Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng

Tóm tắt: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề

cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, tư tưởng về công bằng của Người được thể hiện như

một trong những mục tiêu, khát vọng của mỗi người dân trong sự nghiệp đấu tranh và xây dựng xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, công bằng là mục tiêu quan trọng của sự phát triển

xã hội. Để thực hiện công bằng xã hội thì phải phân phối theo lao động, đồng thời, phải giải quyết

hài hòa quan hệ lợi ích giữa chủ và thợ, giữa công và tư, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã

hội và phúc lợi xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng phù hợp với nền kinh tế thị trường có

sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam.

pdf 9 trang yennguyen 4700
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng
 78
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng 
Đỗ Thị Kim Hoa1 
1 Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Email: hoatuanphuc@gmail.com 
Nhận ngày 23 tháng 9 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 10 năm 2019. 
Tóm tắt: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề 
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, tư tưởng về công bằng của Người được thể hiện như 
một trong những mục tiêu, khát vọng của mỗi người dân trong sự nghiệp đấu tranh và xây dựng xã 
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, công bằng là mục tiêu quan trọng của sự phát triển 
xã hội. Để thực hiện công bằng xã hội thì phải phân phối theo lao động, đồng thời, phải giải quyết 
hài hòa quan hệ lợi ích giữa chủ và thợ, giữa công và tư, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã 
hội và phúc lợi xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng phù hợp với nền kinh tế thị trường có 
sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam. 
Từ khóa: Công bằng, Hồ Chí Minh, phân phối. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: Ho Chi Minh Thought is a comprehensive and profound system of views on the 
fundamental issues of the Vietnamese revolution. In particular, his idea of equity is expressed as 
one of the goals and aspirations of every citizen in the cause of struggle and building socialism in 
Vietnam. According to Ho Chi Minh, equity is an important goal of social development. To 
achieve social equity, it is a must to conduct distribution in line with labour, and, at the same time, 
to handle harmoniously the relationships of interests between employers and workers, between the 
public and the private, and to distribute via the systems of social security and welfare. Ho Chi Minh 
Thought on equity is in line with the state-regulated market economy in Vietnam. 
Keywords: Equity, Ho Chi Minh, distribution. 
Subject classification: Philosophy 
1. Mở đầu 
Từ buổi bình minh của văn minh nhân loại, 
các triết gia và học giả đã đề cập đến công 
bằng. Công bằng chính là một trong những 
yếu tố quan trọng đảm bảo cho xã hội tiến 
bộ. Aristotle cho rằng, một nhà nước lý 
tưởng thì phải có công bằng. Theo ông, cả 
Đỗ Thị Kim Hoa 
 79
chế độ dân chủ và chế độ quả đầu đều có 
những khiếm khuyết về công bằng. Ông 
viết: “Cả quả đầu và dân chủ đều cho rằng 
công bằng là bình đẳng về phương diện 
tham gia chính quyền, nhưng theo người 
dân chủ, đó là sự bình đẳng giữa những 
người đồng đẳng, chứ không phải bình 
đẳng cho tất cả mọi người. Trong chế độ 
quả đầu, sự bất bình đẳng về phương diện 
tham gia chính quyền, lại được xem là công 
bằng, nhưng đó là sự công bằng giữa những 
người không đồng đẳng. Cả hai phe đều 
không để ý đến một yếu tố quan trọng, đó là 
khi áp dụng nguyên tắc bình đẳng, họ vừa 
là đối tượng, vừa là người phán xét. Và 
người ta, khi dính dáng đến quyền lợi của 
chính mình, đều không thể nào phán xét 
cho công minh được”; “trong khái niệm về 
sự công bằng chứa đựng một mối quan hệ 
đến con người cũng như vật chất, và một sự 
phân phối công bằng” [1, tr.170]; “Những 
ai đóng góp nhiều nhất cho quốc gia phải 
được thưởng nhiều hơn những người bình 
đẳng hoặc trội hơn về gốc gác quý tộc hay 
tự do, hoặc bình đẳng hay trội hơn về tài 
sản nhưng đức hạnh chính trị kém hơn” [1, 
tr.174]. Nhiều triết gia khác sau này cũng 
mong muốn xây dựng một xã hội công 
bằng. Việc tìm kiếm con đường đạt tới mục 
tiêu công bằng xuất phát từ những bất công 
trong thực tiễn. Theo C.Mác, xã hội tư bản 
chủ nghĩa là bất công vì có tình trạng nhà tư 
bản bóc lột người lao động làm thuê để xóa 
bỏ bất công thì phải xóa bỏ chế độ tư hữu 
và phân phối theo lao động. 
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lớn 
của Việt Nam. Trong tư tưởng của Người 
có tư tưởng về công bằng. Hồ Chí Minh 
mong muốn cho nước nhà được độc lập, 
nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Người 
phấn đấu không ngừng nghỉ để đem lại 
công bằng cho đất nước và cho nhân dân. 
Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng về 
công bằng trong văn hóa Phương Tây và 
văn hóa Phương Đông, tạo nên tư tưởng về 
công bằng có giá trị to lớn cả về mặt lý luận 
và thực tiễn. Bài viết này phân tích tư tưởng 
Hồ Chí Minh về vai trò của công bằng; về 
công bằng trong phân phối; về công bằng 
giữa “chủ và thợ”, giữa “công và tư”, giữa 
lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể; về đối xử 
công bằng giữa nam và nữ. 
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của 
công bằng 
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện công bằng là 
mục tiêu quan trọng của sự phát triển xã 
hội. Mượn lời của cố nhân, Hồ Chí Minh 
bày tỏ quan điểm của mình trước Hội đồng 
Chính phủ cuối năm 1966 về công bằng 
như sau: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không 
công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân 
không yên” [4, t.15, tr.224]. “Quần chúng 
rất thông cảm với hoàn cảnh thiếu hàng, 
quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối 
không công bằng” [4, t.15, tr.681]. Nhẽ ra 
túng thiếu luôn làm cho người ta phải lo 
lắng, tuy nhiên, thiếu thốn không đáng sợ 
bằng không công bằng. Nếu không thực 
hiện được sự công bằng thì lòng dân sẽ 
không yên. Vì chở thuyền cũng là dân mà 
lật thuyền cũng là dân, dân là gốc, nên dân 
không thuận thì xã hội cũng không phát 
triển. Câu nói trên không phải là chấp nhận 
sự nghèo đói và thiếu thốn, mà là khẳng 
định rằng, công bằng là mục tiêu và động 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 -2019 
 80
lực quan trọng của sự phát triển xã hội. 
Người dân có thể chấp nhận tình cảnh 
nghèo đói và thiếu thốn khi đất nước bị 
chiến tranh và thiên tai tàn phá, nhưng nếu 
phân phối không công bằng người dân sẽ 
không chấp nhận. 
Công bằng bao gồm công bằng về kinh 
tế, công bằng về chính trị, công bằng về văn 
hóa - xã hội. Thực hiện công bằng về kinh 
tế có vai trò hết sức quan trọng. Nó sẽ xóa 
bỏ được hình thức đặc quyền, đặc lợi đối 
với cá nhân hay tập thể. Có công bằng về 
kinh tế thì mới xóa bỏ được sự phân biệt về 
địa vị xã hội, người dân được đối xử bình 
đẳng trước pháp luật. Có thực hiện công 
bằng về kinh tế thì mối tương quan giữa 
quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và 
hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm 
được giải quyết thỏa đáng, người dân mới 
thực sự được làm và được hưởng đúng 
những gì mà pháp luật không cấm. Có thực 
hiện công bằng về kinh tế thì mới có công 
bằng về chính trị và công bằng về văn hóa - 
xã hội. Dân chủ là công bằng về chính trị. 
Có công bằng về kinh tế thì dân chủ mới 
được thực hiện. Dân chủ và công bằng về 
kinh tế luôn song hành cùng nhau, bổ sung 
cho nhau cùng phát triển. Vì vậy, Hồ Chí 
Minh đã rất chú trọng tới vấn đề công bằng 
về kinh tế (tức là công bằng trong phân 
phối). Thực hiện phân phối cho công bằng 
được Người coi là vấn đề nổi trội nhất trong 
việc đảm bảo công bằng. 
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng 
trong phân phối 
Kế thừa quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin 
về thực hiện công bằng trong phân phối, Hồ 
Chí Minh chủ trương thực hiện nguyên tắc 
phân phối theo lao động, Người viết: 
nguyên tắc sinh hoạt là: “Ai không làm thì 
không được ăn” và “Làm nhiều hưởng 
nhiều, làm ít hưởng ít” [4, t.8, tr.290]; 
nguyên tắc phân phối là: “Lao động nhiều, 
làm nhiều thì được phân phối nhiều, lao 
động ít, làm ít thì được phân phối ít, lao 
động khó, đòi hỏi trình độ cao thì được 
phân phối nhiều, lao động dễ, giản đơn thì 
được phân phối ít” [4, t.13, tr.216]; “Không 
nên có tình trạng người giỏi, người kém, 
việc khó, việc dễ, cũng công điểm như 
nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải tránh 
chủ nghĩa bình quân” [4, t.13, tr.216]. Chủ 
nghĩa bình quân cũng là một sự bất công vì 
người làm nhiều và người làm ít đều hưởng 
thụ như nhau. Chủ nghĩa bình quân không 
khuyến khích người lao động làm việc cống 
hiến, vì lợi ích của họ không được đảm bảo 
và tôn trọng. Nếu những người trong khả 
năng lao động mà không chịu lao động và 
vẫn được hưởng thụ của cải vật chất của xã 
hội như những người lao động, thì điều đó 
sẽ tạo nên những phản ứng tiêu cực, tâm lý 
chán nản, nhụt chí phấn đấu ở những người 
có năng lực muốn cống hiến. Chủ nghĩa 
bình quân sinh ra bệnh ỷ lại, chây lười, 
tham lam, vơ vét; làm cho lòng dân ly tán, 
gây ra mất đoàn kết, từ đó ảnh hưởng đến 
sự phát triển xã hội. 
Tư tưởng về công bằng của Hồ Chí Minh 
thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo cao cả 
của một vị lãnh tụ vĩ đại. Vào năm 1958, có 
một cử tri Hà Nội hỏi Người rằng: “Phải 
chăng trong xã hội xã hội chủ nghĩa ai không 
lao động cũng có ăn? Lại có người nói rằng 
không lao động thì không được ăn, vậy 
những người già yếu sẽ thế nào?”. Người 
đáp: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: 
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, 
Đỗ Thị Kim Hoa 
 81
không làm thì không được hưởng. Những 
người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước 
giúp đỡ chăm nom” [4, t.11, tr.404]. Như 
vậy, trong phân phối công bằng, Hồ Chí 
Minh không quên đến chế độ phúc lợi xã 
hội. Mặc dù trong lý luận Người không nhắc 
gì đến, hay chưa nói một cách cụ thể về phân 
phối thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã 
hội nhưng trong chính sách thực hiện công 
bằng phải kết hợp phân phối theo lao động 
với phân phối qua phúc lợi xã hội và an sinh 
xã hội. Người viết: “Hết sức chăm lo đời 
sống nhân dân. Phải ra sức phát triển sản 
xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân 
phối cho công bằng hợp lý, từng bước cải 
thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khoẻ 
và giải trí của nhân dân. Đặc biệt chú trọng 
các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ 
côi, các cụ già yếu và gia đình các liệt sĩ, 
thương binh, bộ đội, thanh niên xung phong” 
[4, t.15, tr.596]. 
Chính sách thực hiện công bằng thông 
qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội có sự 
ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển xã 
hội. Vì chính sách đó làm cho người dân tin 
vào một tương lai tốt đẹp để ra sức phấn 
đấu, học tập, lao động và cống hiến cho xã 
hội; tăng cường thêm tình yêu thương con 
người, yêu thương đồng loại, tăng cường 
tình đoàn kết keo sơn giữa thế hệ đi trước 
và thế hệ tiếp bước, giữa người chưa có cơ 
hội cống hiến cho xã hội với những người 
đã từng cống hiến hết mình kể cả xương 
máu cho đất nước, cho dân tộc. 
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng 
giữa “chủ và thợ”, giữa “công và tư” 
Để thực hiện công bằng, Người rất quan 
tâm đảm bảo lợi ích hài hòa giữa người thợ 
và người chủ trong hoạt động sản xuất. Hồ 
Chí Minh đã xác định: “Nhà tư bản không 
khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm 
họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ 
phải bảo vệ lợi quyền của công nhân. Đồng 
thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng 
để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu 
cầu quá mức. Chủ thợ đều tự giác tự động, 
tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên” [4, t.8, 
tr.267]. Trong lý luận của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, nhà tư bản là kẻ bóc lột, còn thợ 
(người làm thuê cho nhà tư bản) là kẻ bị 
bóc lột. Vậy mà Hồ Chí Minh lại chủ 
trương chủ thợ đều lợi. Có phải Hồ Chí 
Minh đã không đi con đường chủ nghĩa xã 
hội khi có chủ trương như vậy? Có phải Hồ 
Chí Minh đang chấp nhận bóc lột? Hoàn 
toàn không phải. Thực chất đây là tư tưởng 
về công bằng trong điệu kiện kinh tế thị 
trường. Nếu như nhà tư bản không được 
hưởng một số lợi hợp lý, hoặc người lao 
động làm thuê không được bảo vệ về quyền 
lợi, thì nền sản xuất không thể phát triển 
được. Hồ Chí Minh hiểu rằng, cái công 
bằng về lợi ích sẽ thúc đẩy cả chủ và thợ 
tích cực hăng say cống hiến xây dựng đất 
nước. 
 Trong mối quan hệ giữa nhà nước và tư 
nhân, Hồ Chí Minh cũng có một sự lý giải 
sâu sắc. Người chủ trương công tư đều lợi 
thì Nhà nước không thể tước đoạt những tư 
liệu sản xuất của nhà tư bản, không thể 
biến toàn bộ tài sản của nhà tư bản thành 
của chung của xã hội được. Vậy Hồ Chí 
Minh có phải là một người cộng sản chủ 
nghĩa? Một chiến sĩ cộng sản mẫu mực? 
Có ý kiến cho rằng, Hồ Chí Minh quá ưu 
ái những nhà tư bản dân tộc, xa rời quan 
điểm của chủ nghĩa Mác (quan điểm cho 
rằng tiến lên chủ nghĩa xã hội cần phải 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 -2019 
 82
quốc hữu hoá toàn bộ nền sản xuất tư bản 
chủ nghĩa, tư liệu sản xuất không còn của 
riêng một ai, mà thuộc về toàn xã hội). Với 
chủ trương công tư đều có lợi, Hồ Chí 
Minh đã vận dụng quan điểm của chủ 
nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với tình 
hình cụ thể của Việt Nam. 
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng đất 
nước “tiến dần” lên chủ nghĩa xã hội thì 
“công tư đều lợi” là một chủ trương đúng 
đắn. Vì nếu xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập 
tức, thì lợi ích của nhà tư bản sẽ bị ảnh 
hưởng, điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến sự 
phát triển kinh tế đất nước. Kinh tế muốn 
phát triển thì Nhà nước phải cho phép mọi 
người được tự do kinh doanh theo luật 
pháp. Hồ Chí Minh luôn đứng trên lập 
trường mácxít, lại thấu hiểu được hoàn cảnh 
của Việt Nam, mong mỏi làm sao cho nước 
nhà được độc lập, nhân dân được tự do, 
đồng bào ai cũng có ăn có mặc, ai cũng 
được học hành. Người hiểu rằng, giải quyết 
tốt mâu thuẫn lợi ích giữa kinh tế quốc 
doanh và kinh tế tư nhân, tạo sự công bằng 
giữa công và tư thì kinh tế mới phát triển 
tốt. Người cho rằng: “Công tư đều lợi. Kinh 
tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và 
sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho 
nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và 
nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những 
người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai 
gian lậu thuế thì phải trừng trị; Tư là những 
nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của 
nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực 
lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế 
nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ 
phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh 
đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi 
ích của đại đa số nhân dân” [4, t.8, tr.267]. 
Người hiểu rất rõ kinh tế tư bản tư nhân 
có thể dẫn đến tình trạng bóc lột, Người 
viết: “Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc 
lột công nhân nhưng đồng thời họ cũng góp 
phần vào xây dựng kinh tế” [4, t.8, tr.266]. 
Người làm kinh tế tư bản tư nhân thường có 
xu hướng bóc lột công nhân, người làm 
thuê chứ không phải người làm kinh tế tư 
bản tư nhân nào cũng bóc lột công nhân. Rõ 
ràng, Người nhận thấy sự đóng góp của họ 
cho sự phát triển kinh tế đất nước. Luận 
điểm này của Người là một sự vận dụng rất 
sáng tạo lý luận mácxít vào hoàn cảnh thực 
tiễn của Việt Nam. Hồ Chí Minh chủ 
trương đối xử công bằng với tất cả các 
thành phần kinh tế. Tất cả các thành phần 
kinh tế được tự do kinh doanh và hưởng lợi 
một cách công bằng. Đó cũng chính là một 
yếu tố dân chủ trong kinh tế để đảm bảo 
công bằng cho các thành phần kinh tế. 
Sự đối xử bình đẳng giữa các chủ thể 
kinh tế còn được luật hóa trong Hiến pháp 
Việt Nam năm 1959. Trong bản sửa đổi 
Hiến pháp 1959, với tư cách là Trưởng ban 
sửa đổi Hiến pháp, Hồ Chí Minh cho rằng: 
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức 
sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở 
hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. Sở 
hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của 
nhân dân lao động. Sở hữu của người lao 
động riêng lẻ. Một ít tư liệu sản xuất thuộc 
sở hữu của nhà tư bản” [4, t.12, tr.372]. 
Luận điểm này cho thấy, Hồ Chí Minh 
không phủ nhận tự do kinh doanh. Sự thừa 
nhận thành phần kinh tế tư bản tư nhân bằng 
Hiến pháp cho thấy rằng, người dân không 
bị tước mất quyền tự do kinh doanh, tự do 
làm kinh tế, hoạt dộng kinh doanh của họ 
được pháp luật bảo vệ. Quyền sở hữu tư liệu 
Đỗ Thị Kim Hoa 
 83
sản xuất được đảm bảo công bằng và được 
tôn trọng bằng Hiến pháp. 
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng 
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể 
Lợi ích vật chất là yếu tố quan trọng nhất 
trong việc kích thích tính tích cực của con 
người (con người ở đây có thể là một người 
riêng lẻ, một tổ chức xã hội hay cả một 
cộng đồng dân tộc). Lợi ích cá nhân thì kích 
thích tính tích cực của cá nhân, lợi ích tập 
thể thì kích thích tính tích cực của tập thể. 
Mỗi cá nhân là một thành viên của tập thể, 
mọi hoạt động của cá nhân đóng góp vào sự 
tồn tại và phát triển của một tập thể. Ngược 
lại, những hoạt động của cá nhân cũng bị 
quy định bởi sự tồn tại và phát triển của tập 
thể ấy. Do vậy, để những hoạt động của cá 
nhân phù hợp với sự phát triển của tập thể 
thì lợi ích riêng cũng phải phù hợp với lợi 
ích của tập thể và ngược lại. Chính vì vậy, 
Người chủ trương: kết hợp hài hòa giữa lợi 
ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích 
chung và lợi ích riêng. Người luôn tôn 
trọng lợi ích cá nhân, coi đó là một yếu tố 
không thể thiếu trong việc động viên mỗi 
người không ngừng phấn đấu, cống hiến 
cho xã hội. Đồng thời, Người cũng đề cao 
lợi ích tập thể, lợi ích của toàn xã hội. 
Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh nhận 
định: “Mỗi người là một bộ phận của tập 
thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp 
một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi 
ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là 
một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích 
chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích 
riêng của cá nhân mới có điều kiện để được 
thoả mãn” [4, t.11, tr.610]. 
Trong mối quan hệ giữa lợi ích riêng và 
lợi ích chung thì vai trò quyết định là ở lợi 
ích chung. Lợi ích của cá nhân luôn gắn 
liền với lợi ích của tập thể. Trong trường 
hợp lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích 
tập thể, đi ngược lại với lợi ích tập thể thì 
sớm muộn gì lợi ích riêng của cá nhân cũng 
phải phục tùng lợi ích chung của tập thể. 
Đây là một quy tắc dân chủ, thiểu số phải 
phục tùng đa số. Hơn nữa, nếu lợi ích cá 
nhân mà cứ cố tình đi ngược lại với lợi ích 
tập thể thì cá nhân đó sẽ bị rơi vào chủ 
nghĩa cá nhân, nó sẽ thành trở lực đối với 
sự phát triển của tập thể, của xã hội. Cá 
nhân ấy cũng bị loại ra khỏi tập thể ấy, 
cộng đồng ấy, xã hội ấy, mà sống thì không 
thể không có tập thể, cộng đồng, xã hội 
được. Khi tất cả phấn đấu cho mục tiêu 
chung của tập thể, của dân tộc, thì sẽ có lúc 
phải hy sinh một phần lợi ích riêng. Song 
về lâu dài, nếu lợi ích của tập thể, của dân 
tộc được đảm bảo thì lợi ích cá nhân cũng 
sẽ được quan tâm, củng cố. Vì thế, Người 
viết: “Mọi người nhận rõ lợi ích chung của 
dân tộc phát triển và củng cố thì lợi ích 
riêng của cá nhân mới có thể phát triển và 
củng cố. Cho nên lợi ích cá nhân ắt phải 
phục tùng lợi ích của dân tộc, chứ quyết 
không thể đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích 
dân tộc. Đó là một tiến bộ” [4, t.8, tr.143]. 
Trong bài “Đạo đức cách mạng” viết 
năm 1958, Hồ Chí Minh đã phân tích một 
cách sâu sắc rằng, mỗi cá nhân trong tập 
thể, trong cộng đồng không thể sống, lao 
động, học tập và đấu tranh với thiên nhiên, 
với dịch họa một cách đơn lẻ được. Từng cá 
nhân nhất định phải dựa vào lực lượng của 
tập thể, của xã hội, phải hoà mình vào trong 
tập thể, vào trong xã hội. Do đó, phải cương 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 -2019 
 84
quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí 
Minh cho rằng: “Đấu tranh chống chủ nghĩa 
cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích 
cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, 
sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân 
và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá 
nhân đó không trái với lợi ích của tập thể 
thì không phải là xấu” [4, t.11, tr.610]. 
Nhận thấy vai trò to lớn của việc đảm 
bảo công bằng giữa lợi ích cá nhân và lợi 
ích tập thể, Người đã rất chú trọng đến chế 
độ làm khoán. Chế độ khoán kích thích 
mạnh mẽ vào tính tích cực, hăng say làm 
việc của mỗi người. Cái làm cho lợi ích 
chung được đảm bảo mà lợi ích riêng cũng 
được quan tâm đúng mức, người lao động 
không bị thiệt thòi. Chế độ làm khoán là 
một sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung 
và lợi ích riêng. Sau này, chế độ làm khoán 
không được quan tâm, nhưng Hồ Chí Minh 
cho rằng, chế độ khoán là cần thiết. Người 
nói: “Chế độ làm khoán là một điều kiện 
của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích 
người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà 
máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại 
lợi riêng. Công nhân sản xuất nhiều vải, cố 
gắng nhiều, hưởng được nhiều; làm khoán 
tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta 
hiện nay” [4, t.10, tr.537-538]. Trong khi 
thực hiện chế độ làm khoán, Người cũng 
lường trước được những nhược điểm của 
chế độ làm khoán hay nảy sinh, đó là việc 
chạy theo số lượng. Chính vì vậy, Người 
nhắc nhở rằng: “Làm khoán phải nâng cao 
số lượng, nhưng luôn luôn phải giữ chất 
lượng” [4, t.10, tr.538]. Làm khoán chính là 
một sự phân phối công bằng dựa trên kết 
quả lao động và hiệu quả kinh tế. Thực hiện 
chế độ làm khoán là một sự đảm bảo công 
bằng khá chặt chẽ, thu hút được nhiều sức 
lực đóng góp của người dân. Đây là một tư 
tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về công 
bằng. 
Để đảm bảo công bằng được thực thi 
một cách hiệu quả, nhất thiết phải chú ý đến 
việc tham gia góp ý kiến của nhân dân, phải 
công khai thu chi tài chính và đặc biệt phải 
có sự kiểm soát của nhân dân tránh các 
bệnh. Người viết: “Muốn quản lý tốt hợp 
tác xã, cán bộ quản trị phải dân chủ, tránh 
quan liêu mệnh lệnh, làm việc gì cũng cần 
bàn bạc kỹ với xã viên. Làm việc theo lối 
mệnh lệnh, quan liêu, không dân chủ thì 
chắc chắn thất bại” [4, t.12, tr.317]; “Làm 
cho mọi người thật thấm nhuần tinh thần 
làm chủ tập thể, cùng nhau bàn bạc cách 
làm ăn, thực hiện quản lý dân chủ và tài 
chính công khai, chống tham ô, lãng phí” 
[4, t.14, tr.107]. 
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối xử công 
bằng giữa nam và nữ 
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình có 
truyền thống Nho giáo. Vậy, đúng ra, 
Người sẽ chấp nhận sự cam chịu của người 
phụ nữ trong gia đình. Nhưng không, với 
những năm tháng bôn ba tìm đường cứu 
nước, Người được tiếp xúc với nền văn hóa 
phương Tây (nam nữ bình quyền, bình 
đẳng), Hồ Chí Minh đã thực sự muốn loại 
bỏ những hủ tục lạc hậu đang đè nặng lên 
đôi vai người phụ nữ Việt Nam. Người thực 
sự mong muốn sự công bằng và bình đẳng 
giữa nam và nữ, đặc biệt là giữa người 
chồng và người vợ trong gia đình. Phụ nữ 
phải được tôn trọng và có quyền như đàn 
Đỗ Thị Kim Hoa 
 85
ông. Người viết: “Phải kính trọng phụ nữ. 
Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy 
bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang 
quyền như nhau... Nếu phụ nữ chưa được 
giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng 
cả. Phụ nữ thì phải tự mình phấn đấu giữ 
gìn quyền bình đẳng với đàn ông. Đàn ông 
phải kính trọng phụ nữ. Nhưng Bác nghe 
nói vẫn có người đánh chửi vợ! Đó là một 
điều đáng xấu hổ... Như thế là phạm pháp, 
là cực kỳ dã man” [4, t.15, tr.260]. 
Hồ Chí Minh nhận thấy, một sự thật đau 
lòng là người chồng trong gia đình Việt 
Nam vẫn mang nặng tư duy tiểu tư sản, tư 
duy gia trưởng phong kiến mà không cấp 
tiến. Họ tự cho mình cái quyền phán xét 
người vợ. Không chỉ có thế, người phụ nữ 
Việt Nam một lòng một dạ thương chồng 
thương con, đó là một đức tính tốt. Tuy 
nhiên, đôi khi người phụ nữ lại phục tùng 
người chồng một cách mù quáng mà không 
chịu đấu tranh, cả xã hội cũng có cái nhìn 
lệch lạc về việc đối xử bất công đối với 
người phụ nữ. Do vậy, Hồ Chí Minh không 
chỉ đề cập đến việc phụ nữ phải được đối 
xử công bằng với đàn ông, Người đã viết 
nhiều bài viết trên Báo Nhân dân nhằm kêu 
gọi nhân dân bảo vệ quyền của người phụ 
nữ, tránh cho phụ nữ bị đối xử bất công và 
pháp luật phải bảo vệ quyền của người phụ 
nữ. Người viết: “Những cử chỉ tàn nhẫn, dã 
man như vậy vừa là sự vi phạm pháp luật 
của nhà nước, vừa trái với tình nghĩa vợ 
chồng” [4, t.12, tr.706]; rằng, “Điều đáng 
trách nữa là, trước những hành động xấu xa 
và phạm pháp đó, chi bộ, chính quyền và 
nhân dân địa phương thường nhắm mắt làm 
ngơ!” [4, t.13, tr.524]. Để có thể chấn chỉnh 
và thay đổi được quan niệm cũng như khắc 
phục được tình trạng đó, Hồ Chí Minh chỉ 
đạo các cấp chính quyền và đoàn thể phải 
thực hiện một số công việc rất cụ thể như: 
“Ra sức tuyên truyền Luật Hôn nhân và Gia 
đình sâu rộng hơn nữa và phải chấp hành 
thật nghiêm chỉnh. Những thói dã man đánh 
vợ và ép con cần phải chấm dứt. Lợi quyền 
của phụ nữ cần được thật sự bảo đảm. Bản 
thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cường tự 
lập để giữ lấy lợi quyền của mình” [4, t.13, 
tr.524]. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh 
về công bằng là những tư tưởng có giá trị. 
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, 
chúng ta lại càng thấy giá trị to lớn của tư 
tưởng đó. 
7. Kết luận 
Tóm lại, trong tiến trình hội nhập quốc tế 
và phát triển xã hội nhanh, mạnh như hiện 
nay, nhận thức của con người càng ngày 
càng được mở rộng, khát vọng về một xã 
hội công bằng, bình đẳng sẽ càng được 
quan tâm hơn, nhu cầu được đối xử công 
bằng tăng lên rất nhiều so với trước đây. 
Những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về 
công bằng, dân chủ trong quan hệ và chuẩn 
mực kinh tế, thừa nhận sự tồn tại của các 
thành phần kinh tế và quyền sở hữu hàng 
hóa tương ứng, nhấn mạnh sự cần thiết phải 
phân phối công bằng, bình đằng giữa các 
đối tượng hoạt động kinh tế, công khai tài 
chính, giám sát và minh bạch trong quản lý 
kinh tế, chống tham nhũng, tham ô, lãng 
phí, đảm bảo công bằng giữa quyền lợi và 
nghĩa vụ, giữa lợi ích và trách nhiệm, giữa 
nam và nữ... sẽ đáp ứng được phần nào 
những nhu cầu về công bằng của người dân 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 -2019 
 86
Việt Nam. Ngay từ những năm đầu đổi 
mới, trong con mắt của một số nhà quan sát 
nước ngoài, họ đã nhận thấy, tình cảm và sự 
kính trọng của người dân Việt Nam dành 
cho Hồ Chí Minh khác hẳn với các lãnh tụ 
cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa khác. 
Họ nhận xét: “Sức mạnh của ông ta không 
dựa trên nỗi sợ hãi như Joseph Stalin, và 
ông ta không bao giờ bị đối xử trớ trêu như 
Leonid Brezhnev. Tôi nghĩ ở đây có sự tôn 
trọng thực sự đối với Hồ Chí Minh. Họ 
đang cố gắng tìm kiếm trong các tác phẩm 
của ông một cái gì đó tương ứng với các 
chính sách cải cách hiện tại” [6]. Những di 
sản mà Hồ Chí Minh để lại luôn có tác 
dụng cho công cuộc đổi mới của Việt Nam 
hơn 30 năm qua. Về mặt thực hiện dân chủ 
và công bằng xã hội, Việt Nam cần áp dụng 
tư tưởng ấy một cách tốt hơn nữa. Để thực 
hiện công bằng xã hội được tốt hơn, hiệu 
quả hơn, ngoài việc nỗ lực của Đảng và 
Nhà nước tăng cường củng cố bằng Hiến 
pháp và pháp luật, thì mỗi người dân cũng 
cần phải phát huy tinh thần trách nhiệm của 
mình đối với đất nước, để có được một xã 
hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Aristotle (2013), Chính trị luận, Nxb Thế giới, 
Hà Nội. 
[2] Nguyễn Minh Hoàn (2004), “Tư tưởng Hồ Chí 
Minh về công bằng và bình đẳng xã hội”, Tạp 
chí Triết học, số 10. 
[3] C. Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 [4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.8,11,12,15 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] Lê Hữu Tầng (2008), “Một số vấn đề lý luận 
và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công 
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí 
Triết học, số 1. 
[6]https://www.washingtonpost.com/archive/politi
cs/1990/05/09/ho-chi-minh-still-a-hero-in-
vietnam/9180bc11-e5a0-411a-9f06-
ce663c011987/?utm_term=.67499a5795f2

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_cong_bang.pdf