Vai trò của phát triển giáo dục đối với sự tăng trưởng kinh tế của Singapore giai đoạn 1961-1979

Tóm tắt: Giáo dục trở thành tâm điểm chú ý đối với các nhà kinh tế học khi nghiên

cứu về tăng trưởng kinh tế kể từ khi mô hình tăng trưởng Solow - Swan được giới

thiệu (năm 1956). Lần đầu tiên, yếu tố về lao động được đưa vào giải thích sự tăng

trưởng kinh tế trong dài hạn bên cạnh những yếu tố như năng suất, tích lũy vốn và

tiến bộ công nghệ. Tiếp đó, sự thành công của Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan,

Hong Kong - những quốc gia và vùng lãnh thổ nghèo tài nguyên, coi trọng phát

triển giáo dục, con người - càng thu hút sự chú ý mạnh mẽ của cộng đồng thế giới.

Giai đoạn 1961-1979 được xem là giai đoạn quan trọng, đặt nền tảng để Singapore

vượt qua những khó khăn ban đầu, tiến hành xây dựng và phát triển kinh tế đất

nước trở thành một nền kinh tế mở, năng động vào loại bậc nhất thế giới, trung tâm

tài chính thứ tư(**) của thế giới sau New York, London và Tokyo. Nội dung bài viết

xem xét mối quan hệ giữa giáo dục với tăng trưởng kinh tế tại Singapore giai đoạn

1961-1979, từ khi Singapore bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa đất nước cho tới khi

được OECD xếp vào hàng ngũ các nước NIC, nhằm làm sáng rõ vai trò của giáo dục

đối với sự tăng trưởng kinh tế của Singapore trong không chỉ giai đoạn đó mà còn

cho tới nay.

 

pdf 8 trang yennguyen 9260
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của phát triển giáo dục đối với sự tăng trưởng kinh tế của Singapore giai đoạn 1961-1979", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của phát triển giáo dục đối với sự tăng trưởng kinh tế của Singapore giai đoạn 1961-1979

Vai trò của phát triển giáo dục đối với sự tăng trưởng kinh tế của Singapore giai đoạn 1961-1979
Vai trũ của phỏt triển giỏo dục 
đối với sự tăng trưởng kinh tế của Singapore 
giai đoạn 1961-1979 
Nguyễn Thị Thu H−ờng(*) 
Tóm tắt: Giáo dục trở thành tâm điểm chú ý đối với các nhà kinh tế học khi nghiên 
cứu về tăng tr−ởng kinh tế kể từ khi mô hình tăng tr−ởng Solow - Swan đ−ợc giới 
thiệu (năm 1956). Lần đầu tiên, yếu tố về lao động đ−ợc đ−a vào giải thích sự tăng 
tr−ởng kinh tế trong dài hạn bên cạnh những yếu tố nh− năng suất, tích lũy vốn và 
tiến bộ công nghệ. Tiếp đó, sự thành công của Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, 
Hong Kong - những quốc gia và vùng lãnh thổ nghèo tài nguyên, coi trọng phát 
triển giáo dục, con ng−ời - càng thu hút sự chú ý mạnh mẽ của cộng đồng thế giới. 
Giai đoạn 1961-1979 đ−ợc xem là giai đoạn quan trọng, đặt nền tảng để Singapore 
v−ợt qua những khó khăn ban đầu, tiến hành xây dựng và phát triển kinh tế đất 
n−ớc trở thành một nền kinh tế mở, năng động vào loại bậc nhất thế giới, trung tâm 
tài chính thứ t−(**) của thế giới sau New York, London và Tokyo. Nội dung bài viết 
xem xét mối quan hệ giữa giáo dục với tăng tr−ởng kinh tế tại Singapore giai đoạn 
1961-1979, từ khi Singapore bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa đất n−ớc cho tới khi 
đ−ợc OECD xếp vào hàng ngũ các n−ớc NIC, nhằm làm sáng rõ vai trò của giáo dục 
đối với sự tăng tr−ởng kinh tế của Singapore trong không chỉ giai đoạn đó mà còn 
cho tới nay. 
Từ khóa: Giáo dục, Kinh tế, Chiến l−ợc phát triển nguồn nhân lực, NICs, 
Singapore, Lý Quang Diệu, PAP 
1. Giáo dục gắn liền với chiến l−ợc phát triển 
nguồn nhân lực 
Một đất n−ớc muốn thành công chỉ 
có thể dựa vào chính nội lực bản thân 
quốc gia đó,(*)(*)trong đó nguồn nhân lực 
(*) ThS., Khoa Đông Ph−ơng học, Tr−ờng Đại học 
Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia 
Hà Nội; Email: huong82dph@gmail.com 
(**) Tổng hợp kết quả nghiên cứu, GS.TS. Trần 
Thị Vinh vinh danh Singapore là “con đại bàng 
chính là nhân tố nội lực quan trọng nhất 
trong việc thúc đẩy sự phát triển. Bởi xét 
đến cùng thì tài nguyên sức ng−ời là yếu 
tố quan trọng nhất và cũng là yếu tố 
quyết định nhất quyết định tốc độ phát 
tài chính ph−ơng Đông”. Quốc đảo này là trung 
tâm dịch vụ, th−ơng mại của hầu hết các công ty 
đa quốc gia trên thế giới, đồng thời là thị tr−ờng 
trao đổi ngoại tệ bậc nhất toàn cầu với l−ợng ngoại 
tệ trao đổi mỗi ngày lên đến hơn 100 tỷ USD. 
Vai trò của phát triển giáo dục 29 
triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. 
Kỹ năng của lực l−ợng lao động và chất 
l−ợng cơ sở hạ tầng của một quốc gia là 
yếu tố quyết định tạo sức thu hút của 
quốc gia đó trong nền kinh tế thế giới. 
Sau khi giành độc lập, Chính phủ 
Singapore đã nhận thức sâu sắc rằng, 
ngoài tiềm năng con ng−ời và vị trí địa 
lý tự nhiên trời cho, Singapore không có 
một nguồn tài nguyên thiên nhiên nào 
khác(*). Để có thể tiếp tục tồn tại, 
Singapore không có con đ−ờng nào khác 
là đầu t− vào nguồn vốn con ng−ời 
thông qua giáo dục, đào tạo. Chủ tr−ơng 
này đã đ−ợc cựu Thủ t−ớng Singapore 
Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew) khẳng 
định trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 
Ngày độc lập năm 1967: “...Về lâu dài, 
giáo dục làm nên chất l−ợng của thế hệ 
trẻ, điều sẽ quyết định t−ơng lai của 
chúng ta. Và chúng ta phải đầu t− vào 
giáo dục nhiều hơn bất kỳ ngành nào 
khác... Tr−ờng học sẽ đào tạo học sinh, 
sân chơi sẽ giúp chúng khỏe mạnh và 
c−ờng tráng. Nh−ng quan trọng hơn, 
tr−ờng học dạy cho học sinh những tiêu 
chuẩn cao về hành vi cá nhân, những 
chuẩn mực tốt và xấu, đúng và sai của 
xã hội. Nếu không có những giá trị này, 
một thế hệ biết chữ có thể nguy hiểm hơn 
một thế hệ hoàn toàn thất học...” (Minister 
for Education’s Message to Students on 
Mr. Lý Quang Diệu (1923-2015), 
Mặt khác, giáo dục và đào tạo cũng là 
động lực chủ yếu mà thông qua đó mỗi 
cá nhân có cơ hội phát triển ngang 
nhau, tạo ra sự phát triển công bằng. 
(*) Mặc dù Singapore không có tài nguyên thiên 
nhiên phong phú, song vị trí địa lý chiến l−ợc ở 
ngã t− châu á mang lại cho quốc đảo này những 
tiềm năng “tài nguyên” vô cùng phong phú và 
nhiều −u thế phát triển. 
Cựu Thủ t−ớng Lý Quang Diệu từng 
tuyên bố: “Nếu thắng trong cuộc đua 
giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua kinh 
tế”, tức là nếu giáo dục đ−ợc đầu t− phát 
triển, đào tạo ra đ−ợc nguồn nhân lực 
chất l−ợng cao sẽ góp phần đ−a đất n−ớc 
tới thành công. Qua đó có thể nhận thấy 
t− t−ởng chỉ đạo “nhân tài lập n−ớc”(*) 
của Singapore là đặt con ng−ời vào vị trí 
trung tâm của chiến l−ợc phát triển. 
Điều này cũng lý giải tại sao trong 
những năm 1960-1970, Singapore có 
mức đầu t− cho giáo dục vào loại cao 
nhất ở châu á. Bình quân hàng năm chi 
phí cho giáo dục chiếm khoảng 20% 
tổng ngân sách quốc gia (Harry T. 
Oshama, 1990, tr.170). Nhà n−ớc tăng 
trợ cấp cho công tác đào tạo với nỗ lực 
đem lại một nền giáo dục phổ cập, mở ra 
nhiều tr−ờng dạy nghề, mở ra cơ hội lớn 
lao cho tất cả ng−ời dân hiện thực hóa 
tiềm năng của mình bất kể tình trạng 
thu nhập thấp kém của cha mẹ. 
Bảng: Chi phí dành cho giáo dục 
hàng năm 1959-1967(**) 
Năm Chi tiêu dành 
cho giáo dục 
(SGD) 
Tỷ lệ % trong 
tổng chi tiêu 
quốc gia 
1959 60.080.000 23,6 
1960 57.100.000 23,5 
1961 65.841.000 17,1 
1962 82.307.000 23,4 
1963 94.644.000 15,8 
(*) Muốn xây một ngôi nhà bề thế sang trọng và bền 
vững ắt phải có một nền móng vững chắc. Cựu Thủ 
t−ớng Singapore Lý Quang Diệu tin rằng, nếu lực 
l−ợng lao động của Singapore hay những vị trí cốt 
yếu trong cơ quan chính phủ là những nhân tài thì 
cho dù bất cứ chính sách phát triển nào cũng có thể 
hoàn thành với kết quả vĩ đại. Trên nền tảng đó, 
Singapore sẽ nhanh chóng “hóa rồng” và là “một 
con rồng thực” chứ không chỉ là hiện t−ợng. 
(**) Xem: Goh Chor Boon, S. Gopinathan (2006), p.13. 
30 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2015 
1964 103.806.000 31,7 
1965 112.806.000 28,8 
1966 124.076.000 23,4 
1967 135.051.000 22,8 
Để con ng−ời trở thành động lực 
phát triển, điều quan trọng là đặt mỗi 
ng−ời vào đúng vị trí của họ, rồi giải 
phóng và định h−ớng họ để họ có thể lao 
động và sáng tạo theo đúng khả năng và 
sở tr−ờng. Xuất phát từ nhận định nh− 
vậy, song song với chính sách phát triển 
quốc dân giai đoạn 1961-1964, Chính 
phủ Singapore đã triển khai Kế hoạch 5 
năm (1961-1965) nhằm thúc đẩy các 
tiêu chuẩn giáo dục cho ng−ời dân. Trên 
cơ sở của hệ thống giáo dục chính quy 
theo mô hình của n−ớc Anh đ−ợc áp 
dụng từ năm 1868(*), Chính phủ 
Singapore đã tiếp tục triển khai nhiều 
chính sách, biện pháp nhằm nâng cao 
chất l−ợng giáo dục. Các −u tiên tại thời 
điểm này là cung cấp miễn phí giáo dục 
tiểu học toàn cầu với ba đặc điểm chính: 
thứ nhất, đối xử công bằng đối với cả 
bốn nhóm giáo dục là tiếng Mã Lai, 
tiếng Hoa, tiếng Tamil và tiếng Anh; 
thứ hai, thiết lập tiếng Mã Lai là ngôn 
ngữ quốc gia; thứ ba, nhấn mạnh vào 
việc nghiên cứu toán học, khoa học và 
(*) Những di sản của ng−ời Anh trong thời gian 
dài thuộc địa nh− cơ cấu chính trị, luật pháp, 
ngôn ngữ, kinh nghiệm buôn bán th−ơng mại... 
trở thành một trong những yếu tố tích cực đối với 
sự phát triển của Singapore. D−ới sự cai trị của 
thực dân Anh, Singapore đã nhanh chóng phát 
triển thành đô thị th−ơng điếm, hải cảng, từ đó 
tạo nên sự cấp thiết phát triển các tr−ờng dạy 
học. Hệ thống giáo dục chính quy theo mô hình 
n−ớc Anh đ−ợc áp dụng từ năm 1868, những 
ng−ời tốt nghiệp đ−ợc gửi sang học tiếp tại các 
tr−ờng đại học nổi tiếng nh− Cambridge và 
Oxford. Bản thân cựu Thủ t−ớng Lý Quang Diệu 
và nhiều quan chức trong Chính phủ Singapore 
cũng từng tốt nghiệp đại học tại Anh. 
kỹ thuật. Triết lý đằng sau những mục 
tiêu đã đ−ợc nêu rõ là “duy trì cơ hội 
bình đẳng cho mọi công dân, thiết lập 
sự hợp nhất trong đa dạng và một 
ch−ơng trình đào tạo cho thế hệ mới 
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hiện 
đại, công nghiệp và công nghệ của xã 
hội t−ơng lai” (Ministry of Education, 
1966). Chính phủ đã triển khai nhiều 
chính sách hữu dụng nh− chính sách 
song ngữ (bắt buộc sử dụng tiếng Anh 
xuyên suốt trong đào tạo các bậc học, 
xây dựng các giáo trình song ngữ,...), 
giáo dục h−ớng nghiệp... 
- Đào tạo tiếng Anh xuyên suốt các 
bậc học 
Singapore là một quốc gia trẻ, đa dân 
tộc, đ−ợc hình thành trên nền tảng dân 
nhập c− từ Trung Hoa, Malaysia, ấn Độ, 
Sri Lanka và châu Âu (Anh, Đức, 
Mỹ)(*), vào năm 1960 chỉ có khoảng 
1,6 triệu ng−ời (Tham khảo: 
Các nhóm cộng đồng dân tộc nơi đây 
vẫn giữ đ−ợc nét đặc tr−ng của nền văn 
hóa và tiếng mẹ đẻ của mình. T−ơng ứng 
với các cộng đồng sắc tộc sống trên đảo 
quốc này, Singapore cũng chính là một 
n−ớc đa tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo, 
Hồi giáo, Cơ đốc giáo, Hindu giáo, Sikh 
giáo). Các cộng đồng dân c− sống xen 
kẽ trên một diện tích nhỏ hẹp, thống 
nhất về lãnh thổ tạo thuận lợi cho sự 
quản lý của Nhà n−ớc, song d−ờng nh− 
khó tránh khỏi những bất đồng, xung đột 
sắc tộc, tôn giáo. Nhận thức rõ đặc thù 
về nhân chủng, văn hóa nh− vậy, Chính 
phủ d−ới thời của Cựu Thủ t−ớng Lý 
Quang Diệu đã đ−a ra ph−ơng án chính 
sách song ngữ nhằm mục đích biến tiếng 
(*) Singapore thời điểm khi mới đ−ợc Stamford 
Raffles phát hiện năm 1819 chỉ có khoảng 150 
ng−ời dân sống rải rác dọc bờ sông. 
Vai trò của phát triển giáo dục 31 
Anh thành ngôn ngữ chung để làm cầu 
nối cho mọi công dân có nguồn gốc chủng 
tộc khác nhau. 
Từ năm 1966, Chính phủ quy định 
tất cả học sinh ở cấp tiểu học buộc phải 
học song ngữ (tiếng Anh và tiếng mẹ 
đẻ). Đó là b−ớc ngoặt quan trọng không 
những tạo dựng bản sắc dân tộc quốc 
gia Singapore, là chìa khóa để mở cửa 
vào thế giới ph−ơng Tây mà còn tạo ra 
sự bình đẳng, cơ hội tìm kiếm việc làm. 
Việc lựa chọn ngôn ngữ phổ thông là 
tiếng Anh, chứ không phải tiếng Hoa 
(dân số Singapore đa số là gốc Hoa, 
chiếm 75%), đã xua đi sự hoài nghi của 
các n−ớc láng giềng nhìn Singapore nh− 
là một n−ớc Trung Hoa thứ ba (ngoài 
Trung Quốc Đại lục và Đài Loan) (Dẫn 
theo: Phạm Đức Thành, 2001, tr.148)(*). 
Chủ tr−ơng của Đảng PAP(**) và cựu 
Thủ t−ớng Lý Quang Diệu là dùng tiếng 
Anh nh− một ngôn ngữ cho th−ơng mại 
và kỹ thuật, hay nói cách khác là dùng 
tiếng Anh nh− một công cụ kinh tế. Cựu 
Thủ t−ớng Lý Quang Diệu cho rằng 
tiếng Anh là ph−ơng tiện quan trọng 
nhất, nhanh nhất để tiếp cận văn hóa, 
công nghệ của thế giới. Học tập và sử 
dụng tiếng Anh trong giao tiếp th−ờng 
ngày sẽ giúp chắt lọc những tinh hoa 
nhân loại để hòa chung vào công cuộc 
phát triển của đất n−ớc. Chính phủ d−ới 
thời cựu Thủ t−ớng Lý Quang Diệu cho 
rằng, chỉ bằng tiếng Anh thì các sinh 
viên sau khi ra tr−ờng mới có thể nắm 
bắt đ−ợc các kiến thức của thế giới và 
làm đ−ợc việc. Điều này xuất phát từ 
(*) Theo thống kê từ đầu những năm 1980, 90% 
trong số những ng−ời đ−ợc phỏng vấn trả lời 
muốn tự gọi mình là ng−ời Singapore với một 
bản sắc dân tộc mới. 
(**) PAP (People Action Party) - Đảng Nhân dân 
hành động nắm quyền ở Singapore từ khi n−ớc 
này đ−ợc thành lập cho đến nay. 
thực tế là những học sinh tốt nghiệp 
tr−ờng Anh ngữ dễ tìm việc làm hơn và 
có mức l−ơng cao hơn so với các học sinh 
tốt nghiệp tr−ờng Hoa hay tr−ờng Mã 
Lai hoặc tr−ờng Tamil. 
Từ sau những năm 1950, ngày càng 
có nhiều phụ huynh gửi con em tới các 
tr−ờng học đào tạo bằng Anh ngữ, từ chỉ 
49% học sinh đăng ký học ở hệ thống 
tr−ờng này năm 1960, đã tăng lên tới 
66% năm 1970 và 91% năm 1979 (Goh 
Chor Boon, S. Gopinathan, 2006, p.106). 
Nguyên nhân của trào l−u này xuất 
phát từ vấn đề kinh tế. Kinh tế 
Singapore đã gắn chặt chẽ với thế giới 
bên ngoài, đặc biệt là với các quốc gia 
phát triển, nơi mà ngôn ngữ quốc tế sử 
dụng trong buôn bán, th−ơng mại là 
tiếng Anh. Hơn nữa, tất cả tập đoàn đa 
quốc gia ở Singapore - nơi các nhân viên 
luôn đ−ợc chào đón - đều sử dụng ngôn 
ngữ tiếng Anh. Có thể nói rằng, sau khi 
đ−ợc truyền bá và rồi trở thành ngôn 
ngữ độc tôn trong tất cả mọi lĩnh vực, 
tiếng Anh đã góp phần tạo điều kiện 
thuận lợi và thu hút các nguồn đầu t− 
vào Singapore, đồng thời giúp n−ớc này 
ở vị trí thuận lợi hơn trong quá trình 
toàn cầu hóa. 
- Giáo dục h−ớng nghiệp 
Đầu những năm 1960, Chính phủ 
tiến hành sáp nhập các tr−ờng của từng 
nhóm cộng đồng dân tộc lại và thực hiện 
thống nhất ch−ơng trình giảng dạy 
trong cả n−ớc. Trong khoảng thời gian 
1960-1965, số trẻ đăng ký vào học ở cấp 
2 đã tăng gấp đôi, đây đ−ợc xem là lực 
l−ợng dự bị lao động trong lĩnh vực toán 
học và khoa học cơ bản. 
Từ năm 1968 trở đi, tất cả học sinh 
nam và một nửa học sinh nữ ở cấp trung 
học lớp d−ới bắt buộc học thêm các môn 
32 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2015 
khoa học và kỹ thuật th−ờng thức. Tất 
cả các học sinh ở cấp trung học lớp trên 
bắt đầu đ−ợc đào tạo h−ớng nghiệp. 
Trong giáo dục và đào tạo, Chính phủ 
rất coi trọng giáo dục pháp luật, chú 
trọng đến các môn khoa học tự nhiên, 
khoa học ứng dụng, khoa học quản lý 
kinh tế và nghiệp vụ kinh doanh. 
Bảng: Số học sinh nhập học 
tiểu học và trung học(*) 
Năm 
Tiểu học 
(học sinh) 
Trung học 
(học sinh) 
1959 272.254 48.723 
1960 290.576 59.314 
1961 307.981 67.857 
1962 324.697 72.308 
1963 341.620 84.425 
1964 353.622 99.592 
1965 362.672 114.736 
1966 370.899 132.088 
1967 373.437 144.448 
1972 354.936 161.371 
Với chính sách giáo dục đề cao tính 
thực tiễn, học sinh sẽ đ−ợc tạo điều kiện 
để tôi luyện kiến thức, biến lý thuyết 
thành thực tiễn hành động; có cơ hội hấp 
thụ một cách nhanh chóng những cái mới 
của thế giới do nền giáo dục thực tiễn 
Singapore đã tiếp cận với thế giới ngay 
từ những năm tiểu học và trung học. 
2. Phát triển giáo dục gắn liền với chính sách 
công nghiệp 
Vào cuối những năm 1960, Chính 
phủ bắt đầu điều hành hệ thống giáo 
dục trên cơ sở quản lý kinh tế nhằm 
mục đích tối −u hóa sự tăng tr−ởng kinh 
tế trung hạn với hai mục tiêu song song 
(*) Xem: Goh Chor Boon, S. Gopinathan (2006), p.12. 
là đào tạo những thợ thủ công lành 
nghề và kỹ thuật viên bậc cao - lực 
l−ợng thiết yếu cho quá trình phát triển 
công nghiệp. Chính phủ Singapore sớm 
có chủ tr−ơng gắn liền giáo dục - đào tạo 
với chính sách công nghiệp. Các nhu cầu 
đ−ợc xác định thông qua quá trình phối 
hợp giữa Chính phủ và các cơ quan khu 
vực công quan trọng (chẳng hạn nh− 
EDB - ủy ban Phát triển kinh tế, trực 
thuộc Bộ Th−ơng mại và Đầu t− 
Singapore, đ−ợc thành lập năm 1961) có 
liên quan trong quá trình lập kế hoạch 
và hoạch định chính sách. 
Với tốc độ phát triển ngày càng tăng 
của công nghiệp hóa, năm 1964, các 
trung tâm dạy nghề đầu tiên đ−ợc thành 
lập trong hệ thống tr−ờng học. Cùng với 
xu h−ớng này, ch−ơng trình đào tạo nghề 
đã đ−ợc chuyển giao từ Bộ Lao động cho 
Sở Giáo dục kỹ thuật (TED - Technical 
Education Department - thành lập tháng 
6/1968, thuộc Bộ Giáo dục). Theo đó, các 
học sinh phải học thêm các môn khoa 
học và kỹ thuật th−ờng thức trong hai 
năm đầu tiên. Trong một tuần, tất cả 
học sinh nam và một nửa số học sinh nữ 
trung học buộc phải tham gia một buổi 
thực hành ở x−ởng ngoài giờ học bình 
th−ờng. Số nữ sinh còn lại phải tham 
gia khóa học kinh tế gia đình. Những 
thay đổi này đã đ−ợc thiết kế để cho 
phép học sinh không chỉ biết đ−ợc con 
chữ, khả năng làm toán và đối diện với 
các khái niệm mà còn đ−ợc h−ớng dẫn 
các kỹ năng thông qua thực hành ở 
x−ởng. Năm 1972, đã có 9 viện dạy nghề 
đ−ợc thành lập và số sinh viên tốt nghiệp 
hàng năm tăng hơn m−ời lần, từ 324 sinh 
viên (năm 1968) lên tới hơn 4.000 sinh 
viên (Law Song Seng, 1996, p.10). 
Đến năm 1973, TED đã phát triển 
đ−ợc một cơ sở hạ tầng đào tạo sẵn sàng 
Vai trò của phát triển giáo dục 33 
cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Đây 
đ−ợc coi là b−ớc cần thiết để thiết lập 
một cơ quan độc lập tốt hơn nhằm đáp 
ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp 
đang phát triển nhanh chóng. Kết quả là 
Ban Đào tạo công nghiệp (ITB - the 
Industrial Training Board) đ−ợc thành 
lập vào năm 1973. Ban này có nhiệm vụ 
điều phối và tăng c−ờng đào tạo nhân lực 
phục vụ cho các ngành công nghiệp. Việc 
thành lập ITB là mốc đánh dấu sự ra đời 
một hệ thống đào tạo nghề bên ngoài hệ 
thống tr−ờng học tại Singapore. 
Tr−ớc nhu cầu tuyển dụng các công 
nhân lành nghề để điều hành các hoạt 
động dây chuyền phức tạp và ngành công 
nghiệp chính xác tại các nhà máy, Chính 
phủ cũng đã chú trọng tới công tác đào 
tạo tại chức. Các công ty đa quốc gia 
(MNCs) phối hợp chặt chẽ với chính 
quyền, công đoàn để tổ chức các ch−ơng 
trình đào tạo đáp ứng những nhu cầu 
công việc cho công nhân, trong đó quy 
định bắt buộc những công nhân có năng 
lực kỹ thuật cũng phải tham dự khóa học 
trên cơ sở tự do lựa chọn một trong các 
khóa học đó. Chính quyền đã cung cấp 
những lợi ích về mặt tài chính cho các 
công ty đa quốc gia để họ tham dự vào 
các trung tâm đào tạo kỹ thuật, tạo cơ 
hội cho các nhân viên thụ h−ởng những 
khóa học đào tạo kỹ thuật từ những tập 
đoàn hàng đầu thế giới. 
Song song với ch−ơng trình học tập 
chính quy tại nhà tr−ờng, chính sách 
giáo dục của Singapore cũng h−ớng tới 
việc đào tạo bổ túc cho các đối t−ợng lao 
động. Các ch−ơng trình đào tạo đ−ợc áp 
dụng trên nhiều đối t−ợng dân chúng. 
Hội đồng Giáo dục dành cho ng−ời lớn 
(AEB - the Adult Education Board) đ−ợc 
thành lập từ năm 1958 nhằm đáp ứng 
nhu cầu giáo dục của công nhân sau một 
thời gian hoạt động cũng đã tiến hành 
cải cách ch−ơng trình hoạt động. Các 
AEB bắt đầu tập trung hơn vào các 
ch−ơng trình định h−ớng nghề nghiệp 
để bổ sung cho đào tạo nghề và công 
nghiệp. Năm 1979, để hợp lý hóa các 
chức năng và các nguồn lực một cách 
hiệu quả hơn, hai hội đồng AEB và ITB 
đ−ợc sáp nhập thành Ban Đào tạo công 
nghiệp và nghề nghiệp (VITB - Vocational 
and Industrial Training Board)(*). VITB 
tập trung vào việc tiếp tục mở rộng hệ 
thống đào tạo, phát triển ch−ơng trình 
mới dành cho những học sinh sau khi rời 
tr−ờng và ng−ời lao động, nâng cao hơn 
chất l−ợng môi tr−ờng đào tạo. 
Đa dạng hóa chủ thể đào tạo, đa 
dạng hóa loại hình đào tạo không chỉ góp 
phần phát triển giáo dục mà còn giúp 
Chính phủ Singapore tiết kiệm ngân 
sách, tập trung cho phát triển kinh tế. 
3. Giáo dục chủ nghĩa đoàn kết quốc gia dân tộc 
Ngoài việc giáo dục kiến thức khoa 
học, kỹ thuật và pháp luật, Chính phủ 
Singapore luôn chủ tr−ơng giáo dục văn 
hóa truyền thống và tinh thần đoàn kết 
dân tộc quốc gia. Đây là một trong 
những mắt xích cơ bản của chiến l−ợc 
phát triển nguồn nhân lực mà Chính 
phủ Singapore đã và đang theo đuổi(*). 
Đảng PAP đặt lợi ích của dân tộc 
lên trên hết, lãnh đạo với quan niệm giá 
trị: Quốc gia tối th−ợng; xã hội tr−ớc hết; 
gia đình là nền tảng; xã hội là gốc rễ; 
quan tâm xã hội; tôn trọng cá nhân; bàn 
bạc đồng thuận; tránh va chạm; khoan 
dung sắc tộc; tôn giáo hòa hợp nhau. 
Thông qua các hoạt động giáo dục cộng 
(*) Tham khảo thông tin từ trang web của Bộ 
Giáo dục Singapore. 
(*) Tổng hợp từ: Government and politics of 
Singapore, Revised Edition, Oxford University 
Press, Singapore, 1987, p.54-66. 
34 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2015 
đồng và văn hóa nghệ thuật, Singapore 
đã nỗ lực giữ gìn tính nhất trí xã hội 
(tính tập thể) và giữ gìn mức độ tự do 
nhất định của cá tính (tính cá nhân); 
đ−ờng lối này có tính bao dung và tính 
linh hoạt rất lớn, do đó đ−ợc đông đảo 
ng−ời dân ủng hộ và có hiệu quả rõ rệt. 
Chính phủ luôn chủ động nhìn nhận và 
linh hoạt trong triển khai đồng bộ nhiều 
biện pháp nhằm xóa bỏ hàng rào ngăn 
cách và sự xung đột giữa các dân tộc, 
tôn giáo nơi đây. Nói cách khác, chính 
sách đoàn kết dân tộc đa nguyên nhất 
thể hóa đúng đắn đ−ợc Chính phủ 
Singapore theo đuổi trong suốt chiều 
dài lịch sử đã góp phần tạo nên tính đa 
dạng trong thống nhất ở cộng đồng 
ng−ời dân Singapore, với mục tiêu tất cả 
mọi ng−ời không quên nguồn gốc của 
mình, tôn thờ những giá trị văn hóa lâu 
đời của dân tộc, nh−ng đồng thời cũng ý 
thức rằng họ có một Tổ quốc chung là 
Singapore hài hòa và phát triển. Về 
điều này, cựu Thủ t−ớng Lý Quang Diệu 
từng khẳng định: “...Tiếng Anh là một 
ngôn ngữ chúng ta học và sử dụng. 
Nh−ng chúng ta phải giữ lại đ−ợc phần 
văn hóa của chính mình - phần mà dẫn 
chúng ta trở lại với lịch sử, với nền văn 
hóa, với nền văn minh của chúng ta...” 
(Lee Kuan Yew, 2012, p.32). 
Và trong Lễ kỷ niệm 300 năm ngày 
sinh của Guru Gobind Singh - nhà thơ 
và triết gia ấn Độ, Lý Quang Diệu đã 
khẳng định rằng: “...những ng−ời bạn 
của tôi có thể tổ chức lễ mừng sinh nhật 
Khổng Tử. Các bạn có thể kỷ niệm 300 
năm ngày sinh Suru Gobind Singh. 
Nh−ng tôi muốn nói với bạn một điều 
chung giữa chúng ta, đó là chúng ta đều 
đang tổ chức ở Singapore... Môi tr−ờng 
cộng tồn này mang lại cho chúng ta khả 
năng tồn tại với suy nghĩ muốn tiếp tục 
sống và trở thành một dân tộc...” (Lee 
Kuan Yew, 2012, p.8). Điều đó có nghĩa 
là, cần phải trên cơ sở tinh thần yêu n−ớc 
và tinh thần đoàn kết dân tộc thì cả 
Chính phủ và nhân dân Singapore mới có 
thể đồng lòng h−ớng tới mục tiêu phát 
triển chung của quốc gia. Nói cách khác, 
hòa hợp dân tộc và ổn định xã hội cũng 
chính là điều kiện cần thiết để tăng 
tr−ởng kinh tế. 
4. Một số nhận xét 
Cùng với sự phát triển và đầu t− 
cho giáo dục ở Singapore, kinh tế n−ớc 
này đã tăng tr−ởng v−ợt bậc. Giai đoạn 
1963-1979, kinh tế Singapore tăng 
tr−ởng trung bình 9,9 %/năm (Tan K. Y, 
1995, p.55-75). Nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy, giáo dục đóng vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy và tạo sự tăng 
tr−ởng kinh tế ở Singapore. Điều này 
thể hiện qua các luận điểm sau: 
Thứ nhất, xã hội hóa giáo dục ở 
Singapore là chính sách đúng đắn và 
hợp lý. Việc mở rộng mạng l−ới đào tạo, 
gia tăng nhiều loại hình đào tạo góp 
phần làm giảm gánh nặng cho ngân 
sách quốc gia và xây dựng môi tr−ờng 
rèn luyện nâng cao kiến thức và kỹ 
năng chuyên môn cho ng−ời học. Chính 
sách giáo dục - đào tạo ở Singapore cũng 
đã “thiết lập đ−ợc nền tảng phù hợp” 
cho tăng tr−ởng, bao gồm tích lũy vốn 
nhân lực thông qua phổ cập giáo dục 
tiểu học và trung học, trong khi giáo dục 
đại học ngày càng đ−ợc mở rộng v−ợt ra 
ngoài phạm vi quốc gia. 
Thứ hai, phát triển kinh tế gắn liền 
với chiến l−ợc phát triển nguồn nhân lực. 
Nguồn nhân lực có tri thức và tay nghề 
đã trở thành vốn nhân lực đóng góp vào 
quá trình triển khai chiến l−ợc phát 
triển quốc gia. Ch−ơng trình giáo dục - 
Vai trò của phát triển giáo dục 35 
đào tạo của Singapore cho thấy, n−ớc 
này luôn chú trọng tới sự kết hợp hài hòa 
giữa truyền thống với hiện đại. Chính 
sách giáo dục bằng song ngữ (tiếng mẹ 
đẻ và tiếng Anh), giáo dục h−ớng nghiệp 
và giáo dục chủ nghĩa đoàn kết quốc gia 
dân tộc qua hơn ba thập kỷ qua đã mài 
mòn hàng rào ngăn cách dân tộc về ngôn 
ngữ, lối sống và nghề nghiệp, hình thành 
bản sắc quốc gia - dân tộc Singapore. 
Việc sử dụng tiếng Anh, ngoài sự thể 
hiện lập tr−ờng quốc gia độc lập, còn 
giúp cho Singapore thuận lợi trong việc 
tiếp cận trình độ khoa học - kỹ thuật - 
công nghệ và văn minh của nhân loại. 
Qua đó, cũng giúp cho ng−ời dân 
Singapore có thể đi đến bất cứ nơi nào 
trên thế giới để tìm kiếm việc làm, tiếp 
thu tinh hoa nhân loại, mang lại nguồn 
ngoại tệ cho quốc gia. 
Thứ ba, phát triển giáo dục gắn liền 
với chiến l−ợc phát triển kinh tế. Kinh 
nghiệm phát triển kinh tế thập niên 
1960 của Singapore cho thấy, đào tạo và 
sử dụng nhân tố con ng−ời sẽ có tác 
dụng rất lớn nếu nó đ−ợc gắn chặt với 
một chiến l−ợc phát triển kinh tế đúng 
đắn. Ngoài việc thành lập các trung tâm 
dạy nghề trong hệ thống tr−ờng học, các 
trung tâm đào tạo năng lực chuyên môn 
và các trung tâm nghiên cứu ứng dụng 
từ cấp nhà n−ớc đến các ngành và công 
ty, Chính phủ Singapore cũng đã đ−a ra 
một số ch−ơng trình đào tạo với sự hợp 
tác của các công ty đa quốc gia nhằm sử 
dụng khả năng chuyên môn và hiểu biết 
của họ về những xu h−ớng phát triển 
của kỹ thuật. Nhờ đó mà n−ớc này đã 
cung cấp đ−ợc nguồn lao động cần thiết 
cho phát triển công nghiệp giai đoạn 
1961-1979. 
Tóm lại, trong điều kiện phát triển 
không tài nguyên thiên nhiên, những nỗ 
lực của Chính phủ và ng−ời dân 
Singapore trong phát triển giáo dục đã 
góp phần tạo nên một lực l−ợng lao động 
có tri thức căn bản, có kỹ năng làm việc 
và hơn hết là sự đoàn kết vì sự phát 
triển của đất n−ớc. Đây chính là tiền đề 
để Singapore chuyển b−ớc sang giai 
đoạn phát triển chiều sâu, chú trọng 
đến chất l−ợng vào đầu những năm 
1980. Nói cách khác, cùng với sự trợ 
giúp đắc lực của giáo dục trong chính 
sách phát triển nguồn nhân lực, 
Singapore đã đạt đ−ợc nhiều thành tựu 
quan trọng trong giai đoạn 1961-1979 - 
đ−ợc ví nh− là giai đoạn đặt nền tảng 
quan trọng, giai đoạn “cất cánh” cho quá 
trình “hóa rồng” của Singapore ở những 
thập niên tiếp theo  
Tài liệu trích dẫn 
1. Goh Chor Boon, S. Gopinathan 
(2006), The Development of 
Education in Singapore since 1965, 
National Institute of Education, 
Nanyang Technological University, 
Singapore. 
2. Government and politics of 
Singapore, Revised Edition, Oxford 
University Press, Singapore, 1987. 
3. Harry T. Oshama (1990), Tăng 
tr−ởng kinh tế ở châu á gió mùa, Tập 
2, (sách dịch), Nxb. Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
4. Law Song Seng (1996), Singapore 
dynamics and challenges of a 
vocational training system - the 
Singapore experience, Institute of 
Technical Education. 
5. Lee Kuan Yew (2012), The papers of 
Lee Kuan Yew: Speeches, interviews 
and dialogues, Volume 4, Cengage 
Learning Asia Pte Ltd. 
(xem tiếp trang 27) 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_phat_trien_giao_duc_doi_voi_su_tang_truong_kinh.pdf