Ứng dụng công nghệ khoan xoay tuần hoàn nghịch để tăng tuổi thọ và công suất các giếng khoan khai thác nước ngầm vùng Hà Nội

Appling Reverse circulation rotary drilling technology for undergrournd

water exploiting wells in Hanoi

Uptonow, the drilling wells for underground water exploitation in Hanoi

area are exercuted by the cable drop drilling or rotary drilling technology.

With this technology, longevity of exloitating wells and capacity of water

extraction are reduced

Accordring to expricence from the Nhon Trach- Dong Nai area where

the hydrogeological condition is the same of in Hanoi, the paper

confirme that the reverse circulation rotary drilling technology can be

effective in Hanoi area.

pdf 8 trang yennguyen 1520
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng công nghệ khoan xoay tuần hoàn nghịch để tăng tuổi thọ và công suất các giếng khoan khai thác nước ngầm vùng Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng công nghệ khoan xoay tuần hoàn nghịch để tăng tuổi thọ và công suất các giếng khoan khai thác nước ngầm vùng Hà Nội

Ứng dụng công nghệ khoan xoay tuần hoàn nghịch để tăng tuổi thọ và công suất các giếng khoan khai thác nước ngầm vùng Hà Nội
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 49 
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ KHOAN XOAY 
TUẦN HOÀN NGHỊCH ĐỂ TĂNG TUỔI THỌ VÀ 
CÔNG SUẤT CÁC GIẾNG KHOAN KHAI THÁC 
NƯỚC NGẦM VÙNG HÀ NỘI 
NGUYỄN DUY TUẤN* 
NGUYỄN VĂN TÚC** 
Appling Reverse circulation rotary drilling technology for undergrournd 
water exploiting wells in Hanoi 
Uptonow, the drilling wells for underground water exploitation in Hanoi 
area are exercuted by the cable drop drilling or rotary drilling technology. 
With this technology, longevity of exloitating wells and capacity of water 
extraction are reduced 
Accordring to expricence from the Nhon Trach- Dong Nai area where 
the hydrogeological condition is the same of in Hanoi, the paper 
confirme that the reverse circulation rotary drilling technology can be 
effective in Hanoi area. 
1. CÔNG NGHỆ KHOAN LÀ YẾU TỐ 
CHÍNH GÂY SUY THOÁI NHANH GIẾNG 
KHOAN KHAI THÁC NƢỚC NGẦM Ở 
VÙNG HÀ NỘI * 
1.1. Công nghệ khoan giếng khai thác 
nƣớc ngầm ở Hà Nội qua các thời kỳ 
Trong hơn 1 thế kỷ khai thác nƣớc ngầm 
chứa trong tầng chứa nƣớc cát cuội sỏi 
Pleistocen (đƣợc các nhà ĐCTV gọi là tầng 
chứa nƣớc qp) bằng các giếng khoan đƣờng 
kính lớn đƣợc thi công với các công nghệ khoan 
khác nhau qua các thời kỳ. 
- Trƣớc năm 1954, ngƣời Pháp đã sử dụng 
phƣơng pháp khoan dộng trong ống chống, 
dùng ống chống để giữ thành giếng khoan, 
- Từ năm 1954 đến 1962 sử dụng phƣơng 
pháp khoan đập cáp bằng máy khoan YKC-22 
và YKC-30 của Liên Xô (cũ) viện trợ dùng mai 
chữ nhất (-) để phá vỡ cuội sỏi và dùng dung 
* Viện Công nghệ Khoan 
** Viện Địa chất, Nước và Môi trường 
dịch sét để giữ thành giếng khoan. 
- Từ 1962 đến nay sử dụng đồng thời 2 
phƣơng pháp khoan đập cáp và khoan xoay 
tuần hoàn thuận với dung dịch sét giữ thành 
giếng khoan. 
1.2. Tuổi thọ của giếng khoan đƣợc thi 
công qua các thời kỳ ở Hà Nội 
Trƣớc khi nhà máy nƣớc Sông Đà đi vào 
hoạt động (năm 2009), thì nƣớc ngầm chứa 
trong tầng cát cuội sỏi nằm ở độ sâu từ 30-
40m đến 70-80m là nguồn nƣớc duy nhất đáp 
ứng mọi nhu cầu cấp nƣớc sạch cho Thủ đô. 
Nguồn nƣớc ngầm của Hà Nội đƣợc ngƣời 
Pháp đƣa vào khai thác từ đầu thế kỷ 20 và 
đƣợc bắt đầu ở nhà máy nƣớc Yên Phụ nằm 
bên bờ sông Hồng bằng những giếng khoan. 
Lƣợng khai thác nƣớc ngầm ngày càng tăng 
theo sự phát triển của Thành phố. Thành phố 
phát triển đến đâu, thì các giếng khoan khai 
thác nƣớc ngầm cũng đƣợc phát triển đến đó. 
Bắt đầu là ở Yên Phụ (1929) rồi lan sang Đồn 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 50 
Thủy (1931) đều nằm bên bờ sông Hồng, tiếp 
đến là Ngọc Hà (1939), Ngô Sĩ Liên (1943) 
v.v. Đến nay, trên địa phận TP. Hà Nội đã có 
15 nhà máy nƣớc với khoảng hơn 300 giếng 
khoan đƣờng kính lớn, hàng ngày khai thác 
khoảng 700.000 m3/ngày, đáp ứng mọi nhu 
cầu cấp nƣớc sạch của Thủ đô, nhƣng hàng 
năm tổng công suất cấp nƣơc của Thành phố 
đã bị suy giảm mất 10%, do các giếng khoan 
bị suy thoái nhanh và mạnh. 
Năm 1983, trƣớc khi có Chƣơng trình cấp 
nƣớc Phần Lan, Công ty cấp nƣớc Hà Nội (Công 
ty nƣớc sạch Hà Nội hiện nay) đã có thống kê 
chƣa đầy đủ về hiện trạng thanh lý (tuổi thọ) của 
20 giếng khoan khai thác nƣớc ngầm thuộc 7 nhà 
máy nƣớc vùng nội thành (bảng 1) 
Bảng 1: Hiện trạng thanh lý các giếng khoan khai thác nƣớc ngầm Hà Nội 
STT Nhà máy nƣớc 
Số hiệu 
giếng 
Năm đƣa vào 
khai thác 
Năm thanh lý 
Tuổi thọ 
(năm) 
1 
Yên Phụ 
1 1929 1980 51 
2 2 1929 1980 51 
3 3 1929 1978 49 
4 4 1929 1980 51 
5 5 1929 1960 31 
6 6 1929 1978 49 
7 8 1929 1978 49 
8 Đồn Thủy 1 1931 1980 49 
9 2 1931 1980 49 
10 Ngọc Hà 1 1939 1970 31 
11 
Ngô Sĩ Liên 
1 1944 1982 28 
12 3 1958 1961 3 
13 4 1958 1961 3 
14 5 1962 1982 20 
15 7 1969 1975 6 
16 Lƣơng Yên 1 1953 1970 17 
17 
Tƣơng Mai 
1 1962 1980 18 
18 4 1962 1982 19 
19 5 1963 1980 17 
20 Hạ Đình 2 1965 1975 10 
Từ bảng 1 cho thấy: các giếng khoan đƣợc 
thi công thời Pháp thuộc (trƣớc năm 1954) có 
tuổi thọ cao, từ 49-51 năm, ít nhất cũng là 17-
28 năm; còn các giếng khoan đƣợc thi công 
sau năm 1954, thì tuổi thọ cao nhất cũng chỉ là 
17-19 năm, trung bình 10 năm và ít nhất chỉ 
có 3-6 năm, nhƣ các giếng của nhà máy nƣớc 
Ngô Sĩ Liên: 02 giếng số 3 và 4 chỉ tồn tại 3 
năm (1958-1961) và giếng số 6 tồn tại 6 năm 
(1969-1975). Gần đây nhất là các giếng của 
nhà máy nƣớc Nam Dƣ ở quận Hoàng Mai 
đƣợc bố trí theo dạng hành lang dọc bờ sông 
Hồng mới đƣợc thi công vào cuối những năm 
90 của thế kỷ trƣớc và đầu những năm 2000, 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 51 
nhƣng đến nay đã phải phục hồi lại hàng loạt 
bằng công nghệ “thay thế tầng lọc” của TS. 
Hoàng Văn Hƣng, có nghĩa là tuổi thọ của 
chúng cũng không quá 20 năm. 
1.3. Nguyên nhân gây suy thoái nhanh 
giếng khoan khai thác nƣớc ngầm vùng 
Hà Nội 
Sự ổn định trong hoạt động của 1 giếng 
khoan đƣợc xác định bằng 2 đại lƣợng: lƣu 
lƣợng nƣớc bơm lên và trị số hạ thấp mực 
nƣớc trong giếng khoan và đƣợc biểu thị 
bằng tỷ lƣu lƣợng của giếng khoan là tỷ số 
giữa lƣu lƣợng và độ hạ thấp mực nƣớc của 
giếng khoan. Tỷ lƣu lƣợng của giếng khoan 
càng giảm, thì độ suy thoái của giếng khoan 
càng tăng, tức là tuổi thọ của giếng khoan 
càng giảm. Từ bảng 1 trình bày về tuổi thọ 
của các giếng khoan đƣợc thi công qua các 
thời kỳ cho thấy: 
- Các giếng khoan đƣợc thi công trƣớc 
năm 1954 có tuổi thọ rất lâu, từ 49-51 năm, 
ít nhất cũng là 17-28 năm do đƣợc thi công 
bằng công nghệ khoan dộng trong ống chống 
sử dụng ống chống để giữ thành giếng 
khoan, nên độ thấm của tầng chứa nƣớc 
đƣợc giữ nguyên, dẫn đến tuổi thọ của giếng 
khoan rất dài. 
- Các giếng khoan đƣợc thi công sau năm 
1954 có tuổi thọ cao nhất cũng chỉ 17-19 
năm, trung bình chỉ có 10 năm, thậm chí có 
những giếng khoan chỉ tồn tại 3-6 năm do 
chúng đều đƣợc thi công bằng 2 công nghệ 
khoan đập cáp và khoan xoay tuần hoàn 
thuận là những công nghệ đã làm chặt tầng 
chứa nƣớc ở các mức độ khác nhau và sử 
dụng dung dịch sét để giữ thành giếng 
khoan, nên đã làm bít trát tầng chứa nƣớc, 
làm cho tuổi thọ của giếng khoan suy giảm 
nhanh, tức là độ suy thoái của giếng khoan 
khai thác nƣớc ngầm tăng nhanh. 
Vậy công nghệ khoan là yếu tố (nguyên 
nhân) chính gây suy thoái giếng khoan khai 
thác nƣớc ngầm ở vùng Hà Nội. 
2. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ KHOAN 
TUẦN HOÀN NGHỊCH ĐỂ TĂNG TUỔI 
THỌ VÀ CÔNG SUẤT CỦA CÁC GIẾNG 
KHOAN KHAI THÁC NƢỚC NGẦM 
VÙNG HÀ NỘI 
2.1. Đặt vấn đề 
Ở Việt Nam từ trƣớc tới nay, để khoan các 
giếng khoan khai thác nƣớc ngầm đều chỉ sử 
dụng 2 công nghệ khoan truyền thống là khoan 
đập cáp và khoan xoay. 
Trong công nghệ khoan xoay, dựa vào chiều 
(hƣớng) tuần hoàn (di chuyển) của dung dịch 
khoan và mùn khoan trong cần khoan và giếng 
khoan lại chia ra làm 2 loại công nghệ khoan 
xoay khác nhau là khoan tuần hoàn thuận và 
khoan tuần hoàn nghịch. Ở Việt Nam, từ trƣớc 
đến nay chỉ sử dụng công nghệ khoan tuần hoàn 
thuận để khoan các giếng khoan khai thác nƣớc 
ngầm cả trong đá gốc gắn kết lẫn trong đá gốc 
nứt nẻ và trong các trầm tích bở rời; còn khoan 
xoay tuần hoàn nghịch chỉ mới đƣợc nghiên cứu 
ứng dụng trong những năm gần đây, nhƣng đã 
đem lại hiệu quả kỹ thuật và kinh tế cao, cần 
phải đƣợc áp dụng rộng rãi. 
2.2. Nguyên lý vận hành của công nghệ 
khoan tuần hoàn nghịch 
Sự khác biệt giữa công nghệ khoan tuần hoàn 
nghịch so với tuần hoàn thuận ở nguyên lý tuần 
hoàn (di chuyển) của dung dịch khoan, mùn 
khoan trong cần khoan và giếng khoan. Trong 
công nghệ khoan tuần hoàn nghịch, thì nƣớc và 
dung dịch đƣợc cấp từ miệng giếng khoan đi 
xuống đáy giếng khoan, sau đó cùng mùn khoan 
đƣợc máy bơm (ly tâm, chân không, nén khí..) 
hút và đi bên trong cần khoan để đƣa lên trên 
mặt đất, tức là theo chiều ngƣợc lại so với công 
nghệ khoan tuần hoàn thuận. 
Hai yếu tố quan trọng nhất của phƣơng pháp 
duy trì nƣớc rửa tuần hoàn nghịch trong giếng 
khoan bằng khí nén là lƣu lƣợng khí nén để vận 
chuyển mùn khoan và dòng nƣớc rửa lên mặt 
đất và hệ số ngập của buồng phối khí trong 
giếng khoan. 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 52 
- Lưu lượng khí cần thiết để vận chuyển mùn 
khoan và dòng nƣớc rửa lên mặt đất đƣợc xác 
định theo công thức: 
Trong đó: 
 - Lƣu lƣợng khí cần thiết để vận chuyển 
mùn khoan và dòng nƣớc rửa lên mặt đất. 
- Lƣu lƣợng dòng nƣớc rửa vận chuyển 
lên mặt đất (m3/s). 
- Áp suất trong giếng khoan tạo chiều sâu 
đặt buồng phối khí – Mpa 
 – Áp suất khí quyển (áp suất không khí 
tại miệng giếng khoan) – Mpa 
 - Hiệu suất vận chuyển, lấy bằng 3 
Kết quả thực hiện cho thấy thay đổi phụ 
thuộc vào tốc độ dòng khí nén. Giá trị nhỏ 
nhất khi tốc độ dòng khí bằng 1m/s. 
- Hệ số ngập của buồng phối khí đƣợc xác 
định bằng công thức 
Trong đó: 
- hE- chiều sâu ngập của buồng phối khí tính 
từ mực nƣớc thủy tĩnh, m. 
- H= hE + ho - Tổng chiều cao đẩy cột nƣớc 
tính từ chiều sâu đặt buồng phối khí – m 
Hình 1. Sơ đồ duy trì nước rửa tuần hoàn ngược bằng khí nén 
h0- chiều cao đẩy cột nƣớc tính từ mực nƣớc thủy tĩnh, m; 
hE- chiều sâu ngập của buồng phối khí tính từ mực nƣớc thủy tĩnh, m. 
hU- chiều sâu còn lại của lỗ khoan. 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 53 
Từ hình 1 cho thấy, khí nén từ máy nén khí 
theo tyô 9 và ống dẫn khí 10 hàn gắn kết với cần 
khoan xuống buồng phối khí 2. Khi khí nén vào 
buồng 2 sẽ tạo lên sự chênh áp và dƣới tác dụng 
của áp suất khí nén, nƣớc rửa và mùn khoan 
đƣợc vận chuyển lên phía trên đi ra ngoài. 
2.3. Tính ƣu việt của công nghệ khoan 
xoay tuần hoàn nghịch 
Hình 2. Sơ đồ cấu tạo và nguyên lý làm việc 
của công nghệ khoan tuần hoàn nghịch 
bằng khí nén 
1- ống nâng; 
2- ống dẫn khí; 
3-buồng phối khí; 
4- ống hút 
Trong công nghệ khoan xoay tuần hoàn 
nghịch thì phƣơng pháp duy trì nƣớc rửa tuần 
hoàn ngƣợc bằng khí nén có ƣu điểm vƣợt trội, 
do các thành phần đƣợc đẩy lên mặt đất từ giếng 
khoan gồm khí, nƣớc và mùn khoan (dòng ba 
pha) không tác động trực tiếp đến thành giếng 
khoan nhƣ phƣơng pháp khoan xoay tuần hoàn 
thuận và thành giếng khoan đƣợc giữ bằng áp 
lực cột nƣớc từ mặt đất (miệng giếng), không 
làm chặt tầng chứa nƣớc nhƣ phƣơng pháp 
khoan đập cáp và ít bị bít trát thành giếng 
khoan, nên ít làm ảnh hƣởng đến đặc tính thấm 
của tầng chứa nƣớc. Vì vậy công suất cấp nƣớc 
của giếng khoan ổn định hơn, ít bị suy giảm hơn 
(xem hình 2). 
 2.4. Kết quả áp dụng công nghệ khoan 
tuần hoàn nghịch trong khoan giếng khai 
thác nƣớc ngầm ở vùng Nhơn Trạch - Đồng 
Nai, nơi có điều kiện địa chất - địa chất thủy 
văn gần tƣơng tự vùng Hà Nội 
a) Điều kiện địa chất - địa chất thủy văn 
vùng Nhơn Trạch 
- Địa tầng: gần tƣơng tự nhƣ vùng Hà Nội, 
đều là những trầm tích bở rời tuổi Pliocen (N2) 
dày 70-80m gồm: 
+ Trên cùng là những trầm tích hạt mịn gồm: 
cát sét, sét cát, cát, đôi nơi có lẫn ít sạn sỏi; 
phần trên bị phong hóa mạnh, màu loang lổ 
chứa nhiều hạt sạn sỏi laterit màu nâu gụ, gần 
tƣơng tự nhƣ các trầm tích Holocen thuộc 2 hệ 
tầng Thái Bình và Hải Hƣng của vùng Hà Nội. 
+ Tiếp theo phía dƣới là lớp sét bột cách 
nƣớc phân bố trên toàn bộ diện tích vùng Nhơn 
Trạch. Đây chính là tầng cách nƣớc, gần tƣơng 
tự nhƣ tầng sét thuộc hệ tầng Vĩnh Phú của 
vùng Hà Nội. 
+ Dƣới là tầng chứa nƣớc với thành phần là 
cát lẫn sạn sỏi tuổi Pliocen dầy 36-60m; gần 
tƣơng tự nhƣ tầng cát cuội sỏi tuổi Pleistocen 
thuộc hệ tầng Hà Nội - là tầng chứa nƣớc chính 
qp để kết cấu ống lọc của các giếng khoan khai 
thác nƣớc ngầm từ hơn 1 thế kỷ nay đáp ứng các 
nhu cầu cấp nƣớc của TP. Hà Nội. 
- Điều kiện địa chất thủy văn vùng Nhơn Trạch. 
Kết quả quan trắc và thống kê từ 38 giếng 
khoan ở vùng Nhơn Trạch cho thấy: lƣu lƣợng 
(công suất) đạt từ 3-19 l/s, hệ số dẫn nƣớc Km 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 54 
đạt 300-720m2/ngày, mực nƣớc tĩnh nằm ở độ 
sâu 5-20m, hàng năm dao động 17-19m. 
b, Máy móc thiết bị sử dụng cho công nghệ 
khoan tuần hoàn nghịch. 
- Máy khoan: Dùng bộ máy khoan УРБ-
ЗАМ-500 đã đƣợc cải tiến để khoan các giếng 
khoan khai thác nƣớc ngầm bằng công nghệ 
khoan tuần hoàn nghịch. 
- Dụng cụ khoan: Bộ cần khoan đƣờng kính 
ngoài 127mm, dày 9mm, dài 3,0m có hàn ống 
dẫn khí nén CS 33x27mm. 
- Chòong khoan: Loại 3 cánh đƣờng kính 
650mm và 550mm. 
- Máy nén khí: Hiệu PDS -750. 
c, Áp dụng công nghệ khoan tuần hoàn 
nghịch ở Nhơn Trạch. 
Trƣớc khi khoan giếng khai thác tại mỗi vị trí 
giếng khoan đều khoan 1 hố khoan thăm dò 
đƣờng kính 120mm, sâu 80m để xác định địa 
tầng phục vụ cho thiết kế giếng khoan khai thác. 
Theo yêu cầu của thiết kế, các giếng khoan khai 
thác đều đƣợc khoan đƣờng kính 550mm đến độ 
sâu 78m bằng công nghệ khoan xoay tuần hoàn 
nghịch với chế độ khoan nhƣ sau: 
- Tải trọng chiều trục lên chòong khoan: 
2500-3000N. 
- Tốc độ vòng quay: 25-30 vòng/phút. 
- Áp suất khí nén: 0,5-0,6 Mpa. 
- Sử dụng dung dịch sét để giữ thành giếng 
khoan với các thông số cơ bản nhƣ sau: trọng 
lƣợng riêng:1,05 - 1,1 g/cm3, độ nhớt biểu kiến 
22-24s, độ thải nƣớc: 8-10cm3/30ph. 
Sau khi khoan đến độ sâu thiết kế, các giếng 
khoan đƣợc kết cấu và lắp đặt theo quy trình 
tƣơng tự nhƣ kiểu các giếng khoan thi công 
bằng công nghệ khoan xoay tuần hoàn thuận 
(xem hình 3). 
d, Hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ 
khoan xoay tuần hoàn nghịch để khoan các 
giếng khoan khai thác nước ngầm ở vùng 
Nhơn Trạch. 
Ở vùng Nhơn Trạch - Đồng Nai bằng công 
nghệ khoan xoay tuần hoàn nghich đã khoan 
tổng cộng 16 giếng khoan khai thác nƣớc ngầm. 
Kết quả thực tế cho thấy các chỉ tiêu kinh tế - kỹ 
thuật đều đạt giá trị cao hơn các giếng khoan 
cùng thời bằng công nghệ khoan xoay tuần hoàn 
thuận (xem bảng 2). 
Bảng 2. So sánh kết quả khoan các giếng khoan khai thác nƣớc ngầm bằng 
công nghệ khoan tuần hoàn nghịch và thuận ở vùng Nhơn Trạch - Đồng Nai 
STT Chỉ tiêu so sánh 
Công nghệ khoan 
tuần hoàn thuận 
Công nghệ khoan 
tuần hoàn nghịch 
Tỷ lệ so sánh so với 
công nghệ khoan tuần 
hoàn thuận 
1 Thời gian khoan 1 
giếng (h/giếng) 
67,8 55,3 Giảm 18% 
2 Tiến độ khoan 
trung bình (m/h) 
1,12 1,45 Tăng 23% 
3 Lƣu lƣợng khai 
thác giếng (m3/h) 
93 105 Tăng 11% 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 55 
Hình 3. Cấu trúc địa tầng và giếng khoan khai thác nước dưới đất ở Nhơn Trạch- Đồng Nai 
khi khoan bằng phương pháp duy trì nước rửa tuần hoàn ngược bằng khí nén. 
KẾT LUẬN 
1. Công nghệ khoan đập cáp và khoan xoay 
tuần hoàn thuận là những công nghệ đã làm chặt 
tầng chứa nƣớc ở các mức độ khác nhau và sử 
dụng dung dịch sét để giữ thành giếng khoan đã 
bít trát tầng chứa nƣớc là những yếu tố chính 
gây suy thoái nhanh các giếng khoan khai thác 
nƣớc ngầm ở vùng Hà Nội. 
2. Với kết quả khoan 16 giếng khoan khai 
thác nƣớc ngầm ở vùng Nhơn Trạch - Đồng Nai 
đã cho thấy tính ƣu việt vƣợt trội của công nghệ 
khoan tuần hoàn nghịch so với tuần hoàn thuận 
cả về tiến độ khoan (1 giờ và 1 giếng) và công 
suất khai thác nƣớc ngầm của giếng khoan. 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1-2018 56 
3. Với điều kiện địa tầng và địa chất thủy văn 
của 2 vùng Nhơn Trạch - Đồng Nai và vùng Hà 
Nội gần tƣơng tự nhau gồm: địa tầng cần khoan 
qua đều là các trầm tích bở rời, thành phần 
thạch học của tầng chứa nƣớc đều là các trầm 
tích hạt thô (cát sạn sỏi ở Nhơn Trạch và cát 
cuội sỏi ở Hà Nội), chiều sâu của các giếng 
khoan đều không quá 80m, thì việc ứng dụng 
công nghệ khoan tuần hoàn nghịch để khoan các 
giếng khoan khai thác nƣớc ngầm ở vùng Hà 
Nội chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kỹ thuật và 
kinh tế cao, các giếng khoan khai thác nƣớc 
ngầm sẽ hoạt động ổn định hơn, lâu dài hơn và 
chậm bị suy thoái hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Xuân Thảo – 
Kết quả áp dụng công nghệ khoan tuần hoàn 
nghịch trong khoan khai thác nƣớc dƣới đất ở 
Nhơn Trạch, Đồng Nai - Tạp chí KHKT Mỏ - 
Địa chất, số 54, 4/2016 (chuyên đề Khoan - 
Khai thác). 
2. Nguyễn Duy Tuấn - Nghiên cứu ứng dụng 
công nghệ khoan tuần hoàn nghịch nâng cao 
công suất và tuổi thọ các giếng khai thác nƣớc 
ngầm khu vực Nam bộ - Tiểu luận - 2017. 
3. Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Văn Túc - 
Vấn đề suy thoái các giếng khoan khai thác 
nƣớc ngầm vùng Hà Nội - Tạp chí Tài nguyên 
nƣớc số 1 - năm 2018. 
4. Nguyễn Văn Túc - Nƣớc ngầm vùng 
đồng bằng Bắc bộ miền bắc Việt Nam và triển 
vọng cho cung cấp nƣớc lớn - Luận án tiến sĩ 
năm 1971. 
5. Nguyễn Văn Túc và nnk - Báo cáo kết quả 
thăm dò địa chất thủy văn giai đoạn thăm dò -
khai thác để mở rộng và nâng công suất 3 nhà 
máy nƣớc thuộc giai đoạn II Chƣơng trình cấp 
nƣớc Hà Nội - Phần Lan: Mai Dịch - 60.000 
m
3/ngày; Ngọc Hà: 45.000 m3/ngày và Lƣơng 
Yên: 45.000 m
3
/ngày - năm 1991 
6. Nguyễn Văn Túc - Trữ lƣợng nƣớc ngầm 
vùng Hà Nội và giải pháp cấp nƣớc cho Thủ đô. 
Tờ trình gửi Chủ tịch UBND TP. Hà Nội, Bộ 
trƣởng Bộ xây dựng và Bộ trƣởng Bộ Tài 
nguyên và Môi trƣờng - năm 2011. 
7. Phan Vĩnh Cẩn - Ứng dụng phƣơng pháp 
nổ mìn trong giếng khoan để phục hồi công suất 
khai thác nƣớc ngầm các giếng khoan vùng Hà 
Nội - 1988. 
Người phản biện: NGND.PGS.TS TRƢƠNG BIÊN 

File đính kèm:

  • pdfung_dung_cong_nghe_khoan_xoay_tuan_hoan_nghich_de_tang_tuoi.pdf