Tư tưởng đổi mới giáo dục của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX – Liên hệ với vai trò, vị trí giáo dục của Việt Nam hiện nay

Cải cách nhằm nâng cao dân trí là một trong những điểm nổi bật trong phong

trào Duy Tân đầu thế kỷ XX. Cùng với các chí sĩ yêu nước đương thời, Phan

Châu Trinh đã phát động phong trào Duy Tân về giáo dục. Từ việc phân tích

những quan điểm về vai trò, mục đích, sứ mệnh, nội dung, nhiệm vụ đổi mới

cũng như cách thức tổ chức giáo dục và phương pháp giáo dục của Phan Châu

Trinh, bài viết liên hệ với sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

pdf 7 trang yennguyen 6840
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng đổi mới giáo dục của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX – Liên hệ với vai trò, vị trí giáo dục của Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng đổi mới giáo dục của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX – Liên hệ với vai trò, vị trí giáo dục của Việt Nam hiện nay

Tư tưởng đổi mới giáo dục của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX – Liên hệ với vai trò, vị trí giáo dục của Việt Nam hiện nay
1 
CHUYÊN MỤC 
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC 
TƯ TƯỞNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC CỦA 
PHAN CHÂU TRINH ĐẦU THẾ KỶ XX – LIÊN HỆ VỚI 
VAI TRÒ, VỊ TRÍ GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 
 TRẦN MAI ƯỚC* 
Cải cách nhằm nâng cao dân trí là một trong những điểm nổi bật trong phong 
trào Duy Tân đầu thế kỷ XX. Cùng với các chí sĩ yêu nước đương thời, Phan 
Châu Trinh đã phát động phong trào Duy Tân về giáo dục. Từ việc phân tích 
những quan điểm về vai trò, mục đích, sứ mệnh, nội dung, nhiệm vụ đổi mới 
cũng như cách thức tổ chức giáo dục và phương pháp giáo dục của Phan Châu 
Trinh, bài viết liên hệ với sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: tư tưởng đổi mới giáo dục, phong trào Duy Tân, phương pháp giáo dục, 
Phan Châu Trinh 
Nhận bài ngày: 16/8/2019; đưa vào biên tập: 20/8/2019; phản biện: 1/9/2019; duyệt 
đăng: 4/11/2019 
1. DẪN NHẬP 
Thực tiễn quá trình vận động và phát 
triển của các cuộc cải cách, đổi mới 
trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX 
đã chứng minh rằng, những tư tưởng 
canh tân đã có những đóng góp nhất 
định vào tiến bộ xã hội đương thời. 
Phong trào Duy Tân do Phan Châu 
Trinh đề xướng ở giai đoạn này đã 
nhanh chóng trở thành một cao trào, 
thậm chí bộc phát tới bạo lực vũ trang 
vào năm 1908 vượt khỏi tầm nhìn của 
các nhà lãnh đạo phong trào lúc bấy 
giờ. Dưới góc độ giáo dục, có thể 
khẳng định, phong trào Duy Tân là một 
cuộc cách mạng về giáo dục ở Việt 
Nam theo hướng khoa học, hiện đại. 
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) tên 
chữ là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu 
Hy Mã là một nhà nho học có xu 
hướng cải cách. Sinh thời, Phan Châu 
Trinh rất coi trọng vai trò của giáo dục 
trong sự canh tân đất nước. 
Khác với những nhà cách mạng khác, 
Phan Châu Trinh đã nhận thức được 
*
 Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
 TRẦN MAI ƯỚC – TỪ TƯ TƯỞNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC CỦA 
2 
nguyên nhân căn bản tại sao Việt 
Nam bị thực dân xâm lược. Theo ông, 
đó là do dân tộc Việt Nam tụt hậu so 
với các dân tộc khác hàng thế kỷ, hay 
nói cách khác, Việt Nam đã đi sau các 
dân tộc phương Tây một thời đại: khi 
Việt Nam còn ở nền kinh tế nông 
nghiệp thì các nước phương Tây đã 
làm kinh tế công nghiệp và đang tiến 
nhanh trên con đường công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa tư bản chủ nghĩa. 
Theo Phan Châu Trinh, thời điểm 
cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất 
đang làm rung chuyển dữ dội thế giới, 
thế nhưng dân chúng Việt Nam vẫn 
như đang ở trong ốc đảo và hoàn toàn 
mù thông tin về thế giới xung quanh 
nên Việt Nam thất bại là điều tất yếu. 
Vì vậy, muốn cứu dân tộc không còn 
con đường nào khác là phải đuổi kịp 
các dân tộc khác về mặt tri thức, đưa 
dân tộc Việt Nam lên ngang tầm thời 
đại với các dân tộc khác trên thế giới. 
Đến khi đó, Việt Nam mới có thể cùng 
sinh tồn và cạnh tranh, phát triển. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Tư tưởng đổi mới giáo dục qua 
quan điểm “Khai dân trí” 
Là người đứng đầu phong trào Duy 
Tân, Phan Châu Trinh đã xác định rất 
rõ mục đích của phong trào là dùng 
con đường giáo dục - bằng cách cử 
học sinh đi du học ở nước ngoài hoặc 
mở các trường học, lớp học trong 
nước trên các địa bàn dân cư, góp 
phần “hóa quốc cường dân” giành lại 
độc lập, tự chủ, canh tân xã hội. Giai 
đoạn này, các chí sĩ của phong trào 
Duy Tân, trong đó có Phan Châu 
Trinh, đã thống nhất quan niệm rằng 
nước Nam ta lúc này, bị lâm vào cảnh 
tối tăm, nhục nhã, là chỉ tại bởi chế độ 
quân chủ, mà nền móng của nó là tư 
tưởng phong kiến đã thấm sâu vào 
đầu óc người dân hàng ngàn năm. 
Thời điểm lịch sử mới của nhân loại 
đã tới từ lâu. Các nước Âu, Mỹ, Nhật 
Bản đã tân tiến, cường thịnh đủ sức 
đè bẹp nhiều nước. Phải Duy Tân xã 
hội theo hướng Tây Âu, Nhật Bản đã 
làm. Đó là việc cấp bách của nền giáo 
dục. Nên phải cấp bách thay thế nền 
giáo dục Nho giáo bằng một nền giáo 
dục mới về hình thức và về nội dung 
giáo dục. Từ quan niệm ấy, Phan 
Châu Trinh chủ trương tiến hành cuộc 
cách mạng về giáo dục cho học sinh 
và dân chúng. 
Tư duy đổi mới của Phan Châu Trinh 
được diễn giải ngắn gọn trong Thư 
gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18/2/1922, 
với ba mục tiêu hành động là: “Khai 
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” 
(dẫn theo Nguyễn Văn Dương, 1995: 
696). Trong đó nội dung “khai dân trí” 
thể hiện tư duy sâu sắc của chí sĩ 
Phan Châu Trinh liên quan đến: thái 
độ dứt khoát chống nền học cũ; chống 
nền giáo dục khoa cử; cổ súy mạnh 
mẽ việc học chữ quốc ngữ; chủ 
trương học theo cách mới; xây dựng 
nền giáo dục có phần nội dung cơ bản 
phổ cập và có nội dung chuyên sâu. 
Theo Phan Châu Trinh, khai dân trí là: 
đẩy mạnh truyền bá quốc ngữ, mở 
trường dạy học những kiến thức khoa 
học thực dụng, xây dựng một nền học 
vấn và văn hóa tiến bộ, xây dựng con 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (255) 2019 
3 
người toàn diện thích ứng với cuộc 
sống văn minh. Muốn khai thông dân 
trí, giành độc lập cho dân tộc, ông chủ 
trương cải cách bằng việc mở các 
trường học, đem thực tài mà giảng 
dạy, dùng các hình thức thơ ca, sách 
vở, báo chí diễn thuyết để mở mang 
kiến thức và thức tỉnh lòng người. 
“Từ những đấng hoàng thân quý tộc, 
Chẳng ai không đi học lấy một nghề 
Còn những kẻ sĩ, nông, công, cơ 
Đều học cho trí đủ làm ăn. 
Cũng là nữ tử, phụ thân 
Ai ai cũng có trong thân một nghề” 
(dẫn theo Nguyễn Văn Dương, 1995: 
127-128). 
2.2. Quan điểm của Phan Châu 
Trinh về vai trò, mục đích, sứ mệnh 
của giáo dục 
Trong lúc xã hội Việt Nam đang rên 
xiết dưới sự thống trị của thực dân, 
phải cam chịu nô lệ, một bộ phận nho 
sĩ vẫn chìm đắm trong hư văn, chưa 
kịp chuyển biến theo thời thế. Phan 
Châu Trinh nhận ra rằng, chính tình 
cảnh ấy sẽ làm cho đất nước nhanh 
chóng đi vào con đường suy tàn, và 
cho rằng, nền giáo dục nho học, tư 
tưởng “trọng xưa hơn nay”, “trọng quan, 
khinh dân”, coi trọng văn chương phù 
phiếm mà coi nhẹ lao động chân tay 
đã tạo ra không ít những con người 
thích phẩm hàm, quan tước để mong 
một chốn nương thân trong chế độ 
thực dân phong kiến. Đến lúc mất 
nước, chế độ phong kiến và nền khoa 
cử ấy vẫn mặc nhiên, không kịp thay 
đổi cách nhìn, cách nghĩ để cứu dân 
tộc khỏi cảnh nô lệ. Kiến thức nho học 
không còn phù hợp, không có khả 
năng lý giải những hiện tượng mới 
nảy sinh của đời sống xã hội. 
Vốn là người nổi tiếng thông minh, 
Phan Châu Trinh muốn dùng tài trí 
của mình để cứu vớt giang sơn đang 
chìm đắm trong cảnh nô lệ. Nhưng 
sau khi được bổ nhiệm làm quan, ông 
thấy rằng, việc khoa cử cũng chỉ là 
kiếm chức quan nhằm “vinh thân phì 
gia” mà thôi, chứ không thể thực hiện 
được mục đích. Đối với chế độ phong 
kiến, sau khi nhìn nhận rõ ràng, Phan 
Châu Trinh kịch liệt lên án sự thối nát, 
mục ruỗng, nhu nhược, quyền lực 
chính trị rơi vào thực dân Pháp, bộ 
máy của chế độ phong kiến chỉ là bù 
nhìn, ông viết: 
“Khoa cử cũng lò mò bắt chước, 
Đi càng ngày càng lạc, càng xa. 
Con ta chẳng học sử ta, 
Bắt ra học những chuyện nhà người 
dưng” (dẫn theo Nguyễn Văn Dương, 
1995: 341). 
Theo quan điểm của Phan Châu Trinh, 
phải nâng cao quyền dân, khi dân đã 
có quyền lực, lúc đó mới có thể làm 
việc lớn được. Nhưng hiện nay quyền 
bính trong nước còn nằm trong tay 
vua quan. Thế thì phải đánh đổ vua 
quan đi. Nhưng làm thế nào để đánh 
đổ vua quan? Vì hoàn cảnh nước ta là 
không thể tự làm được, cho nên, phải 
dựa vào Pháp là bọn thống trị vua 
quan ta, mà làm việc cải cách ấy. Mặc 
dù quan điểm dựa vào Pháp để cải 
cách đất nước của Phan Châu Trinh 
bộc lộ hạn chế về phương pháp thực 
 TRẦN MAI ƯỚC – TỪ TƯ TƯỞNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC CỦA 
4 
hiện, nhưng tinh thần bài trừ tư tưởng 
hủ nho, cải cách phong tục tập quán, 
bài trừ mê tín dị đoan, cải thiện lối 
sống, xây dựng thuần phong mỹ tục 
có tính cấp tiến trong thời kỳ này. 
Công việc này được tuyên truyền rộng 
rãi trong quần chúng nhân dân bằng 
nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt 
mở những trường dạy học như là 
cách tuyên truyền hữu hiệu nhất. 
Chính vì thế, mà hàng loạt những ngôi 
trường lớn mở ra từ Nam chí Bắc. Nội 
dung học gồm những môn lịch sử, địa 
lý, vệ sinh và tất cả đều dạy bằng chữ 
quốc ngữ, đôi khi có kèm theo tiếng 
Pháp. Trường còn tổ chức biên soạn, 
dịch thuật một số sách báo thấm 
đượm tinh thần Duy Tân. Ngoài việc 
giảng dạy là chính, trường còn tổ 
chức những buổi diễn thuyết, bình thơ 
văn, cổ động học chữ quốc ngữ, lập ra 
các “Hội buôn” gọi là “Quốc thương” 
để kiếm tiềm nuôi thầy giáo mở thêm 
trường học, cung cấp sách vở cho 
học sinh. Sau một thời gian ngắn, 
nhiều trường học, cơ sở văn hóa 
được tổ chức rải rác ở khắp các vùng 
quê tỉnh Quảng Nam, nhằm tạo ra một 
mẫu người toàn vẹn với trí óc sáng 
suốt trong một thân thể tráng kiện. 
Một số trường học nổi bật được hình 
thành trong thời kỳ này như trường 
Dục Thanh (Phan Thiết), do Phan 
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng khởi 
xướng. Nhà yêu nước Nguyễn Tất 
Thành cũng đã có thời gian giảng dạy 
ở trường này (tháng 8/1910 - 2/1911). 
Chỉ trong năm 1906, riêng tỉnh Quảng 
Nam đã có tới 40 trường lớn nhỏ 
được thành lập. Đặc biệt, trường Diên 
Phong là tiêu biểu nhất về tổ chức 
cũng như về nội dung giảng dạy trong 
phong trào Duy Tân, cải cách ở vùng 
đất Quảng. Bên cạnh đó là trường 
Phú Lâm, thuộc huyện Tiên Phước, 
do ông Lê Cơ là bà con của Phan 
Châu Trinh chỉ đạo. Trong trường có 
lớp riêng của nữ sinh. Ông đã đào tạo 
hai cô giáo phụ trách lớp này. Đó là 
lớp nữ đầu tiên ở khu vực này, một 
việc làm rất có ý nghĩa trong phong 
trào cải cách, tân tiến. Ngoài việc mở 
trường học, Phan Châu Trinh đặc biệt 
chú ý đổi mới nội dung giảng dạy. 
2.3. Quan điểm của Phan Châu 
Trinh về nội dung, nhiệm vụ đổi 
mới, phát triển; về cách thức tổ 
chức và phương pháp giáo dục 
Phan Châu Trinh có tầm nhìn xa, ông 
cho rằng phát triển dân tộc cũng quan 
trọng như đấu tranh giành độc lập dân 
tộc. Nếu có độc lập dân tộc mà nhân 
dân ngu muội so với các dân tộc khác 
thì sớm hay muộn, Việt Nam sẽ lại bị 
phụ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang. 
Từ quan điểm đó, Phan Châu Trinh đã 
cùng với hai người bạn tâm huyết 
nhất của mình là Trần Quý Cáp và 
Huỳnh Thúc Kháng, còn được gọi là 
“bộ ba Quảng Nam” phát động phong 
trào Duy Tân vào năm 1906. Cả ba 
ông đã bôn ba khắp mọi miền đất 
nước, mở trường dạy những môn 
khoa học mới của phương Tây. Đến 
đâu các ông cũng gióng trống mời gọi 
người dân trong làng ra nghe những 
tư tưởng mới, những giá trị mới của 
phương Tây. Phong trào đã nhanh 
chóng lan rộng từ Trung Kỳ ra cả 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (255) 2019 
5 
nước. Mục đích của phong trào là 
truyền bá cho người dân Việt Nam 
những kiến thức và tư tưởng mới, 
giúp dân chúng Việt Nam ý thức được 
công cuộc toàn cầu hóa đang diễn ra 
và mình phải vươn tới để hòa nhập 
vào thế giới ấy, đưa dân tộc tiến lên. 
Phong trào Duy Tân chủ trương chấn 
hưng cổ học, tăng cường việc học 
thực nghiệm, nhất là đề cao chữ quốc 
ngữ, mở mang dân trí. Tư tưởng Duy 
Tân xác định tất cả mọi người, mọi 
giới phải học, và học tập tất cả mọi 
nền văn minh của các dân tộc khác, 
có như vậy, xã hội mới tiến bộ và dân 
chủ, mới có quyền sống, quyền bình 
đẳng. Chủ trương của hội Duy Tân 
thật mới và có tính cách mạng. Vì vậy 
khi chủ trương triển khai và vận dụng 
vào việc học, chỉ sau một thời gian thì 
đã có kết quả rất tốt. Đó là cách học 
có tính thực dụng, hướng nghiệp, 
không chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn 
này mà còn có ý nghĩa cho đến thời 
đại sau này. 
Để mở mang dân trí, phải tiến hành 
học theo lối thực dụng, cốt để phục vụ 
cuộc sống dân sinh chứ không phải là 
học bình thơ văn, phù phiếm của 
người xưa. Bản thân Phan Châu Trinh 
là người rất ham học hỏi và biết nhiều 
nghề, đi đến đâu ông đều kêu gọi mọi 
người phát triển hội nghề nghiệp, 
nhằm phát triển kinh tế. Còn học thuật, 
ông quan niệm cần phải đổi mới về 
nội dung, phương pháp, đặc biệt là 
chú trọng phát triển khoa học, kỹ thuật. 
Đối với nền văn minh phương Tây, 
ông cho rằng cần phải học hỏi cái hay, 
biết cái dở của họ để vận dụng vào 
phát triển và mở mang dân trí cho dân 
chúng trong nước. Đây cũng là một 
trong những tư tưởng rất tiến bộ, ông 
cũng giống như Nguyễn Trường Tộ, 
đã nhận thấy những giá trị văn minh 
của phương Tây, đi ngược lại tư duy 
cũ “trọng Đông, khinh Tây”. Ông viết: 
“ đem cái sự học Âu Tây để so sánh 
lại với cái học cũ của ta, để xem điều 
gì hay, điều gì dở, cho người ta xét 
đoán mà tìm lấy đàng tấn tới về sau” 
(dẫn theo Nguyễn Văn Dương, 1995: 
795). Trong bối cảnh đất nước bế tắc 
về con đường cách mạng, Phan Châu 
Trinh không như một số nhà nho 
thanh liêm về quê ở ẩn, mà ông luôn 
trăn trở đi tìm con đường cách mạng 
cho dân tộc. Tư tưởng khai dân trí, 
thực sự làm cho dân tộc biết thay đổi 
tư duy cũ, để vươn lên tầm nhận thức 
mới cao hơn, phù hợp hơn với sự 
phát triển của thời đại. 
Những hoạt động khai dân trí nêu trên 
đã tạo cho xã hội Việt Nam một khuôn 
mặt mới, một dòng suy nghĩ mới. Ở 
đâu người ta cũng nghe nói đến tân 
thơ, tân học, hội nông, hội thương, cắt 
tóc, Âu trang và đặc biệt là văn học, 
giáo dục, bước sang một hướng đi 
mới tràn đầy sinh khí. 
2.4. Liên hệ về vai trò, vị trí giáo 
dục Việt Nam hiện nay 
Có thể nói rằng, những vấn đề mà 
“Khai dân trí” nêu ra vẫn có ý nghĩa 
đến ngày hôm nay. Trước hết, thể 
hiện ở mục đích của nền giáo dục là 
phải tạo nên những con người quốc 
dân mạnh mẽ, biết tự chủ, tự lập và tự 
 TRẦN MAI ƯỚC – TỪ TƯ TƯỞNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC CỦA 
6 
cường. Thứ hai, thể hiện ở phương 
thức giáo dục, đó chính là khơi gợi 
khả năng tư duy của người dạy và 
người học, tạo sự chủ động tiếp thu. 
Xác định: “Hiền tài là nguyên khí quốc 
gia”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư 
phát triển”, làm thế nào để phát triển 
giáo dục đào tạo, nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực nước nhà luôn 
là nhiệm vụ chính trị được Đảng và 
Nhà nước đặc biệt quan tâm, là một 
trong những nội dung quan trọng 
trong văn kiện của các kỳ Đại hội 
Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần 
thứ VI xác định: giáo dục nhằm mục 
tiêu hình thành và phát triển toàn diện 
nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế 
hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ 
thuật đồng bộ về ngành nghề, phù 
hợp với yêu cầu phân công lao động 
của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất 
là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, 
trực tiếp góp phần vào việc đổi mới 
công tác quản lý kinh tế và xã hội. 
Đến Nghị quyết Đại hội VII nêu rõ: 
mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm 
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, 
bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội 
ngũ lao động có tri thức và có tay 
nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, 
năng động và sáng tạo, có đạo đức 
cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu 
chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội VIII, về 
giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Đại 
hội nhấn mạnh với những nội dung 
chủ yếu: cùng với khoa học và công 
nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc 
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, 
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân 
tài. Tại Đại hội IX, về vấn đề giáo dục 
và đào tạo, Nghị quyết Đại hội nêu rõ: 
“Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo 
dục toàn diện, đổi mới nội dung, 
phương pháp dạy và học, hệ thống 
trường lớp và hệ thống quản lý giáo 
dục; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại 
hóa, xã hội hóa”. Tại Đại hội X, Văn 
kiện Đại hội khẳng định: “Giáo dục và 
đào tạo cùng với khoa học và công 
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền 
tảng và động lực thúc đẩy công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. 
Đảng chủ trương: đổi mới toàn diện 
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn 
nhân lực chất lượng cao, đặc biệt 
quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa mục 
tiêu giáo dục con người phát triển 
toàn diện, nhất là thế hệ trẻ. Đại hội 
Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong 
Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất 
nước thời kỳ quá độ đã nhấn 
mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học 
và công nghệ có sức mạnh nâng cao 
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi 
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng 
phát triển đất nước, xây dựng nền 
văn hóa và con người Việt Nam. Phát 
triển giáo dục và đào tạo cùng với 
phát triển khoa học và công nghệ là 
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo 
dục và đào tạo là đầu tư phát triển”. 
Thực hiện tinh thần của Đại hội, ngày 
4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú 
Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội 
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung 
ương khóa XI (Nghị quyết số 29-
NQ/TW) với nội dung đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (255) 2019 
7 
ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện 
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
và hội nhập quốc tế. Có thể nói rằng, 
Nghị quyết 29 - Hội nghị Trung ương 
8 (khóa XI) là nghị quyết chuyên đề có 
vai trò đặc biệt quan trọng đối với giáo 
dục - đào tạo, là yêu cầu, cũng đồng 
thời là cơ sở cho quá trình đổi mới 
mạnh mẽ giáo dục đào tạo của đất 
nước giai đoạn hiện nay. 
3. KẾT LUẬN 
Tìm hiểu tư tưởng đổi mới tư duy giáo 
dục của nhà văn hóa Phan Châu Trinh 
đầu thế kỷ XX, liên hệ về vai trò, vị trí 
giáo dục của Việt Nam hiện nay chúng 
ta có thể nhận thấy rằng, trong đời 
sống xã hội, giáo dục là lĩnh vực có 
vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, 
dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế 
phát triển tri thức ngày nay, giáo dục 
được xem là chính sách, biện pháp 
quan trọng hàng đầu để phát triển ở 
nhiều quốc gia trên thế giới và Việt 
Nam không phải là ngoại lệ. Con 
người vừa là mục tiêu, vừa là động 
lực cho sự phát triển xã hội, muốn 
phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố 
con người về thể chất và tinh thần, 
nhất là về học vấn, nhận thức về thế 
giới xung quanh để họ có thể góp 
phần xây dựng và cải tạo xã hội. Và 
chính giáo dục góp phần nâng cao 
dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày 
nay, giáo dục không chỉ góp phần tạo 
ra hệ thống giá trị xã hội mới mà còn 
đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng 
đội ngũ lao động có trình độ chuyên 
môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực 
có trình độ cao góp phần quan trọng 
phát triển khoa học công nghệ là yếu 
tố quyết định của kinh tế tri thức, làm 
giàu của cải vật chất, nâng cao chất 
lượng cuộc sống. 
Bên cạnh đó, trong bối cảnh mới, giáo 
dục góp phần bảo vệ chế độ chính trị 
của mỗi quốc gia, dân tộc, bởi giáo 
dục góp phần xây dựng đội ngũ lao 
động có trình độ cao, có bản lĩnh 
chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng 
chống lại những tư tưởng văn hóa độc 
hại du nhập vào Việt Nam trong chính 
quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu. 
Giáo dục cung cấp nguồn nhân lực có 
trình độ góp phần phát triển kinh tế, 
phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón 
đầu” rút ngắn thời gian công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2013. Văn kiện Đại hội thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội 
VI, VII, VIII, IX, X, XI). Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. Nguyễn Văn Dương. 1995. Tuyển tập Phan Châu Trinh. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_doi_moi_giao_duc_cua_phan_chau_trinh_dau_the_ky_xx.pdf