Thông tin-Th− viện 
và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội 
Đ 
Thông tin Khoa học xã hội, số 1, 2006 
4 
tập trung vào những vấn đề bức xúc do 
nguồn lực hạn chế, sự phối hợp giữa các 
cơ quan, tổ chức có liên quan và sự gấp 
gáp về mặt thời gian khi mà công cuộc 
đổi mới đòi hỏi phải có những giải pháp 
mạnh mẽ, tạo ra sự đột phá để thúc đẩy 
CCHC tiến nhanh và vững chắc hơn. 
 2. CCHC không phải chỉ đ−ợc tiến 
hành từ khi có Quyết định số 136 ngày 
17 tháng 9 năm 2001 của Thủ t−ớng về 
Ch−ơng trình tổng thể cải cách hành 
chính cho giai đoạn 2001-2010 (Ch−ơng 
trình tổng thể). Có thể thấy rằng, từ 
nhiều năm tr−ớc đó, tại Hội nghị BCH 
TW lần thứ tám, khoá VII năm 1995 và 
tiếp đó, tại Hội nghị BCH TW lần thứ 
ba, khoá VIII năm 1997 đã nhấn mạnh 
đến CCHC nhằm xây dựng Nhà n−ớc 
pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Hội 
nghị BCH TW lần thứ tám, khoá VII đã 
nêu rõ CCHC là trọng tâm của việc xây 
dựng Nhà n−ớc pháp quyền; CCHC phải 
đ−ợc tiến hành đồng bộ trên cả ba mặt: 
cải cách thể chế, chấn chỉnh bộ máy và 
xây dựng, làm trong sạch đội ngũ cán 
bộ, công chức, và trong từng mặt đó 
phải tập trung giải quyết một số việc 
cấp bách nhất định (1, tr.5-15). Có thể 
thấy rằng, mục đích và nội dung của 
Ch−ơng trình tổng thể CCHC so với 
những gì đã bàn bạc và quyết định tại 
Hội nghị Trung −ơng lần thứ tám về 
CCHC, về cơ bản là nh− nhau, có chăng 
chỉ là ở quy mô và mức độ của công cuộc 
cải cách khi vào năm 1995, chúng ta chỉ 
nói “cải cách một b−ớc nền hành chính 
nhà n−ớc” cho đến “cải cách hành chính 
tổng thể” trong Quyết định 136 của Thủ 
t−ớng Chính phủ vào năm 2001. Rõ 
ràng là sau 5 năm triển khai thực hiện 
nghị quyết của Hội nghị Trung −ơng lần 
thứ tám, khoá VII, nhận thức lý luận và 
thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà 
n−ớc đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh 
CCHC một cách toàn diện hơn bằng một 
Ch−ơng trình tổng thể. 
 3. CCHC ở Việt Nam không chỉ đơn 
thuần là cải cách thủ tục hành chính, là 
công việc của bộ máy hành chính hiểu 
theo nghĩa là Chính phủ và các cơ quan 
của Chính phủ tuy rằng, theo quan 
niệm thông th−ờng, với tên gọi này là 
chỉ nhiệm vụ của bộ máy hành chính. 
Chín mục tiêu cụ thể của Ch−ơng trình 
tổng thể và tầm ảnh h−ởng, tác động 
của nó cho thấy, CCHC ở Việt Nam 
đụng chạm đến toàn bộ hệ thống chính 
trị: Đảng, Nhà n−ớc, Mặt trận Tổ quốc 
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Từ 
đó, muốn CCHC thành công, điều có ý 
nghĩa quyết định là sự chỉ đạo và triển 
khai c−ơng quyết, mạnh mẽ của cả hệ 
thống chính trị. Điểm nữa cần chú ý là 
CCHC đ−ợc tiến hành trong tình hình 
không mấy thuận lợi nh− điểm xuất 
phát của chúng ta thấp, thể hiện ở bộ 
máy hành chính cồng kềnh, đội ngũ cán 
bộ, công chức thiếu kiến thức, năng lực, 
tình trạng lãng phí, nạn tham nhũng 
Cho đến nay, kết quả đạt đ−ợc rất quan 
trọng, thể hiện là trong nhận thức 
chung của toàn xã hội là phải đẩy mạnh 
CCHC và không thể sửa đổi cục bộ, 
chắp vá mà phải tạo ra sự chuyển biến 
căn bản, có hệ thống của nền hành 
chính trên cơ sở giữ vững ổn định chính 
trị. Điều này đòi hỏi phải có những 
quyết định rõ ràng, dứt khoát và mạnh 
mẽ để chuyển động toàn bộ bộ máy nhà 
n−ớc theo đ−ờng ray của lộ trình Ch−ơng 
trình tổng thể cải cách đã vạch ra. 
 4. Từ những kết quả đã đạt đ−ợc 
trong CCHC vừa qua, trong thời gian tới 
chúng ta cần tập trung giải quyết cho 
đ−ợc những vấn đề chủ yếu sau: 
Từ những thành công.... 
5 
 Thứ nhất, đẩy mạnh quá trình trao 
quyền chủ động cho chính quyền địa 
ph−ơng. Điều này đ−ợc thể hiện ở chỗ 
chính quyền địa ph−ơng mà chủ yếu là 
cấp tỉnh đã có thẩm quyền đ−ợc quyết 
định nhiều vấn đề nh− thu, chi ngân 
sách, sử dụng đất đai và qui hoạch, kế 
hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa 
ph−ơng mình. Tính l−u động ngày càng 
tăng của hàng hoá và con ng−ời, dòng 
chảy truyền thông và thông tin ngày 
càng dễ dàng hơn đã giúp chính quyền 
địa ph−ơng có thể điều hành hiệu quả 
nhiều hoạt động xã hội. Cùng với một xã 
hội dân sự mạnh mẽ hơn và phát huy 
vai trò của các tổ chức xã hội, nghề 
nghiệp, những sự phát triển đó dẫn tới 
đòi hỏi chính đáng buộc “trung −ơng” 
phải “trao bớt” thẩm quyền và nguồn 
lực cho địa ph−ơng. Quá trình phi tập 
trung hoá trong n−ớc, cũng nh− quá 
trình toàn cầu hoá, là một xu h−ớng 
chung và không thể ngăn cản đ−ợc. 
Cùng lúc đó, quá trình phi tập trung 
hóa tất yếu làm nảy sinh nhu cầu tập 
trung hoá lớn hơn một số chức năng khác 
(hoặc cần sự kiểm soát mạnh hơn từ trung 
−ơng đối với một số lĩnh vực). Bản thân 
nhu cầu đáp ứng những thách thức của 
quá trình toàn cầu hoá đã là một yếu tố 
tập trung hoá. Do đó, thay cho việc tranh 
luận về “quá trình phi tập trung hoá” hay 
 “tập trung hoá”, thì việc xem xét phân bố 
tổng thể các chức năng nhà n−ớc trong bối 
cảnh mới sẽ mang lại nhiều ích lợi hơn, và 
đòi hỏi cần phân định rõ hơn những chức 
năng nào phù hợp với quá trình phi tập 
trung hoá mạnh hơn (và chức năng nào 
không phù hợp); xác định những gì là cần 
thiết để quá trình phi tập trung hoá đó trở 
nên có hiệu quả; và cần phải có những 
điều chỉnh cần thiết về vai trò của chính 
quyền trung −ơng để bảo vệ quốc gia thoát 
khỏi những nguy hiểm và hạn chế đến 
mức tối đa cái giá phải trả của quá trình 
phi tập trung hoá. Từ kết quả phát triển 
kinh tế-xã hội của cả n−ớc trong thời gian 
qua cho thấy, phạm vi điều hành ở cấp 
trung gian “cấp tỉnh” đang trở nên quan 
trọng hơn bao giờ hết. Đây là cấp trung 
gian giữa chính quyền quốc gia và các 
chính quyền địa ph−ơng. Thực thể điều 
hành trung gian này đ−ợc h−ởng địa vị độc 
quyền kép: chủ thể có quyền giải thích 
chính sách của chính quyền trung −ơng 
cho các chính quyền địa ph−ơng cấp d−ới, 
và cũng là kênh chủ yếu cung cấp thông 
tin và các phản hồi từ cơ sở đến chính 
quyền trung −ơng. Sự năng động của lãnh 
đạo chính quyền của một số tỉnh, thành 
phố, cho thấy những địa ph−ơng đó đã tạo 
nên những bộ mặt mới hấp dẫn về thu hút 
đầu t− và xoá đói, giảm nghèo ngay trong 
lòng quốc gia. Nh− vậy, mô hình của dạng 
điều hành này đang nổi lên ngày càng rõ 
rệt ở Việt Nam. Quá trình giao quyền chủ 
động cho các địa ph−ơng dẫn tới b−ớc 
chuyển tiếp theo về sự cần thiết phải tăng 
c−ờng năng lực thực thi quyền lực hành 
chính và chuyển nguồn lực từ trung −ơng 
xuống chính quyền cấp tỉnh. Bên cạnh đó, 
chính quyền quốc gia trung −ơng cần phải 
đảm đ−ơng các trách nhiệm và nguồn lực 
để đ−ơng đầu với thị tr−ờng toàn cầu và 
các thực thể bên ngoài. Tính đến tất cả các 
yếu tố này, mức độ quan trọng của các 
chính quyền cấp tỉnh trung gian sẽ tăng 
lên đáng kể, không chỉ là định h−ớng và 
kiểm soát ngày càng nhiều các mặt của đời 
sống xã hội, mà còn hỗ trợ và tạo điều kiện 
thuận lợi cho sự phát triển của địa 
ph−ơng. 
 Thứ hai, cần đề cao đến chế độ 
trách nhiệm (trách nhiệm giải trình) và 
Thông tin Khoa học xã hội, số 1, 2006 
6 
coi đó là vấn đề trung tâm của CCHC. 
Trong thời đại hiện nay, quan niệm 
chung đ−ợc nhiều ng−ời nói đến về chế 
độ quản lý nhà n−ớc tốt là phải dựa vào 
bốn cột trụ, bao gồm: (1) chế độ trách 
nhiệm; (2) công khai, minh bạch; (3) 
tính dự đoán đ−ợc và (4) sự tham gia. 
Chế độ trách nhiệm đặt ra yêu cầu và 
đòi hỏi các viên chức nhà n−ớc phải chịu 
trách nhiệm về hành động của mình; 
công khai, minh bạch là việc cho phép 
truy cập các thông tin liên quan với chi 
phí thấp; tính dự đoán đ−ợc thiết lập 
chủ yếu bởi luật pháp và các quy định rõ 
ràng, có thể biết tr−ớc và đ−ợc bảo đảm 
thi hành một cách thống nhất và có hiệu 
quả; còn sự tham gia là cung cấp các 
thông tin đáng tin cậy và thiết lập sự 
kiểm soát xác thực đối với các hoạt động 
của Chính phủ. 
 Các yếu tố này không thể tồn tại 
độc lập, mà mỗi yếu tố là công cụ để góp 
phần đạt đ−ợc ba yếu tố còn lại; và cả 
bốn yếu tố đều là công cụ để đạt đ−ợc 
một cách quản lý hành chính công đúng 
đắn. Cụ thể, chế độ trách nhiệm sẽ 
không đầy đủ khi bị bao bọc bởi chế độ 
bảo mật trong hoạt động quản lý hoặc là 
tình trạng “xử lý nội bộ” và sẽ là vô 
nghĩa nếu không thể dự báo tr−ớc đ−ợc 
về hậu quả sẽ xảy ra. Chế độ trách 
nhiệm cần thiết ở khắp mọi nơi nh−ng 
để áp dụng đ−ợc cần phải qui định trách 
nhiệm đó “là của ai”, “về cái gì”, và “đối 
với ai”. 
 Tính dự đoán đ−ợc trong hoạt động 
của chính quyền và việc áp dụng nhất 
quán nguyên tắc này là yêu cầu cần 
thiết đối với mọi công chức để xây dựng 
những qui định về các loại dịch vụ và có 
vai trò giống nh− “tấm biển chỉ đ−ờng” 
h−ớng dẫn các hoạt động, sản xuất, tiếp 
thị và chọn lựa các quyết định đầu t−. 
Tính công khai, minh bạch về quá trình 
ra quyết định và về chính quyền là điều 
cần phải có đối với cơ quan hành pháp, 
lập pháp và cho cả ng−ời dân nói chung. 
Điều quan trọng không chỉ là các thông 
tin phải đ−ợc cung cấp, mà các thông tin 
đó phải xác đáng và trình bày theo hình 
thức dễ hiểu. Sự tham gia thích hợp của 
các viên chức chính quyền có liên quan 
và của những ng−ời khác là cần thiết để 
xây dựng các chính sách và ch−ơng 
trình xã hội đúng đắn; sự tham gia của 
ng−ời dân và các chủ thể ở bên ngoài là 
cần thiết để theo dõi và kiểm soát hiệu 
quả hoạt động. Từ đó, ý kiến phản hồi 
từ phía ng−ời dân sử dụng các dịch vụ 
công là cần thiết để kiểm soát chất 
l−ợng của các dịch vụ đó. 
 Mặc dù bốn trụ cột của việc quản lý 
nhà n−ớc hiệu quả đều liên quan đến 
nhau, nh−ng trong đó chế độ trách 
nhiệm là vấn đề then chốt. Trách nhiệm 
giải trình thực sự bao gồm hai yếu tố: 
(1) khả năng giải đáp và (2) chịu trách 
nhiệm về hậu quả xảy ra. Thứ nhất, 
khả năng giải đáp là việc yêu cầu các 
viên chức nhà n−ớc phải có khả năng 
trả lời theo định kỳ những vấn đề liên 
quan đến việc họ đã sử dụng thẩm 
quyền của mình nh− thế nào, những 
nguồn lực đ−ợc sử dụng vào đâu và với 
các nguồn lực đó, đã đạt đ−ợc kết quả gì. 
Thứ hai, đó là nhu cầu về việc phải có 
thể dự đoán đ−ợc về những hậu quả có ý 
nghĩa (không nhất thiết mang tính 
trừng phạt, không nhất thiết phải tính 
bằng tiền và không nhằm vào một cá 
nhân cụ thể). Thứ ba, kết hợp trách 
nhiệm giải trình hành chính nội bộ với 
trách nhiệm giải trình ra bên ngoài 
 thông qua ý kiến phản hồi của ng−ời sử 
dụng dịch vụ và của mọi ng−ời dân. Việc 
tăng c−ờng chế độ trách nhiệm tr−ớc 
Từ những thành công.... 
7 
công dân trong bối cảnh khởi đầu quá 
trình phi tập trung hóa để bảo đảm chất 
l−ợng của các dịch vụ công là điều có ý 
nghĩa quan trọng nhất, đặc biệt là đối 
với các khu vực hoặc bộ phân dân c− 
nghèo đói hơn. 
 Thứ ba, xây dựng và quản trị 
nguồn nhân lực của bộ máy hành chính 
nhà n−ớc là nhiệm vụ then chốt có tính 
xuyên suốt trong cả quá trình CCHC. 
Điều cần chú ý rằng xây dựng nguồn 
nhân lực không chỉ hiểu theo nghĩa rất 
hẹp là đào tạo công chức hành chính. 
Theo nghĩa rộng, khái niệm này đ−ợc áp 
dụng cho bất cứ thay đổi nào tác động 
đến tổ chức hành chính, hay có liên 
quan đến thể chế dù là nhỏ nhất. 
Chúng ta phải nhận thấy rằng “xây 
dựng năng lực” trong bất kỳ lĩnh vực 
nào đều có bốn yếu tố cấu thành nh− đã 
nêu ở trên và mỗi yếu tố này sẽ không 
thể có tác động tích cực đến hiệu quả và 
hiệu lực của tổ chức này nếu các yếu tố 
kia không đ−ợc cải thiện. Phát triển thể 
chế là một b−ớc tiến nâng cao từ những 
quy định và biện pháp kém hiệu quả 
đến những qui định và biện pháp có 
hiệu quả hơn đ−ợc thể hiện qua và đo 
bằng sự giảm bớt các chi phí giao dịch 
trong lĩnh vực này. 
 Có thể hợp nhất, cơ cấu lại hay 
thiết lập mới các bộ và các cơ quan 
thuộc Chính phủ, nh−ng sẽ không có sự 
thay đổi nào về thái độ công vụ (và từ đó 
là các kết quả hành chính), nếu không 
có những thay đổi cơ bản về quy tắc, qui 
trình và động cơ làm việc. Từ đó, phát 
triển tổ chức phải h−ớng đến sự điều 
chỉnh cơ cấu tổ chức theo những qui tắc 
hiệu quả hơn hoặc hợp lý hóa các chức 
năng và nhiệm vụ của tổ chức đó. Phát 
triển nguồn nhân lực cần tập trung vào 
việc chuẩn hóa đầu vào thông qua chế 
độ tuyển chọn cạnh tranh những ng−ời 
đáp ứng yêu cầu vào những vị trí điều 
hành nhất định. Tiếp đó là có chế độ 
l−ơng thích đáng để bảo đảm tiền l−ơng 
thực sự là nguồn thu nhập chủ yếu, 
chính đáng của công chức, là sự phản 
ánh giá trị sức lao động của họ, đủ để 
ng−ời lao động trong bộ máy nhà n−ớc 
tái sản xuất lao động, yên tâm phục vụ; 
đồng thời giúp nâng cao tinh thần trách 
nhiệm và hiệu quả công tác của công 
chức, góp phần chống tham nhũng. Cuối 
cùng là hình thành và bồi d−ỡng các kỹ 
năng về các lĩnh vực có liên quan, ví dụ 
nh− đào tạo và phát triển các kỹ năng 
sử dụng thông tin, tức là việc áp dụng 
công nghệ thông tin và truyền thông 
một cách hợp lý vào hoạt động của bộ 
máy công quyền. 
 Thứ t−, gắn kết hiệu quả hoạt động 
của bộ máy nhà n−ớc với quá trình ra 
quyết định và thực thi quyết định. Về 
mặt tổng thể, qui trình sẽ trở nên vô 
nghĩa nếu không tính đến kết quả, 
nh−ng ng−ợc lại, nếu quá tập trung vào 
kết quả mà không quan tâm đến việc 
bảo vệ các qui định công bằng và qui 
trình đúng đắn, thì cũng không thể có 
những cải thiện bền vững đ−ợc. 
 Việc đánh giá thể chế là rất phức 
tạp bởi thực tế là đa số các qui tắc mà 
xã hội đang vận hành đều có hình thức 
không chính thống (gồm cả những biện 
pháp khuyến khích và hình phạt không 
chính thức). Điều này giải thích nghịch 
lý nổi tiếng của nhiều quốc gia nơi có 
các hệ thống và qui trình quản lý chính 
thống có vẻ rất vững chắc và chặt chẽ, 
nh−ng trên thực tế, hoạt động của chính 
quyền lại thiếu hiệu quả, căn bệnh 
Thông tin Khoa học xã hội, số 1, 2006 
8 
tham nhũng trở nên phổ biến, còn các 
dịch vụ công thiếu thốn một cách tồi tệ. 
Trên thực tế, tính phi chính thống 
chiếm −u thế tại nhiều quốc gia, với nền 
kinh tế phi chính thống cung cấp nhiều 
hàng hóa và dịch vụ hơn của chính phủ, 
nh−ng nền kinh tế đó lại phải chi phí 
nhiều hơn xét về tính hiệu quả, công 
bằng và phát triển. Vì hệ thống qui tắc 
gồm những qui định chính thức và 
không chính thức, nên rất nhiều “cải 
thiện” mang tính kỹ thuật đã thất bại 
bởi chúng xung đột với các qui tắc và 
động cơ không chính thức khó nhận 
thấy. Từ đó, cần xác định việc ban hành 
các qui định có hiệu quả để đạt đ−ợc các 
lợi ích công xác định là chức năng cơ 
bản nhất của bộ máy hành chính. Thực 
tiễn của nhiều n−ớc đang phát triển cho 
thấy, các tồn tại chủ yếu trong việc ban 
hành và thực thi quyết định là sự lạm 
phát các qui định; chất l−ợng các qui 
định tỷ lệ nghịch với số l−ợng các qui 
định đ−ợc ban hành; năng lực thực thi 
yếu; sự thông đồng giữa ng−ời điều 
hành và ng−ời bị điều hành cũng nh− 
quá trình ban hành luật pháp mập mờ 
và tùy tiện (2, tr.31-33). Từ đó, cần phải 
xây dựng cơ chế lập và điều phối chính 
sách có hiệu quả h−ớng đến việc tuân 
thủ bốn nguyên tắc cơ bản sau: (1) tính 
kỷ luật, nhằm loại bỏ những quyết định 
chính sách không có khả năng bảo đảm 
về mặt tài chính hoặc không khả thi; (2) 
tính công khai, minh bạch của quá trình 
ra quyết định, đồng thời vẫn bảo toàn 
đ−ợc tính bảo mật cần thiết cho quá 
trình thảo luận thẳng thắn; (3) tính dự 
đoán đ−ợc của định h−ớng chính sách, 
tránh tình trạng th−ờng xuyên thay đổi 
ng−ợc lại các quyết định chính trị và (4) 
áp đặt một trình tự chặt chẽ mà thông 
qua đó, chỉ những vấn đề quan trọng 
mới đ−ợc đệ trình lên các nhà hoạch 
định chính sách; hạn chế và loại bỏ tình 
trạng Chính phủ sa vào những công việc 
sự vụ, ít quan trọng. 
 Cuối cùng, cần nhắc lại mệnh đề 
đ−ợc áp dụng cho cả lĩnh vực chính trị 
và kinh tế rằng, hầu hết các quyết định 
đều dẫn đến cả ng−ời thắng và kẻ thua. 
Các nhóm lợi ích và các cá nhân khác 
nhau sẽ có quan điểm khác nhau về một 
chính sách, biện pháp nào đó có phù hợp 
đối với phạm vi quốc gia hay không, 
hoặc một loại hình dịch vụ nào đó có 
thích hợp cho t− nhân cung cấp hay 
không, Vấn đề cốt lõi của một nền 
quản trị nhà n−ớc có hiệu quả là quản lý 
đ−ợc những xung đột vốn có về lợi ích một 
cách yên bình và thông qua một quá trình 
minh bạch mà cả xã hội đều tin là công 
bằng và hiệu quả. Và đồng thời, phải tính 
đến hiệu quả tổng thể của các quyết định 
trong lĩnh vực CCHC nhằm mục đích 
mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội. 
 Tài liệu tham khảo 
1. Phan Văn Khải. Quan điểm và nội 
dung cải cách một b−ớc nền hành 
chính nhà n−ớc (Bài trình bày 
truyền đạt Nghị quyết Hội nghị lần 
thứ 8 BCH Trung −ơng Đảng tại 
Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 
21/2/1995). Tạp chí Quản lý nhà 
n−ớc, 4/1995. 
2. S. Chiavo-Campo, P.S.A. Sundaram. 
Phục vụ và Duy trì: Cải thiện hành 
chính công trong một thế giới cạnh 
tranh. Nxb Chính trị quốc gia. H., 
2003. 

File đính kèm:

  • pdftu_nhung_thanh_cong_ban_dau_den_nhung_buoc_tiep_theo_cua_con.pdf