Vấn đề tìm kiếm đồng minh trong cách mạng Mỹ (1775-1783) - Quan điểm và phương án

Tóm tắt: Trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), để đối chọi với

nước Anh có tiềm lực quân sự vượt trội, cư dân Bắc Mỹ tiến hành vận động

ngoại giao với các thế lực bên ngoài nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng

đồng quốc tế. Do đó, ngay từ buổi đầu những người Mỹ cách mạng đã hình

thành những luồng quan điểm khác nhau về vấn đề tìm kiếm đồng minh.

Trên cơ sở các cuộc tranh biện của các đại biểu trong Đại hội lục địa, phe

cách mạng đề ra phương án liên minh với quốc gia một khi cơ hội đến. Bài

viết phân tích quan điểm và phương án của những người Mỹ cách mạng

trong việc tìm kiếm đồng minh.

pdf 8 trang yennguyen 2540
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề tìm kiếm đồng minh trong cách mạng Mỹ (1775-1783) - Quan điểm và phương án", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề tìm kiếm đồng minh trong cách mạng Mỹ (1775-1783) - Quan điểm và phương án

Vấn đề tìm kiếm đồng minh trong cách mạng Mỹ (1775-1783) - Quan điểm và phương án
 Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
ISSN 1859-1612, Số 01(49)/2019: tr. 125-132 
Ngày nhận bài: 25/10/2018; Hoàn thành phản biện: 01/11/2018; Ngày nhận đăng: 07/11/2018 
VẤN ĐỀ TÌM KIẾM ĐỒNG MINH TRONG CÁCH MẠNG MỸ 
(1775-1783) - QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG ÁN 
LÊ THÀNH NAM 
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
Tóm tắt: Trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), để đối chọi với 
nước Anh có tiềm lực quân sự vượt trội, cư dân Bắc Mỹ tiến hành vận động 
ngoại giao với các thế lực bên ngoài nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng 
đồng quốc tế. Do đó, ngay từ buổi đầu những người Mỹ cách mạng đã hình 
thành những luồng quan điểm khác nhau về vấn đề tìm kiếm đồng minh. 
Trên cơ sở các cuộc tranh biện của các đại biểu trong Đại hội lục địa, phe 
cách mạng đề ra phương án liên minh với quốc gia một khi cơ hội đến. Bài 
viết phân tích quan điểm và phương án của những người Mỹ cách mạng 
trong việc tìm kiếm đồng minh. 
Từ khóa: Cách mạng Mỹ, đồng minh, phương án và quan điểm. 
Cách mạng Mỹ vốn diễn ra dưới hình thức một cuộc chiến tranh giành độc lập do các 
thế hệ con cháu có nguồn gốc tổ tiên từ nước Anh định cư ở Bắc Mỹ tiến hành. Trong 
cuộc chiến này, cư dân thuộc địa không chỉ đơn thuần chống trả mẫu quốc trên mặt trận 
quân sự mà còn mở ra cuộc vận động ngoại giao với thế giới bên ngoài nhằm quốc tế 
hóa tình hình chính trị nội bộ của đế chế Anh. Đây được xem như mặt trận không kém 
phần quan trọng, bởi một mặt làm cho dư luận quốc tế hiểu rõ cuộc đấu tranh chính 
nghĩa mà họ đang theo đuổi; mặt khác từng bước phá vỡ thế cô lập, thoát khỏi thế chiến 
đấu trong vòng vây của đối phương, tranh thủ sự giúp đỡ tối đa của cộng đồng quốc tế. 
Để đạt mục tiêu đề ra, ngay từ buổi đầu của cuộc chiến, những người Mỹ cách mạng đã 
hình thành những luồng quan điểm, ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề tìm kiếm, lựa 
chọn đối tác liên minh. Nhờ sự thấu rõ tình hình quốc tế thông qua những luồng quan 
điểm tranh luận giữa các đại biểu ưu tú đến từ các thuộc địa, Đại hội lục địa từng bước 
vạch ra phương án, kế hoạch cho vấn đề này. Từ thực tế nêu trên, bài viết sẽ phân tích, 
làm rõ: (i) quan điểm của phe cách mạng về việc tìm kiếm đối tác liên minh; (ii) phương 
án đặt ra; (iii) một số nhận xét. 
1. QUAN ĐIỂM CỦA PHE CÁCH MẠNG VỀ VIỆC TÌM KIẾM ĐỐI TÁC LIÊN MINH 
Ngày 19-4-1775, cuộc đụng độ vũ trang với quân đội Anh ở Lexington của cư dân Bắc 
Mỹ đánh dấu sự mở đầu cuộc chiến tranh giành độc lập. Chiến tranh được xem như là 
hệ quả tất yếu của hàng loạt chính sách, biện pháp mà thực dân Anh vốn áp đặt đối với 
cư dân thuộc địa trong thời gian trước đó. Không lâu sau, Đại hội lục địa được triệu tập 
trở lại tại Philadelphia (10-5-1775), quy tụ những đại biểu ưu tú của các thuộc địa 
(ngoại trừ Georgia), nhằm lên phương án tác chiến trước mắt và vạch định những bước 
đi chiến lược cho thời gian sắp tới. 
126 LÊ THÀNH NAM 
Có một thực tế lịch sử cần bàn, thời điểm chiến sự nổ ra, phần lớn các thuộc địa vẫn 
chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu với mẫu quốc. Tâm trạng dè dặt, chưa muốn ly 
khai khỏi chính quốc vẫn lưu hành khá rộng rãi trong cư dân cũng như đối với các đại 
biểu tham dự Đại hội lục địa. Mặt khác, một bộ phận dân cư vẫn còn nặng tư tưởng bi 
quan về cuộc chiến với nước Anh, bởi họ nhận thức rằng việc đối đầu với thế lực có 
tiềm lực quân sự hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ chẳng khác nào đẩy các thuộc địa 
lâm vào tình thế “trứng chọi với đá”. Điều tất yếu, sự thất bại nằm trong dự báo. Bị chi 
phối những quan điểm như vậy khiến cho các đại biểu tham dự Đại hội lục địa chưa tính 
đến việc kêu gọi sự giúp đỡ, viện trợ bên ngoài cho sự nghiệp của họ, bởi điều này sẽ 
dẫn tới khả năng phá vỡ mọi nỗ lực đàm phán, thương lượng với chính quyền London 
một khi khả năng còn để ngõ. 
Điều cần phải nói thêm rằng, những đại biểu tham dự Đại hội lục địa vốn có gốc gác, tổ 
tiên từ Cựu lục địa nên chính họ cũng thấu hiểu phần nào tâm lý nghi ngại, khéo léo che 
dấu bằng hành động một cách lạnh lùng của các triều đình phong kiến châu Âu trước 
thực tế cuộc đấu tranh diễn ra trong nội bộ đế chế Anh. Đó là chưa kể tới những nhà 
ngoại giao châu Âu có tư tưởng giảo hoạt, dễ dàng thay đổi trong mọi tình huống. Do 
đó, Đại hội lục địa không mấy hào hứng trong việc tìm kiếm đồng minh, viện trợ đến từ 
phía bên kia Đại Tây Dương. Không một ai trong Đại hội lục địa có thể khẳng định chắc 
chắn rằng những quốc gia phong kiến châu Âu trước kia vốn thù địch với cư dân Bắc 
Mỹ (với tư cách một bộ phận của đế chế Anh) lại giúp đỡ các thuộc địa của Anh ở Tây 
bán cầu một cách vô tư, không vị lợi, tính toán thiệt hơn cho bản thân họ. Tâm trạng này 
của Đại hội lục địa được thể hiện qua ý kiến của John Adams khi nói về sự khác biệt 
giữa cư dân Bắc Mỹ và châu Âu: “Sự xảo quyệt, tài sáng chế bịa đặt, tính cách hết sức 
kín đáo và sự im lặng tuyệt đối của những triều đình châu Âu này sẽ là quá nhiều cho 
những công sứ hấp tấp, nóng nảy và những người lơ đễnh, lười biếng của chúng ta mặc 
dù cũng yên lặng như họ” [7, tr.23]. 
Thế nhưng, trước những chính sách hết sức hà khắc cùng với sự phong tỏa từ chính 
quốc đã đẩy nền kinh tế - xã hội của 13 thuộc địa rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô cùng bi 
đát. Tình cảnh đó tác động tới những người tham gia quân đội cách mạng. Đồng tiền do 
các thuộc địa phát hành bị mất giá nghiêm trọng: “Một xe ngựa chở đầy tiền khó mua 
nổi một xe ngựa chở đầy lương thực, thực phẩm” [8, tr.6]. Thêm vào đó, sự khan hiếm 
phương tiện khí tài chiến tranh đặt ra thách thức cho phe cách mạng. Tháng 7-1775, cơ 
quan Ủy ban An toàn New York (The New York Committee of Safety) đã phàn nàn 
rằng: “Chúng tôi (cư dân Bắc Mỹ - TG chú thích) không có vũ khí, chúng tôi không có 
thuốc súng, chúng tôi không có quân trang; Ơn Chúa, hãy gửi cho chúng tôi tiền, khí 
giới và đạn dược” [4, tr.23]. Hay như vị Tổng tư lệnh quân đội cách mạng, G. 
Washington thừa nhận trong dịp lễ Nôen (12-1775): “Sự túng thiếu thuốc súng là không 
thể tưởng tượng được, sự lãng phí một ngày và không có nguồn cung cấp là viễn cảnh 
ảm đạm” [5, tr. 33]. Hiện tượng đào ngũ không chỉ diễn ra trong quân đội chính quy do 
G. Washington chỉ huy mà ngay cả dân quân địa phương. Đây được xem là tình trạng 
phổ biến khắp nơi. 
VẤN ĐỀ TÌM KIẾM ĐỒNG MINH TRONG CÁCH MẠNG MỸ (1775-1783)... 127 
Trải qua mùa đông 1777-1778 khắc nghiệt ở thung lũng Forge trong tình trạng thiếu 
thốn mọi thứ, chính G. Washington cũng phải thừa nhận rằng: “Sự nghiệp của chúng ta 
đang ở trong điều kiện kiệt quệ, đổ nát và tệ hại hơn nhiều so với lúc bắt đầu cuộc 
chiến Những lợi ích chung của nước Mỹ đang tan dần và đắm chìm dần vào sự tan vỡ 
không thể cứu vãn nổi nếu như không có một phương thuốc nào được áp dụng sớm 
hơn” [8, tr. 6]. Phương thuốc mà G. Washington và phe cách mạng nghĩ tới chính là tìm 
kiếm đồng minh, viện trợ từ phía bên ngoài. 
Trong bối cảnh ở Bắc Mỹ đang tràn ngập tin đồn về việc nước Anh đang đề nghị với 
Pháp và Tây Ban Nha tiến hành phân chia lục địa Bắc Mỹ, đổi lại các quốc gia này hỗ 
trợ nước Anh đàn áp lực lượng nổi dậy, do đó, vấn đề tìm kiếm đồng minh trở nên cấp 
thiết và cần phải được phe cách mạng triển khai nhanh hơn. Và chắc chắn, chính giới 
Pháp sẽ bị hấp dẫn lời đề nghị của nước Anh nhằm phân chia các vùng đất Bắc Mỹ tại 
Paris [1, tr. 66-67]. Tin tức này nhanh chóng lan tới Đại hội lục địa khiến cho các đại 
biểu lo lắng. Bóng ma của một hiệp ước phân chia Bắc Mỹ do nước Anh khởi xướng 
khiến những nhà ái quốc cách mạng nhận thức rằng, “trong khi chúng ta đang lưỡng lự 
về sự thiết lập liên minh [nước ngoài], nước Anh có lẽ ký ấn triện phá vỡ chúng ta bằng 
cách ký hiệp ước phân chia Bắc Mỹ với hai hoặc ba cường quốc giàu tham vọng” [1, 
tr.66]. Vấn đề đặt ra, Đại hội lục địa cần có quan điểm dứt khoát hơn về con đường đi 
tới độc lập, tách khỏi đế chế Anh cũng như sự cần thiết trong việc thiết lập một liên 
minh với một quốc gia bên ngoài nhằm đấu tranh chống lại quân đội Anh. Trong bản 
“Tuyên ngôn về những nguyên nhân khởi nghĩa vũ trang” (Declaration of the causes of 
taking up arms), Đại hội lục địa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ủng hộ quốc tế với 
sự nghiệp cách mạng: “Sự nghiệp của chúng ta là chính đáng, liên minh của chúng ta là 
hoàn hảo. Nguồn lực của chúng ta là to lớn và trong trường hợp cần thiết, sự ủng hộ 
quốc tế sẽ đạt được một cách chắc chắn” [1, tr.64]. 
Với nhận thức như vậy, ngày 29-11-1775, tức bảy tháng sau sự kiện Lexington, Đại hội 
lục địa quyết định thành lập “Ủy ban liên lạc bí mật” (Committee of Secret 
Correspondence)1 nhằm “mục đích duy nhất là kết thân những người bạn của chúng ta 
ở Anh, Ai Len và các quốc gia khác trên thế giới” [2, tr. 22]. Cơ quan này nhanh chóng 
cử Arthur Lee, một người Virginia đang sinh sống ở London, cải trang thành phóng 
viên với mục đích thăm dò thái độ dư luận của nước Anh cũng như các vị đại sứ của các 
quốc gia châu Âu đang có mặt tại đây. 
Lúc đầu, “Ủy ban liên lạc bí mật” tỏ ra khá thận trọng, chủ yếu tập trung nhiều hơn vào 
khả năng tiếp cận trong phạm vi đế chế Anh. Những người Mỹ cách mạng mong đợi 
“tình huynh đệ trong nội bộ đế chế Anh mà chia sẻ một di sản chính trị chung bằng kề 
vai sát cánh với sự nghiệp của họ” [1, tr.70]. Di sản chính trị bao gồm “quyền được 
sống, tự do và tài sản”. Họ kỳ vọng, mong mỏi dư luận tiến bộ ở nước Anh sẽ gây áp 
lực để lật đổ nội các có tư tưởng thù địch với sự nghiệp của nhân dân Mỹ. Thế nhưng, 
sự trông chờ này nhanh chóng trở nên ảo tưởng, vô vọng. Trong bối cảnh đó, Đại hội 
1 Đây là cơ quan tiền thân của Bộ Ngoại giao Mỹ. Những thành viên đầu tiên của cơ quan này gồm John 
Dickson, Benjamin Franklin, Benjamin Harrison, John Jay và Thomas Johnson. 
128 LÊ THÀNH NAM 
lục địa quyết định tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài từ những cường quốc có thái độ thiện 
cảm với sự nghiệp chính nghĩa của họ. 
Một vấn đề đáng lưu ý trong Đại hội lục địa là các đại biểu luôn đặt sự xung đột của Anh 
với các thuộc địa Bắc Mỹ trong mối tương quan quyền lực của quan hệ quốc tế ở châu 
Âu, bởi họ cho rằng, mẫu quốc - nước Anh tạo ra không ít sự hiềm khích, thù địch với 
nhiều quốc gia khác. Là một người từng sinh sống, làm việc nhiều năm ở nước Anh và 
các triều đình phong kiến châu Âu, Benjamin Franklin – thành viên của Đại hội lục địa, 
nhận định rằng: “Tất cả các quốc gia châu Âu (ngoại trừ Anh) luôn đứng bên cạnh vấn đề 
của chúng ta. Song châu Âu có lý do riêng của nó. Các quốc gia đó tự cho rằng đang đối 
mặt với tình trạng nguy hiểm trước sự lớn mạnh của nước Anh và sẽ thú vị chứng kiến đế 
chế Anh bị tan rã” [1, tr. 63]. Hàng loạt vấn đề liên quan đến thái độ của các quốc gia ở 
Cựu lục địa được các đại biểu nêu ra: “Nước Pháp ở đâu, Tây Ban Nha ở đâu ? Hà Lan ở 
đâu ? Những kẻ thù tự nhiên của nước Anh – họ đang ở đâu trong thời điểm này ? Bạn có 
nghĩ rằng, các quốc gia này sẽ ủng hộ chúng ta với sự thờ ơ và vô ích hay không ? Có 
phải Louis XVI (vua nước Pháp – TG chú thích) ngủ quên trong thời điểm này hay không 
? Hãy tin tôi, Câu trả lời là Không?” [1, tr. 63]. “Hãy tin tôi, câu trả lời là Không”, có 
nghĩa rằng, các cường quốc châu Âu sẽ không đứng ngoài cuộc đấu tranh của cư dân Bắc 
Mỹ. Với nhận thức như vậy đã giúp các nhà cách mạng Mỹ chuẩn bị trước cho một tâm lý 
tự tin hơn trong việc vận động sự giúp đỡ từ phía châu Âu lục địa. 
Để mở đường cho việc tiếp cận các triều đình châu Âu một cách dễ dàng hơn, B. 
Franklin bằng mối quan hệ cá nhân đã viết thư cho người bạn đang sinh sống tại The 
Hague (Hà Lan) – Charles William Frederick Dumas, trong đó chỉ rõ, “Ủy ban liên lạc 
bí mật” yêu cầu ông với tư cách công dân The Hague – địa điểm có sự hiện diện của 
nhiều vị đại sứ của các triều đình châu Âu, tận dụng bất cứ cơ hội nào để phát hiện “nếu 
có thể, thái độ của các triều đình về việc hỗ trợ hoặc liên minh, trong trường hợp chúng 
ta (nước Mỹ - TG chú thích) áp dụng một hoặc nhiều đề nghị cho những điều khác 
nhau” [3, tr. 33]. Theo dòng thời gian, C.W.F. Dumas trở thành kênh liên lạc, trao đổi 
thư từ với Đại hội lục địa và ngược lại. 
2. PHƯƠNG ÁN ĐẶT RA 
Có một niềm tin chung tồn tại trong những nhà ái quốc Mỹ rằng, cả hai quốc gia Pháp 
và Anh có mối thù truyền kiếp. Mối thâm thù này bắt nguồn từ việc nước Pháp bị tước 
đi quyền sở hữu hàng loạt vùng đất có giá trị chiến lược ở Tân thế giới(Canada, 
Lousiana) cùng với hoạt động thương mại tại đây. Tất cả những quyền này rơi vào tay 
nước Anh kể từ sau năm 17632. Do vậy, thông qua B. Franklin, những người Mỹ cách 
mạng nắm bắt tâm lý muốn trả đũa của chính giới Pháp cũng như tham vọng thu hồi 
2 Trong hơn nửa đầu thế kỷ XVIII, cả Pháp và Anh đều lao vào hai cuộc chiến tranh lớn: Chiến tranh 
Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1714) và Chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Cả hai cuộc chiến tranh này 
Pháp đều bại trận trước Anh nên buộc phải chấp nhận các điều khoản do bên thắng trận đưa ra. Trong 
hiệp ước Utrecht (11-4-1713), Pháp buộc phải nhượng cho Anh đất đai thuộc vùng vịnh Hudson, New 
Foundland và Acadi; còn trong hiệp ước Paris (10-2-1763), nước Anh tước bỏ chủ quyền của Pháp ở 
Canada, Nova Scotia, Cape Breton và Florida [Xem thêm: 6, tr.58-63] 
VẤN ĐỀ TÌM KIẾM ĐỒNG MINH TRONG CÁCH MẠNG MỸ (1775-1783)... 129 
những vùng đất đã mất của triều đình Versailles. Sự mâu thuẫn gay gắt giữa Anh với 
Pháp, là cơ hội cho người Mỹ giải quyết quan hệ với Anh. Dưới nhãn quan của nhiều 
đại biểu trong Đại hội lục địa, không có một quốc gia hùng mạnh và giàu có ở Cựu lục 
địa, ngoài nước Pháp, có khả năng trở thành đối tượng cần phải liên minh, giúp đỡ cho 
cư dân Bắc Mỹ nhiều nhất. 
Cuối năm 1775, “Ủy ban liên lạc bí mật” bắt đầu thực hiện những cuộc tiếp xúc hết sức 
kín đáo với những mật vụ Pháp ngay trên đất Mỹ. Tháng 3-1776, Đại hội lục địa quyết 
định cử Silas Deane dưới danh nghĩa một thương gia Connecticutt đang tìm kiếm việc 
làm, tới Paris nhằm thăm dò thái độ của chính giới Pháp về tình hình Bắc Mỹ, đồng thời 
“yêu cầu sự giúp đỡ về quân trang, vũ khí, đồ dự phòng, tiền bạc và bất cứ phương tiện 
nào mà nước Pháp có thể đáp ứng cho cuộc đấu tranh chính nghĩa này” [8, tr. 29]. 
Tuy có những động thái nhằm xích lại gần với nước Pháp nhưng trong Đại hội lục địa vẫn 
tồn tại nhiều luồng ý kiến hoài nghi về động cơ, mục đích thực sự của nước Pháp trong 
trường hợp quốc gia này can dự vào cuộc chiến tranh hiện tại diễn ra ở Bắc Mỹ. Trong suốt 
tháng 3 và 4-1776, chủ đề này thường xuyên chi phối trong các cuộc tranh biện của các đại 
biểu. Trong nhật ký của mình, John Adams đã phản ánh không khí này như sau: “Quyền lợi 
của Pháp ảnh hưởng như thế nào trong cuộc xung đột giữa Anh và thuộc địa Bắc Mỹ ? 
Nước Pháp sẽ đứng trung lập hay tham gia cùng với Anh hoặc với các thuộc địa Bắc Mỹ ? 
Có phải mối lưu tâm của Pháp muốn phân chia đế chế Anh hay không ? Các thuộc địa của 
Pháp vẫn an toàn hay không trong trường hợp Anh và thuộc địa Bắc Mỹ giữ vững quan hệ 
? Nước Pháp có thể bảo vệ các thuộc địa của nó hay không? Hiện tại nước Pháp đang sở 
hữu Martinique, Guadeloupe và một nửa lãnh thổ Hispaniola. Trường hợp hòa giải giữa 
Anh và thuộc địa Bắc Mỹ diễn ra, và cuộc chiến tranh Anh và Pháp nổ ra, nước Pháp có 
giữ được các lãnh thổ đó trong vòng 6 tháng hay không ?” [1, tr. 65]. 
Những tranh cãi về mục đích, động cơ của nước Pháp trong cuộc chiến tranh ở Bắc Mỹ 
dù cho tạo ra những quan điểm trái ngược nhưng phần lớn các đại biểu trong Đại hội lục 
địa đều nhất trí hướng tới nước Pháp. “Chúng ta (các đại biểu – TG chú thích) hãy 
thông báo chính thức tới triều đại Bourbon, tối thiểu của Pháp, rằng chúng ta trông đợi 
duy nhất sự kiên định của nước Pháp để tuyên bố độc lập của chúng ta. Chúng ta sẽ 
không phải nói chuyện với tất cả các cường quốc bên ngoài nhưng chỉ một trong số đó 
mà chúng ta đang mong đợi ủng hộ sự nghiệp chúng ta Hãy để nước Pháp trở thành 
người bảo lãnh cho chúng ta trong những sắp xếp như thế này” [1, tr. 68]. 
Một vấn đề đặt ra cho Đại hội lục địa, loại liên minh nào sẽ thích hợp trong quan hệ 
giữa nước Mỹ với triều đình phong kiến Bourbon tại thời điểm này ? Điều nhận thấy 
rằng, đa số các đại biểu trong Đại hội lục địa đều kỳ vọng sự ủng hộ, giúp đỡ của triều 
đình Versailles song lại khước từ bất cứ hình thức quan hệ chính trị và quân sự nào với 
nước Pháp. Thay vào đó, việc thiết lập quan hệ thương mại giữa hai bên cần phải xúc 
tiến. Theo quan điểm của những nhà ái quốc Mỹ, “sự khai thông buôn bán giữa Mỹ và 
Pháp sẽ trở thành vật bồi thường to lớn dành cho nước Pháp vì tất cả sự giúp đỡ mà 
quốc gia này hỗ trợ cho Mỹ. Phần của nước Pháp trong thương mại với Mỹ sẽ trở thành 
nguồn khổng lồ cho nền thương mại, hải quân của nước Pháp và sự hỗ trợ lớn cho 
130 LÊ THÀNH NAM 
Pháp trong việc bảo vệ những vùng thuộc địa ở Tây Ấn cũng như hoạt động đánh cá” 
tại đây [1, tr. 71]. Với nhãn quan như vậy, Đại hội lục địa đã chủ trương đường lối trong 
quan hệ với nước Pháp: Thứ nhất, không giao thiệp chính trị, không tiếp nhận quan 
chức của triều đình Versailles; Thứ hai, không quan hệ quân sự, không đón tiếp quân 
đội từ phía Pháp; Thứ ba, chỉ thiết lập quan hệ thương mại, ký kết hiệp ước cho phép 
thương thuyền mang quốc tịch Pháp vào buôn bán ở các hải cảng Bắc Mỹ. 
Sau khi công bố bản Tuyên ngôn độc lập (4-7-1776), nước cộng hòa non trẻ tiến thêm 
một bước nữa trong việc thắt chặt mối quan hệ với nước Pháp. Tháng 9-1776, Đại hội 
lục địa quyết định chọn Silas Deane, Benjamin Franklin và Arthur Lee (lúc đầu là 
Thomas Jefferson) làm đại diện ngoại giao chính thức của nước cộng hòa mới ở Paris. 
Trong cùng thời gian, ngày 17-9-1776, để tạo cơ sở pháp lý cho các đại diện Mỹ triển 
khai cuộc vận động ngoại giao tại Pháp, Đại hội lục địa phê chuẩn bản “Kế hoạch năm 
1776” (Plan of 1776) do John Adams khởi thảo, sau này được sử dụng như Hiệp ước 
mẫu để thương lượng với Pháp. Bản kế hoạch này không đề cập tới bất cứ điều khoản 
nhân nhượng về chính trị, chủ yếu tập trung vào các lợi ích thương mại, trong đó đáng 
chú ý nhất có việc đề xuất việc Mỹ sẽ mở cửa buôn bán dành ưu tiên cho nước Pháp, 
phá thế độc quyền thương mại của Anh ở Bắc Mỹ, cam kết đối xử bình đẳng với các 
nền thương mại trung lập (cho phép tàu bè các nước trung lập được buôn bán với các 
bên tham chiến). Ngoài ra, bản kế hoạch còn có điều khoản về viễn cảnh phá bỏ độc 
quyền của Anh trong nền thương mại Mỹ nhằm tạo nên sức hấp dẫn, lôi kéo nước Pháp 
dính líu vào cuộc chiến tranh với nước Anh. Có thể nói rằng, “Kế hoạch năm 1776 
được thiết kế như là một mẫu hình cho quan hệ của nước Mỹ với tất cả các thế lực bên 
ngoài” [7, tr. 24]. Qua bản “Kế hoạch năm 1776”, chúng ta nhận thấy rằng: 
Thứ nhất, những người Mỹ cách mạng không muốn dính líu chính trị với các nước châu 
Âu, cụ thể là nước Pháp. Điều này hơn ai hết, những nhà lãnh đạo cách mạng Mỹ đã 
nhận thức rằng, từ trong quá khứ với tư cách là thuộc địa của chính quốc, cư dân Bắc 
Mỹ phải tham gia các cuộc chiến tranh do mẫu quốc tiến hành. Những cuộc chiến tranh 
này không chỉ phục vụ quyền lợi của nước Anh mà còn cho các cường quốc châu Âu 
khác. Khi chiến tranh kết thúc, quyền lợi của cư dân thuộc địa không được tính tới mà 
chỉ nhằm thỏa mãn tham vọng của một bộ phận trong giới cầm quyền của chính quyền 
London. Theo thời gian, họ bắt đầu nhận rõ mình chỉ là “con tốt trên bàn cờ chính trị 
châu Âu”. Do đó, họ có nhu cầu muốn tách khỏi các cuộc phân tranh chính trị bên kia 
bờ đại dương. Quan điểm này đã ăn sâu trong tâm thức của cư dân Bắc Mỹ nói chung, 
những nhà ái quốc Mỹ nói riêng mỗi khi đề cập tới việc xúc tiến, thiết lập quan hệ ngoại 
giao với bên ngoài. 
Thứ hai,bản “Kế hoạch năm 1776” đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc về thương mại của 
nước cộng hòa non trẻ và có thể nhận thấy rằng nếu những nội dung trên được hiện thực 
hóa thì nước Mỹ sẽ gặt hái được rất nhiều lợi ích không chỉ trong thời chiến mà cả thời 
bình ở thì tương lai 
Ngày 24-9-1776, Đại hội lục địa thông qua chỉ thị bổ sung cho bản Kế hoạch năm 1776 
với việc thể hiện tính chính trị rõ hơn, trong đó người Mỹ tuyên bố chống lại sự tái lập 
VẤN ĐỀ TÌM KIẾM ĐỒNG MINH TRONG CÁCH MẠNG MỸ (1775-1783)... 131 
quyền lực của nước Pháp ở Canada và cam kết rằng nếu nước Mỹ thực thi hòa bình với 
nước Anh trước Pháp thì nó cũng không viện trợ cho mẫu quốc trong lúc chiến tranh Anh 
– Pháp đang còn diễn ra. Cuối tháng 12-1776, Đại hội lục địa đã phê chuẩn chỉ thị khác 
để bổ sung cho bản hiệp ước dự kiến đưa ra cho phía Pháp với nội dung cam kết rằng 
nước Mỹ sẽ thông báo cho Pháp trước sáu tháng nếu hòa hoãn với nước Anh và thậm chí 
sẽ giúp Pháp lấy lại Canada. Ngoài ra, chỉ thị yêu cầu các đại diện ngoại giao Mỹ ở Paris 
cần phải gia tăng áp lực với triều đình Versailles, với lời đề nghị rằng nếu triều đình 
Versailles hành động chậm trễ thì cư dân Mỹ sẽ tái hợp với nước Anh [1, tr. 74]. 
Bên cạnh việc đề ra một kế hoạch cho kịch bản liên minh với thế lực bên ngoài, các đại 
biểu trong Đại hội lục địa còn nhấn mạnh tầm quan trọng, sự cần thiết của hoạt động 
thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Bởi đây là một trong những phương tiện giúp 
Cách mạng Mỹ phá vỡ thế cô lập, thu hút và tranh thủ các nguồn của cải từ khắp nơi 
trên thế giới đổ về bằng nhiều hình thức khác nhau. Điều này nhằm hạn chế tới mức 
thấp nhất thiệt hại về mặt kinh tế do việc đoạn tuyệt hoàn toàn với nước Anh. Một đại 
biểu của thuộc địa North Carolina tham dự Đại hội lục địa vào tháng 2-1776 đã cho 
rằng: “Chúng ta có thể tiến hành chiến tranh mà không buôn bán và thương mại với bất 
kỳ ai ? Hệ lụy của việc liên minh là có lẽ cắt đứt hoàn toàn với nước Anh và không có 
thứ gì mà chúng ta không thể cung cấp những thứ cần thiết cho việc phòng thủ của 
chúng ta” [3, tr. 30]. Bất chấp lệnh phong tỏa của mẫu quốc, ngày 26-2-1776, Đại hội 
lục địa đưa ra phương án mở cửa cho vấn đề thương mại và cho phép thương thuyền của 
mọi quốc gia trên thế giới vào hải cảng Bắc Mỹ buôn bán với thời hạn tối thiểu hai năm, 
bắt đầu từ ngày 20-7-1776 trở đi [3, tr. 30]. Từ mối giao lưu thương mại, những người 
Mỹ cách mạng hy vọng sẽ tìm thấy đối tác thích hợp cho việc liên minh. 
3. MỘT SỐ NHẬN XÉT 
Một là, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đại hội lục địa - cơ quan lãnh đạo tối cao, 
nơi quy tụ các đại biểu ưu tú của các thuộc địa đã có những luồng ý kiến nhấn mạnh tới 
vấn đề tìm kiếm sự ủng hộ của bên ngoài. Dù cho có những tư tưởng hoài nghi, đối lập 
giữa các quan điểm nhưng đây là một giải pháp thiết yếu đưa sự nghiệp đấu tranh giành 
độc lập tiến triển thuận lợi. Điều quan trọng, các quan điểm của các đại diện thuộc địa 
đã biết đặt sự nghiệp chính nghĩa, tiến bộ của bản thân họ trong mối tương quan quyền 
lực quốc tế đương thời. Đó là nắm bắt những mâu thuẫn giữa nước Anh với các cường 
quốc châu Âu khác để qua đó phân biệt ai là đối tác, ai là đối thủ? Từ việc thấu rõ tình 
hình quốc tế, Đại hội lục địa đã hình thành phương án để tìm kiếm đối tác liên minh 
Hai là, trong nỗ lực hướng tới tiếp cận với các thế lực quốc tế nhằm lôi kéo sự ủng hộ 
của họ, những thành viên trong Đại hội lục địa đã chủ động hoạch định và lựa chọn mẫu 
hình cho quan hệ đồng minh giữa nước Mỹ cộng hòa non trẻ với bất kỳ cường quốc 
châu Âu nào, trước hết là Pháp. Họ khước từ những ràng buộc về mặt chính trị và quân 
sự, thay vào đó bằng quan hệ thương mại. Sự đề cao vấn đề thương mại, tránh dính líu 
chính trị với bên ngoài là cả một quá trình nhận thức từ trong lịch sử của cư dân Mỹ với 
tư cách thuộc địa của đế chế Anh. Minh chứng cho lập luận này là bản “Kế hoạch năm 
1776”. Đây là sự kết tinh tư tưởng quyền lợi dân tộc Mỹ ngay khi còn đang trong thời 
132 LÊ THÀNH NAM 
kỳ “trứng nước”, là sự tự do tối đa trong ngoại thương. Nó biểu hiện rõ nhất cho những 
nỗ lực của những nhà cách mạng Mỹ trên chặng đường tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế 
một cách chính thức; đồng thời trở thành cơ sở, mục đích cho những vận động ngoại 
giao của các đại diện Mỹ ở Cựu lục địa. Khi trở thành một quốc gia độc lập, nước Mỹ 
củng cố quan điểm này bằng việc đứng ngoài các cuộc phân tranh chính trị bên kia Đại 
Tây Dương để có điều kiện xây dựng quốc gia, nhất thế hóa dân tộc. Cụ thể là năm 
1793, nước Mỹ đã tuyên bố trung lập trong cuộc chiến giữa Pháp với các thế lực phong 
kiến châu Âu mà có sự tham gia của nước Anh tư sản. 
Ba là, một thực tế cho thấy rằng, để cho việc tìm kiếm đồng minh một cách hiệu quả, 
Đại hội lục địa đã chú ý tới những cá nhân có cảm tình với sự nghiệp của họ ở phía bên 
kia Đại Tây Dương. Những nhân vật, như: Silas Deans – thương gia, Charles William 
Frederick Dumas – người đưa thư v.v đã đóng vai trò không hề nhỏ trong việc tăng 
thêm cơ hội cho các nhà ngoại giao Mỹ non trẻ tiếp cận với các triều đình châu Âu. 
Đồng thời, họ trở thành kênh thông tin, tuyên truyền cho dư luận ở Cựu lục địa hiểu rõ 
tường tận và chính xác những sự kiện đang diễn ra trong lòng nội bộ đế chế Anh. Qua 
đó hình thành tư tưởng cấp tiến trong lòng châu Âu về cách mạng Mỹ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Tadashi Aruga (1985). “Revolutionary Diplomacy and the Franco-American Treaties of 
1778”, The Japanese Journal of American Studies, No 2, p.59-100. 
[2] Samuel Bemis (1951). A Diplomatic History of The United States, Henry Holt and 
Company, New York. 
[3] Samue Flagg Bemis (1951). The Diplomacy of the American Revolution, Indiana 
University Press. 
[4] Alexander DeConde (1978). A History of American Foreign Policy, Vol 1 (Growth to 
World Power 1700 – 1914), Charles Scribner’s Sons, New York. 
[5] Robert H. Ferrel (1975). American Diplomacy: A history, W.W. Norton & Company 
Inc. New York. 
[6] Lê Thành Nam (2009). Nước Pháp với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa 
Anh ở Bắc Mỹ (1775-1783), Châu Mỹ ngày nay, số 08(137), tr.58-63 
[7] Bradford Perkins (1993). The Cambridge History of American Foreign Relations, Vol 1: 
The Creation of a Republican Empire, 1776 – 1865, Cambridge University Press. 
[8] James Breck Perkins (1911). France in the American Revolution. Houghton Mifflin, Boston. 
Title: THE AMERICAN REVOLUTION TOWARD THE QUEST FOR ALLIANCE IN 
INTERNATIONAL COMMUNITY – VIEWPOINTS AND PLAN 
Abstract: In the war of independence (1775-1783), colonists in North American carried out 
diplomacy with foreign powers in order to seek their support. When the war had just broken out, 
revolutionist arose different viewpoints on the quest for alliance. On the basis of the debates 
among delegates in Continental Congress, the revolutionists mapped out plan for coalition. The 
paper analyzes the views and plan of America revolutionists in their searching for coalition from 
outside world. 
Keywords: American revolution, alliance, plan, viewpoints. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_tim_kiem_dong_minh_trong_cach_mang_my_1775_1783_quan.pdf