Vốn tâm lý: Lý thuyết và thang đo
TÓM TẮT
Tiếp sau nghiên cứu vốn con người và vốn xã hội, vốn tâm lý là khái niệm được phát triển
và thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Vốn tâm lý vượt qua
cả vốn con người và vốn xã hội (Luthans và cộng sự, 2005; Luthans và cộng sự, 2004) và đây là
khái niệm tương đối mới hiện nay ở Việt Nam. Bài báo này được thực hiện nhằm tổng quan lý
thuyết về vốn tâm lý như khái niệm, các thành phần cấu thành, lý thuyết nền và tổng hợp các
nghiên cứu trước trong và ngoài nước có liên quan. Đồng thời, bài báo tổng hợp các thang đo của
nghiên cứu trước và thực hiện nghiên cứu định tính (lấy ý kiến chuyên gia) để hình thành nên
các thang đo về vốn tâm lý.
Bạn đang xem tài liệu "Vốn tâm lý: Lý thuyết và thang đo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vốn tâm lý: Lý thuyết và thang đo
30 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 VỐN TÂM LÝ: LÝ THUYẾT VÀ THANG ĐO NGUYỄN MINH HÀ1,*, NGÔ THÀNH TRUNG1 1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh *Email: ha.nm@ou.edu.vn (Ngày nhận: 30/10/2018; Ngày nhận lại: 07/11/2018; Ngày duyệt đăng: 07/11/2018) TÓM TẮT Tiếp sau nghiên cứu vốn con người và vốn xã hội, vốn tâm lý là khái niệm được phát triển và thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Vốn tâm lý vượt qua cả vốn con người và vốn xã hội (Luthans và cộng sự, 2005; Luthans và cộng sự, 2004) và đây là khái niệm tương đối mới hiện nay ở Việt Nam. Bài báo này được thực hiện nhằm tổng quan lý thuyết về vốn tâm lý như khái niệm, các thành phần cấu thành, lý thuyết nền và tổng hợp các nghiên cứu trước trong và ngoài nước có liên quan. Đồng thời, bài báo tổng hợp các thang đo của nghiên cứu trước và thực hiện nghiên cứu định tính (lấy ý kiến chuyên gia) để hình thành nên các thang đo về vốn tâm lý. Từ khóa: Hành vi tổ chức tích cực; Tâm lý học tích cực; Vốn tâm lý. Psychological Capital: Theory and Measurement ABSTRACT Following human capital and social capital, psychological capital is a concept that is developed and it attracts theoretical and empirical researchers’ attention. Positive psychological capital lies beyond the human capital and the social capital (Luthans et al, 2005; Luthans et al, 2004) and it is the new concept in Vietnam. Based on a review of pertinent literature and theory, this paper aims to examine psychological capital concepts, crucial components, background theory and consolidation of national and international related studies. In the meantime, the scales of previous studies has been synthesized and the qualitative research (based on experts’ opinions) has been implemented to form the measurement scales of psychological capital. Keywords: Positive organizational behavior; Positive psychology; Psychological capital. 1. Giới thiệu Ngoài loại hình vốn tài chính truyền thống thuần về kinh tế được đánh giá ở nhiều khía cạnh như vốn cố định, vốn kinh doanh, sự tăng trưởng vốn thì các loại hình vốn của con người bao gồm vốn con người, vốn xã hội và vốn tâm lý cũng được đánh giá, xem xét như các nguồn lực của tổ chức có thể trở thành lợi thế cạnh tranh. Vốn tâm lý và các hình thức vốn liên quan đến con người khác là vốn con người và vốn xã hội tồn tại sự khác biệt. Theo Becker (1993), trong phạm vi kiến thức về kinh tế, vốn con người đề cập đến kiến thức, kỹ năng và khả năng của một cá nhân và nó có thể tăng lên thông qua kinh nghiệm tích lũy được hoặc thông qua hoạt động giáo dục và đào tạo. Khái niệm về vốn xã hội xuất phát từ lĩnh vực xã hội học và liên quan đến tập hợp các nguồn lực thực tế hoặc tiềm năng được kết nối với việc sở hữu một Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 31 mạng lưới bền vững các mối quan hệ dựa trên sự công nhận và quen biết lẫn nhau (Bourdieu, 1986). Luthans và Youssef (2004) cho rằng vốn xã hội thậm chí góp phần vào việc tạo ra vốn con người và vốn xã hội rất quan trọng để tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững. Nhưng vốn con người và vốn xã hội mà một con người sở hữu ngày hôm nay có thể có hoặc không có giá trị trong ngày mai. Nhu cầu của tổ chức về vốn con người và vốn xã hội luôn thay đổi liên tục nhằm phù hợp với sự cạnh tranh và nhu cầu hoạt động của tổ chức. Vốn tâm lý vượt qua cả vốn con người và vốn xã hội (Luthans và cộng sự, 2005; Luthans và cộng sự, 2004). Vốn tâm lý liên quan đến việc bây giờ "bạn là ai" và trong chiều hướng phát triển, "bạn có thể trở thành ai" trong tương lai (Avolio và Luthans, 2008; Luthans và cộng sự, 2004; Luthans và Youssef, 2004). Cần nhìn nhận rằng tồn tại sự phối hợp lẫn nhau giữa vốn tâm lý với vốn con người và vốn xã hội. Những cá nhân có sự tự tin cao, dễ dàng thích nghi với sự thay đổi hay kiên cường làm việc khi gặp phải khó khăn nhiều khả năng họ sẽ đạt được nhiều thành công trong công việc, nhiệm vụ mới (kỹ năng phát triển vốn con người) và thúc đẩy các mối quan hệ xã hội (vốn xã hội) (Luthans và cộng sự, 2007a). Khác với vốn kinh tế đề cập đến “bạn có cái gì ?”, vốn con người đề cập đến “bạn biết gì ?” và vốn xã hội đề cập đến “bạn biết ai ?”, vốn tâm lý ảnh hưởng tích cực tới bản chất con người và giúp các cá nhân có được hiệu quả cao trong công việc (Luthans và Youssef, 2004). Vốn tâm lý là một yếu tố tâm lý cốt lõi về sự tích cực nói chung và những tiêu chí hành vi tổ chức tích cực phù hợp với các trạng thái nói riêng, nó vượt xa vốn xã hội và vốn con người để đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua việc đầu tư hay phát triển vào “bạn là ai” (Luthans và cộng sự, 2004). Vốn tâm lý là bản chất của con người và là trạng thái tâm lý tích cực trong sự phát triển của cá nhân (Avey và cộng sự, 2009). Tiếp sau nghiên cứu vốn con người và vốn xã hội, vốn tâm lý là khái niệm được phát triển và thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Vốn tâm lý là khái niệm tương đối mới hiện nay ở Việt Nam. Bài báo này được thực hiện nhằm tổng quan lý thuyết về vốn tâm lý như khái niệm, các thành phần cấu thành, lý thuyết nền và tổng hợp các nghiên cứu trước trong và ngoài nước có liên quan. Đồng thời, bài báo tổng hợp các thang đo của nghiên cứu trước và thực hiện nghiên cứu định tính (lấy ý kiến chuyên gia) để hình thành nên các thang đo về vốn tâm lý. 2. Khái niệm Vốn tâm lý là khái niệm có những điểm then chốt: (i) dựa trên mô hình tâm lý tích cực, (ii) bao gồm các trạng thái tâm lý căn cứ vào hành vi tổ chức tích cực hoặc các tiêu chí của hành vi tổ chức tích cực, (iii) vượt xa hơn vốn con người và vốn tâm lý để xác định “bạn là ai”, (iv) liên quan đến đầu tư và phát triển để đạt được lợi ích mang lại sự cải thiện hiệu quả làm việc và tạo ra lợi thế cạnh tranh (Luthans và cộng sự, 2005). Vốn tâm lý trả lời cho câu hỏi “bạn là ai” và “bạn có thể đạt được cái gì” xét về mặt phát triển tích cực (Avolio và Luthans, 2008) và được hình thành bởi các nguồn lực tâm lý phù hợp nhất với các tiêu chí kết luận được định nghĩa trong hành vi tổ chức tích cực: sự tự tin, sự hy vọng, sự lạc quan và sự kiên cường (Luthans và cộng sự, 2007a; Luthans và Youssef, 2004). Vốn tâm lý là một hình thức của nguồn lực chiến lược giành được sự chú ý ngày càng lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về sự ảnh hưởng của nguồn lực chiến lược đến hiệu quả làm việc của con người (Ardichvili, 2011). Theo Luthans và cộng sự (2015), vốn tâm lý là trạng thái phát triển tâm lý tích cực của một cá nhân, được mô tả bằng: (i) có sự tự tin để nhận các nhiệm vụ thử thách và đạt thành công với nỗ lực cần thiết; (ii) đưa ra một quy kết tích cực (sự lạc quan) về thành công hiện tại và trong tương lai; (iii) kiên cường theo đuổi các mục tiêu và, khi cần thiết, chuyển hướng các con 32 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 đường dẫn đến mục tiêu (sự hy vọng) để thành công; (iv) khi gặp phải các vấn đề và nghịch cảnh, họ chịu đựng, phản kháng lại và thậm chí vượt qua (sự kiên cường) để đạt được thành công. Vốn tâm lý mang tính cách của một cá nhân mang đặc điểm thường ổn định và nhất quán nhưng cũng dễ thay đổi trong các tình huống khác nhau (Robbins và cộng sự, 2004). Luthans và cộng sự (2007b) cho rằng vốn tâm lý không giống như các yếu tố xác định về mặt di truyền, nó thay đổi tùy thuộc vào kinh nghiệm, tuổi tác, quá trình, biến động tâm lý. Vốn tâm lý ảnh hưởng và bao gồm các khái niệm cấp độ đội nhóm như hỗ trợ xã hội và mạng lưới các mối quan hệ là thành phần của "bạn là ai" đặc biệt trong giai đoạn căng thẳng tâm lý (Sarason và cộng sự, 1987). 3. Các thành phần cấu thành vốn tâm lý Định nghĩa về vốn tâm lý của Luthans nhận được sự công nhận và sử dụng rộng rãi của các nhà nghiên cứu về tâm lý học tích cực đề cập đến sự tự tin năng lực bản thân (self- efficacy/ confident), sự hy vọng (hope), sự lạc quan (optimism) và sự kiên cường (resiliency) là các thành phần tạo nên vốn tâm lý. Xuất phát từ các lập luận rằng: mức độ hành động, trạng thái ảnh hưởng và động lực của con người căn cứ vào những điều họ tin tưởng nhiều hơn những sự thật khách quan; nếu con người không tin rằng các hành động của họ có thể tạo ra các hiệu ứng như mong muốn thì họ sẽ có ít động lực để hành động hơn; niềm tin về năng lực bản thân là cơ sở chính để hành động và con người định hình cuộc sống bằng những niềm tin của họ về năng lực của bản thân để đạt được các kết quả mong muốn, Bandura (1997) tiên phong đưa ra khái niệm “sự tự tin năng lực bản thân đề cập đến niềm tin vào khả năng của một cá nhân có thể tổ chức và thực hiện được các hướng hành động cụ thể để tạo ra những thành tựu nhất định”. Luthans và cộng sự (2015) cho rằng sự tự tin năng lực bản thân phải nhấn mạnh đến niềm tin của một con người và người có sự tự tin vào năng lực của bản thân tạo ra các kết quả mong muốn được nhận biết bởi năm đặc điểm quan trọng sau: (i) đặt ra mục tiêu cao cho bản thân và tự lựa chọn các nhiệm vụ khó khăn; (ii) đón nhận và trưởng thành nhanh chóng nhờ các thách thức; (iii) là người đầy nhiệt huyết; (iv) đầu tư nỗ lực cần thiết để hoàn thành các mục tiêu; (v) kiên cường khi đối mặt với trở ngại. Sự tự tin năng lực bản thân thuộc vốn tâm lý được Luthans và cộng sự (2015) cho rằng mang các đặc điểm như: có phạm vi cụ thể trong những lĩnh vực nhất định; xuất phát từ sự thực hành nhiều lần hay sự thành thạo với những công việc quen thuộc vì sự tự tin năng lực bản thân có được nhờ sự ước tính xác suất thành công trong tương lai; có thể cải thiện sự tự tin năng lực bản thân lên cao hơn thông qua việc cố gắng hoàn thành các mục tiêu cao hơn, các nhiệm vụ mới nhiều thách thức hơn với hiệu quả tối ưu hơn và tiết kiệm hơn; người khác đóng vai trò quan trọng trong việc làm gia tăng hay giảm sút sự tự tin năng lực bản thân của một cá nhân thông qua các thông điệp được lặp đi lặp lại nhiều lần; là biến số có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như kiến thức, kỹ năng, thể chất, tâm lý Sự hy vọng như là trạng thái thúc đẩy tích cực dựa trên một cảm giác bắt nguồn từ sự tương tác giữa định hướng mục tiêu thành công và cách thức đạt mục tiêu (Snyder và cộng sự (1991). Snyder cũng lý giải thêm rằng hy vọng là một trạng thái suy nghĩ hay trạng thái hiểu biết mà một cá nhân có thể thiết lập các mục tiêu và sự kỳ vọng mang tính thực tế nhưng cũng đầy thách thức và sau đó, cá nhân này đạt được những mục tiêu đó thông qua một quyết tâm tự định hướng, năng lượng và nhận thức về kiểm soát nội tại (Luthans và cộng sự, 2015). Hy vọng được tạo nên từ hai thành phần: ý chí (năng lượng hướng tới mục tiêu) và lộ trình thực hiện (Snyder và cộng sự, 1996). Luthans và cộng sự (2008) giải thích ý chí đề cập đến động lực của cá nhân để thực Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 33 hiện thành công một nhiệm vụ cụ thể trong bối cảnh đã định, lộ trình đề cập đến cách thức hay phương tiện để thực hiện nhiệm vụ đó. Snyder và cộng sự (2002) giải thích thành phần “lộ trình” nghĩa là con người có khả năng tạo ra cách thức thực hiện thay thế để đạt được mục tiêu đề ra trong trường hợp phát sinh các trở ngại làm cho cách thức thực hiện cũ gặp thất bại. Có sự lặp đi lặp lại liên tục giữa hai thành phần ý chí và lộ trình (Luthans và cộng sự, 2015). Tức là, ý chí và quyết tâm của con người sẽ thúc đẩy họ tìm kiếm những cách thức thực hiện mới; và sự sáng tạo, đổi mới và tháo vát liên quan đến việc phát triển các cách thức thực hiện cũng sẽ lần lượt kích thích năng lượng và ý thức kiểm soát (nói cách khác là ý chí) của con người đó. Khi diễn ra đồng thời hai quá trình này với nhau thì sự hy vọng sẽ phát triển theo hình xoắn ốc hướng lên trên (Lopez và Snyder, 2003; Snyder, 2002). Seligman (1998) định nghĩa sự lạc quan là phong cách tự giải thích mà một cá nhân cho rằng các sự kiện tích cực xảy ra do các nguyên nhân mang tính cá nhân, lâu dài và sức lan tỏa rộng; và giải thích các sự kiện tiêu cực dưới quan điểm do các yếu tố bên ngoài, mang tính tạm thời và cụ thể theo tình huống gây ra. Nghĩa là người có sự lạc quan cho rằng những điều tích cực diễn ra xuất phát từ chính bản thân họ, diễn ra trong một thời gian dài, diễn ra trên nhiều khía cạnh của cuộc sống và những điều tiêu cực xảy đến do các yếu tố bên ngoài gây nên, chỉ diễn ra trong một thời gian hữu hạn và đó chỉ là những biến cố/xui rủi/tai nạn riêng lẻ. Sự lạc quan là một xu hướng bao trùm, xuyên tình huống để hình thành nên các kỳ vọng tích cực về cuộc sống nói chung (Luthans và cộng sự, 2015). Theo đó, sự lạc quan có thể là hình thức tổng quát hơn của sự tự tin. Sự lạc quan, sự bi quan là hai điểm cuối đối lập nhau của cùng một miền liên tục. Góc nhìn bao trùm về sự lạc quan này giúp hiểu rõ hơn các cơ chế tạo ra các kết quả thuận lợi hay bất lợi thông qua cách sự lạc quan hay bi quan hoạt động. Khi đối diện với nghịch cảnh, người lạc quan luôn tiếp tục cố gắng, đặc biệt trong trường hợp nằm trong tầm kiểm soát của họ. Điều này có liên quan đến ý chí đạt được mục tiêu và cách thức đạt được mục tiêu của sự hy vọng. Trong trường hợp vượt quá tầm kiểm soát, người lạc quan có xu hướng chấp nhận thực tế nhưng không chú trọng các khía cạnh tiêu cực gặp phải mà tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng các kế hoạch chuẩn bị cho tương lai. Sự lạc quan cho phép các cá nhân có được điều thuận lợi và tránh xa được những điều bất hạnh trong cuộc sống, thúc đẩy lòng tự trọng và tinh thần của họ, che chắn họ khỏi những phiền muộn, tội lỗi, dằn vặt và tuyệt vọng (Luthans và Youssef, 2004). Sự kiên cường là một nhóm các hiện tượng được đặc trưng bởi các kết quả tốt bất chấp những mối đe dọa nghiêm trọng đến sự thích nghi và phát triển (Masten, 2001). Sự kiên cường là khả năng phục hồi từ nghịch cảnh, sự không chắc chắn, thất bại hay thậm chí là những sự thay đổi, tiến bộ tích cực và trách nhiệm được giao thêm (Luthans, 2002). Hay nói cách khác, sự kiên cường liên quan sự thích nghi tích cực trong và sau sự rủi ro hay nghịch cảnh quan trọng (Masten và cộng sự, 2009). Thêm nữa, sự kiên cường trong vốn tâm lý chứa đựng không chỉ là sự phục hồi về trạng thái bình thường mà còn sử dụng nghịch cảnh như bệ phóng hướng đến tăng trưởng và phát triển (Luthans và cộng sự, 2015). Trong thực hiện công việc, sự kiên cường được xem là một quỹ đạo phát triển được mô tả bởi năng lực được chứng minh khi đối mặt với nghịch cảnh ở nơi làm việc, sự phát triển chuyên môn và những kinh nghiệm tích lũy được sau các nghịch cảnh đó (Caza và Milton, 2012). Luthans và cộng sự (2015) nhận định sự kiên cường trong nghề nghiệp kết hợp cả sự linh hoạt và sự thích nghi ... t lại các biến quan sát RE13, OP20 và OP23 mang ý nghĩa tích cực, đề xuất sử dụng thang đo Likert 5 mức độ (1 – hoàn toàn không đồng ý, 2 – không đồng ý, 3 – không ý kiến, 4 – đồng ý, 5 – hoàn toàn đồng ý) để đo lường mức độ phản hồi của người trả lời phỏng vấn đồng thời đề xuất bổ sung thêm một số biến quan sát vào thang đo vốn tâm lý. Hoạt động nghiên cứu định tính bằng cách lấy ý kiến chuyên gia được thực hiện nhằm: (i) kiểm tra mức độ khả thi của việc áp dụng thang đo 5 mức độ trong đo lường phản hồi các phát biểu của người trả lời phỏng vấn; (ii) kiểm tra mức độ phù hợp, chặt chẽ về nội dung của thang đo đã xây dựng; (iii) bổ sung các biến đo lường mới nhằm hoàn thiện nội dung thang đo. 10 chuyên gia (gồm 02 nhà nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị nhân sự, 04 nhà quản lý cấp cao và cấp trung tại các doanh nghiệp, 04 nhân viên có kinh nghiệm làm việc trên 5 năm) được lấy ý kiến bằng hình thức trao đổi trực tiếp. Đầu tiên, các chuyên gia xem xét nội dung từng biến đo lường, cho ý kiến về mức độ rõ ràng ý nghĩa của từng biến, tránh sự mập mờ hay gây hiểu nhầm cho người trả lời và đề xuất các chỉnh sửa nếu có. Tiếp theo, các chuyên gia đánh giá khả năng chuyển tải đặc điểm nhân tố của các biến đo 38 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 lường đã có và đề xuất bổ sung các biến đo lường mới nếu cần. Mức độ khả thi của việc sử dụng thang đo Likert 5 mức độ trong bối cảnh tại Việt Nam thay vì 6 mức độ như thang đo của các nghiên cứu trước cũng được đề cập đến trong nội dung trao đổi với các chuyên gia. Kết quả thu được là: (i) sử dụng thang đo Likert 5 mức độ để đo lường phản hồi của người trả lời ở Việt Nam là phù hợp; (ii) chỉnh sửa hoàn chỉnh nội dung 3 biến quan sát RE13 (Bảng 5), OP20 và OP23 (Bảng 6); (iii) bổ sung 6 biến quan sát (2 biến quan sát/ thang đo nhân tố) vào 3 thang đo nhân tố “Sự hy vọng’, “Sự kiên cường” và “Sự lạc quan” (Bảng 4, 5, 6). Thang đo vốn tâm lý mới được đề xuất như sau: Bảng 3 Thang đo nhân tố “Sự tự tin năng lực bản thân” TT Kí hiệu Các biến đo lường nhân tố “Sự tự tin năng lực bản thân” Nghiên cứu 1 SE1 Tôi tự tin tìm giải pháp giải quyết các vấn đề đã tồn đọng thời gian dài. Luthans và cộng sự (2007a), Luthans và cộng sự (2010), Avey và cộng sự (2010) 2 SE2 Tôi tự tin trình bày công việc của mình với cấp trên. 3 SE3 Tôi tự tin thảo luận, đóng góp ý kiến về chiến lược của tổ chức. 4 SE4 Tôi tự tin thiết lập các mục tiêu công việc cho bản thân. 5 SE5 Tôi tự tin thảo luận công việc với đối tác/khách hàng. 6 SE6 Tôi tự tin thảo luận công việc với đồng nghiệp. Nguồn: tổng hợp của tác giả. Bảng 4 Thang đo nhân tố “Sự hy vọng” TT Kí hiệu Các biến đo lường nhân tố “Sự hy vọng” Nghiên cứu 1 HO7 Tôi có thể nghĩ ra nhiều cách giải quyết các bế tắc trong công việc. Luthans và cộng sự (2007a), Luthans và cộng sự (2010), Avey và cộng sự (2010) 2 HO8 Tôi đang tích cực theo đuổi mục tiêu công việc của bản thân. 3 HO9 Tôi cho rằng có nhiều cách để giải quyết một vấn đề. 4 HO10 Tôi tự nhận thấy rằng mình khá thành công trong công việc. 5 HO11 Tôi có nhiều cách để đạt được mục tiêu công việc đã đặt ra. 6 HO12 Tôi đang đạt được các mục tiêu công việc đặt ra cho bản thân. 7 HO13 Tôi luôn hy vọng sẽ giải quyết được mọi vấn đề khó khăn trong công việc. Nghiên cứu định tính 8 HO14 Tôi luôn hy vọng công việc sẽ tốt đẹp. Nguồn: tổng hợp của tác giả. Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 39 Bảng 5 Thang đo nhân tố “Sự kiên cường” TT Kí hiệu Các biến đo lường nhân tố “Sự kiên cường” Nghiên cứu 1 RE13 Tôi vượt qua được những thất bại trong công việc. Nghiên cứu định tính 2 RE14 Tôi có nhiều cách để vượt qua khó khăn trong công việc. Luthans và cộng sự (2007a), Luthans và cộng sự (2010), Avey và cộng sự (2010) 3 RE15 Nếu phải phát biểu ý kiến ở nơi làm việc, tôi sẽ làm vậy. 4 RE16 Tôi thường vượt qua những căng thẳng trong công việc. 5 RE17 Tôi có thể vượt qua khó khăn trong công việc nhờ các trải nghiệm trước đây. 6 RE18 Tôi có thể làm nhiều việc cùng một lúc. 7 RE19 Tôi luôn theo đuổi đến cuối cùng khi đã xác định mục tiêu công việc cần đạt được. Nghiên cứu định tính 8 RE20 Tôi luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh Nguồn: tổng hợp của tác giả. Bảng 6 Thang đo nhân tố “Sự lạc quan” TT Kí hiệu Các biến đo lường nhân tố “Sự lạc quan” Nghiên cứu 1 OP19 Tôi luôn trông chờ điều tốt đẹp khi công việc không như mong đợi. Luthans và cộng sự (2007a), Luthans và ctg (2010), Avey và cộng sự (2010) 2 OP20 Tôi tránh được những sai sót trong công việc. Nghiên cứu định tính 3 OP21 Tôi luôn lạc quan về công việc của mình. Luthans và cộng sự (2007a), Luthans và ctg (2010), Avey và cộng sự (2010) 4 OP22 Tôi lạc quan về tương lai của mình vì nó liên quan đến công việc của tôi 5 OP23 Công việc diễn ra như mong muốn của tôi. Nghiên cứu định tính 6 OP24 Tôi làm công việc này vì dù gì nó cũng có điểm tốt. Luthans và cộng sự (2007a), Luthans và ctg (2010), (Avey và cộng sự (2010)) 7 OP25 Tôi luôn coi thất bại là bài học kinh nghiệm để tiếp tục công việc tốt hơn Nghiên cứu định tính 8 OP26 Tôi luôn lạc quan khi gặp vấn đề khó trong công việc Nghiên cứu định tính Nguồn: tổng hợp của tác giả. 40 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 7. Kết luận Dựa trên các ý tưởng xuất phát từ tâm lý học tích cực, sự thông thái tổ chức tích cực và hành vi tổ chức tích cực, vốn tâm lý là khái niệm được phát triển để nắm bắt năng lực tâm lý của một cá nhân. Vốn tâm lý là khái niệm bậc cao hơn được cấu thành từ 4 thành phần là sự tự tin năng lực bản thân, sự hy vọng, sự lạc quan và sự kiên cường; và mang tiêu chuẩn giống như là trạng thái, không mang tính chất tạm thời, dễ uốn nắn, sẵn sàng thay đổi và phát triển. Vốn tâm lý liên quan đến đầu tư và phát triển nhằm đạt được ích lợi về sự cải thiện hiệu quả làm việc và tạo ra lợi thế cạnh tranh (Luthans và cộng sự, 2005). Các nghiên cứu trước về vốn tâm lý cho kết quả là vốn tâm lý có tác động tích cực đến sự hài lòng công việc, sự cam kết với tổ chức, hiệu quả công việc của nhân viên và có tác động tiêu cực đến sự căng thẳng công việc, ý định nghỉ việc của nhân viên. Vốn tâm lý được đo lường bằng thang đo PCQ-24 nhưng để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam, nghiên cứu điều chỉnh nội dung 3 biến quan sát đánh giá điểm nghịch, thay đổi thang đo mức độ phản hồi của người trả lời và bổ sung thêm 6 biến quan sát sau khi thực hiện hoạt động nghiên cứu định tính bằng cách lấy ý kiến chuyên gia. 8. Hướng nghiên cứu tiếp theo Sau khi nghiên cứu lý thuyết về vốn tâm lý, cũng như kết quả thu được sau nghiên cứu định tính bằng cách khảo sát ý kiến chuyên gia đã hình thành thang đo về vốn tâm lý. Hướng nghiên cứu tiếp theo là thực hiện nghiên cứu về vốn tâm lý ở các cấp độ khác nhau như cá nhân, đội nhóm, quốc gia trong mối quan hệ với các khái niệm khác nhằm thay đổi, phát triển nguồn lực tâm lý hướng đến mục tiêu cải thiện hiệu quả làm việc bằng phương pháp phân tích định lượng. Bên cạnh đó, có thể nghiên cứu bằng phương pháp định lượng về các yếu tố tác động đến vốn tâm lý, cũng như vốn tâm lý tác động đến các khía cạnh khác của con người Tài liệu tham khảo Abbas, M., Raja, U., Darr, W., & Bouckenooghe, D. (2014). Combined effects of perceived politics and psychological capital on job satisfaction, turnover intentions, and performance. Journal of management, 40(7), 1813-1830. Ardichvili, A. (2011). Invited reaction: Meta‐analysis of the impact of psychological capital on employee attitudes, behaviors, and performance. Human resource development quarterly, 22(2), 153-156. Avey, J. B., Luthans, F., & Jensen, S. M. (2009). Psychological capital: A positive resource for combating employee stress and turnover. Human resource management, 48(5), 677-693. Avey, J. B., Luthans, F., & Youssef, C. M. (2010). The additive value of positive psychological capital in predicting work attitudes and behaviors. Journal of management, 36(2), 430-452. Avey, J. B., Reichard, R. J., Luthans, F., & Mhatre, K. H. (2011). Meta‐analysis of the impact of positive psychological capital on employee attitudes, behaviors, and performance. Human resource development quarterly, 22(2), 127-152. Avolio, B. J., & Luthans, F. (2008). The High Impact Leader: McGraw-Hill Education. Bandura, A. (1997). Self-efficacy: The exercise of control. New York, NY, US: W H Freeman/Times Books/ Henry Holt & Co. Bandura, A. (2008). An agentic perspective on positive psychology. Positive psychology,1, 167-196. Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 41 Becker, G. S. (1993). Human capital: A theoretical and empirical analysis, with special reference to education. Chicago: University of Chicago Press. Bourdieu, P. (1986). The forms of capital Handbook of theory and research for the sociology of education (pp. 241–258). R.(1974). The Power Broker: Robert Moses and the Fall of New York. Caza, B. B., & Milton, L. P. (2012). Resilience at work. In K. S. Cameron & G. M. Spreitzer (Eds.), Oxford handbook of positive organizational scholarship, 895-908. Çetin, F. (2011). The effects of the organizational psychological capital on the attitudes of commitment and satisfaction: A public sample in Turkey. European Journal of Social Sciences, 21(3), 373-380. Chaudhary, S., & Chaudhari, S. (2015). Relationship between psychological capital, job satisfaction and turnover intention of bank employees. Indian Journal of Health & Wellbeing, 6(8). Dinh Tho, N., Dong Phong, N., & Ha Minh Quan, T. (2014). Marketers' psychological capital and performance: the mediating role of quality of work life, job effort and job attractiveness. Asia-Pacific journal of business administration, 6(1), 36-48. Idaszak, J. R., & Drasgow, F. (1987). A revision of the Job Diagnostic Survey: Elimination of a measurement artifact. Journal of applied psychology, 72(1), 69. Kappagoda, S., Othman, H., Fithri, Z., & De Alwis, W. (2014). The impact of psychological capital on job performance in the banking sector in Sri Lanka. Kwok, S. Y., Cheng, L., & Wong, D. F. (2015). Family emotional support, positive psychological capital and job satisfaction among Chinese white-collar workers. Journal of Happiness Studies, 16(3), 561-582. Lopez, S. J., & Snyder, C. (2003). Positive psychological assessment. Washington: APA. Luthans, F. (2002). The need for and meaning of positive organizational behavior. Journal of organizational behavior, 695-706. Luthans, F., Avey, J. B., Avolio, B. J., & Peterson, S. J. (2010). The development and resulting performance impact of positive psychological capital. Human resource development quarterly, 21(1), 41-67. Luthans, F., Avolio, B. J., Avey, J. B., & Norman, S. M. (2007a). Positive psychological capital: Measurement and relationship with performance and satisfaction. Personnel psychology, 60(3), 541-572. Luthans, F., Avolio, B. J., Walumbwa, F. O., & Li, W. (2005). The psychological capital of Chinese workers: Exploring the relationship with performance. Management and Organization Review, 1(2), 249-271. Luthans, F., Luthans, K. W., & Luthans, B. C. (2004). Positive psychological capital: Beyond human and social capital. Luthans, F., Norman, S. M., Avolio, B. J., & Avey, J. B. (2008). The mediating role of psychological capital in the supportive organizational climate employee performance relationship. Journal of Organizational Behavior: The International Journal of Industrial, Occupational and Organizational Psychology and Behavior, 29(2), 219-238. 42 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 30-42 Luthans, F., & Youssef, C. M. (2004). Human, social, and now positive psychological capital management: Investing in people for competitive advantage. Luthans, F., Youssef, C. M., & Avolio, B. J. (2007b). Psychological capital: Developing the human competitive edge (Vol. 198) Oxford University Press. Luthans, F., Youssef, C. M., & Avolio, B. J. (2015). Psychological capital and beyond: Oxford University Press, USA. Masten, A. S. (2001). Ordinary magic: Resilience processes in development. American psychologist, 56(3), 227. Masten, A. S., Cutuli, J. J., Herbers, J. E., & Reed, M. G. J. (2009). Resilience in Development. In The Oxford Handbook of Positive Psychology, (2 Ed.), Oxford University Press. Newman, A., Ucbasaran, D., Zhu, F., & Hirst, G. (2014). Psychological capital: A review and synthesis. Journal of organizational behavior, 35(S1), S120-S138. Nguyen, T. D., & Nguyen, T. T. (2012). Psychological capital, quality of work life, and quality of life of marketers: Evidence from Vietnam. Journal of Macromarketing, 32(1), 87-95. Nolzen, N. (2018). The concept of psychological capital: a comprehensive review. Management Review Quarterly, 68(3), 237-277. Podsakoff, P. M., MacKenzie, S. B., Lee, J.-Y., & Podsakoff, N. P. (2003). Common method biases in behavioral research: A critical review of the literature and recommended remedies. Journal of applied psychology, 88(5), 879. Rehman, N., & Mubashar, T. (2017). Job Stress, Psychological Capital and Turnover Intentions in Employees of Hospitality Industry. Journal of Behavioural Sciences, 27(2). Robbins, S. B., Lauver, K., Le, H., Davis, D., Langley, R., & Carlstrom, A. (2004). Do psychosocial and study skill factors predict college outcomes? A meta-analysis. Psychological bulletin, 130(2), 261. Sarason, I. G., Sarason, B. R., Shearin, E. N., & Pierce, G. R. (1987). A brief measure of social support: Practical and theoretical implications. Journal of social and personal relationships, 4(4), 497-510. Seligman, M. E. P. (1998). Learned optimism. New York: Pocket Books. Siu, O. L., Cheung, F., & Lui, S. (2015). Linking positive emotions to work well-being and turnover intention among Hong Kong police officers: The role of psychological capital. Journal of Happiness Studies, 16(2), 367-380. Snyder, C., Rand, K. L., & Sigmon, D. R. (2002). Hope theory. Handbook of positive psychology, 257-276. Snyder, C. R. (2002). Hope theory: Rainbows in the mind. Psychological inquiry, 13(4), 249-275. Snyder, C. R., Harris, C., Anderson, J. R., Holleran, S. A., Irving, L. M., Sigmon, S. T., . . . Harney, P. (1991). The will and the ways: Development and validation of an individual- differences measure of hope. Journal of personality and social psychology, 60(4), 570. Snyder, C. R., Sympson, S. C., Ybasco, F. C., Borders, T. F., Babyak, M. A., & Higgins, R. L. (1996). Development and validation of the State Hope Scale. Journal of personality and social psychology, 70(2), 321.
File đính kèm:
- von_tam_ly_ly_thuyet_va_thang_do.pdf