Xây dựng các giả thuyết của mô hình nghiên cứu về tác động của các sự kiện tổn thất hoạt động đến tổn thất danh tiếng

Trong vài năm trở lại đây, số lượng các vụ bê bối trong lĩnh vực ngân

hàng ngày càng xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông.

Các vụ việc hay các sự kiện tổn thất hoạt động này ngoài việc gây ra

tổn thất tài chính trực tiếp đối với tổ chức xảy ra vụ việc còn có thể

tổn hại nghiêm trọng đến danh tiếng của ngân hàng. Các hậu quả

nghiêm trọng do tổn hại danh tiếng có thể kể đến gồm sự suy giảm

giá trị cổ phiếu và vốn hóa thị trường; sự suy giảm dòng tiền dự kiến

trong tương lai; mất khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng

trong tương lai; phá hủy niềm tin vào ngân hàng và lợi thế cạnh

tranh; suy giảm các mối quan hệ kinh doanh hiện tại hoặc tương lai

và các nhà quản lý có thể áp đặt các gánh nặng tuân thủ lớn hơn. Bài

viết thực hiện lược khảo các nghiên cứu về tác động của các sự kiện

tổn thất hoạt động đến tổn thất danh tiếng, từ đó, xây dựng các giả

thuyết của mô hình nghiên cứu có thể quan sát được mối quan hệ này

trong điều kiện Việt Nam.

pdf 7 trang yennguyen 8000
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng các giả thuyết của mô hình nghiên cứu về tác động của các sự kiện tổn thất hoạt động đến tổn thất danh tiếng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng các giả thuyết của mô hình nghiên cứu về tác động của các sự kiện tổn thất hoạt động đến tổn thất danh tiếng

Xây dựng các giả thuyết của mô hình nghiên cứu về tác động của các sự kiện tổn thất hoạt động đến tổn thất danh tiếng
41
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 205- Tháng 6. 2019
Xây dựng các giả thuyết của mô hình nghiên cứu 
về tác động của các sự kiện tổn thất hoạt động 
đến tổn thất danh tiếng
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
Phạm Hồng Linh
Đỗ Thu Hằng
Ngày nhận: 25/04/2019 Ngày nhận bản sửa: 13/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/05/2019
Trong vài năm trở lại đây, số lượng các vụ bê bối trong lĩnh vực ngân 
hàng ngày càng xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. 
Các vụ việc hay các sự kiện tổn thất hoạt động này ngoài việc gây ra 
tổn thất tài chính trực tiếp đối với tổ chức xảy ra vụ việc còn có thể 
tổn hại nghiêm trọng đến danh tiếng của ngân hàng. Các hậu quả 
nghiêm trọng do tổn hại danh tiếng có thể kể đến gồm sự suy giảm 
giá trị cổ phiếu và vốn hóa thị trường; sự suy giảm dòng tiền dự kiến 
trong tương lai; mất khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng 
trong tương lai; phá hủy niềm tin vào ngân hàng và lợi thế cạnh 
tranh; suy giảm các mối quan hệ kinh doanh hiện tại hoặc tương lai 
và các nhà quản lý có thể áp đặt các gánh nặng tuân thủ lớn hơn. Bài 
viết thực hiện lược khảo các nghiên cứu về tác động của các sự kiện 
tổn thất hoạt động đến tổn thất danh tiếng, từ đó, xây dựng các giả 
thuyết của mô hình nghiên cứu có thể quan sát được mối quan hệ này 
trong điều kiện Việt Nam.
Từ khóa: rủi ro hoạt động, rủi ro danh tiếng, tổn thất hoạt động, tổn 
thất danh tiếng.
1. Tổn thất hoạt động và tổn thất danh tiếng
ịnh nghĩa đồng nhất về rủi ro 
hoạt động đã được thông qua 
bởi Ủy ban Basel: “Rủi ro hoạt 
động là rủi ro tổn thất do các 
quy trình, con người và hệ 
thống nội bộ không đầy đủ hoặc không thành 
công hoặc từ các sự kiện bên ngoài” (Ủy ban 
Basel, 2003, tr.2). Định nghĩa về rủi ro hoạt 
động này dựa trên cơ sở các nguyên nhân rủi 
ro hoạt động cơ bản, được chia thành bốn loại: 
Con người; quy trình; hệ thống và các sự kiện 
bên ngoài. Định nghĩa này bao gồm rủi ro pháp 
lý, nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược, 
danh tiếng và hệ thống (Ủy ban Basel, 2001). 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019
Theo quan điểm kinh doanh, rủi ro hoạt động 
có thể được coi là rủi ro do sản xuất hàng hoá 
và dịch vụ cho khách hàng của một công ty dịch 
vụ tài chính, tức là những rủi ro phát sinh từ sự 
cố trong các quy trình sản xuất mà liên quan 
đến chuỗi giá trị của tổ chức.
Để xác định các nguyên nhân gây ra tổn thất 
lớn nhất và cung cấp hướng dẫn về loại sự kiện 
cần được ghi lại trong dữ liệu tổn thất nội bộ, 
Ủy ban Basel đã chia các tổn thất rủi ro hoạt 
động thành bảy loại sự kiện (Ủy ban Basel, 
2002): Thực tiễn về việc làm và an toàn tại nơi 
làm việc; gian lận nội bộ; gian lận bên ngoài; 
khách hàng, sản phẩm và thực tiễn kinh doanh; 
thiệt hại đối với tài sản vật chất; gián đoạn trong 
kinh doanh và thất bại của hệ thống; và thực 
hiện, phân phối và quản lý quá trình. Ủy ban 
tin rằng mỗi sự kiện cá nhân nên được báo cáo 
riêng rẽ và đưa ra hướng dẫn về cái gì sẽ tạo ra 
một sự kiện (Ủy ban Basel, 2002).
Rủi ro danh tiếng thể hiện một loại rủi ro khó 
nắm bắt hơn so với rủi ro thị trường, tín dụng và 
hoạt động, do khó khăn trong việc định lượng 
ảnh hưởng của nó, và trên tất cả là hiểu được 
cơ chế tạo ra nó. Trước cuộc khủng hoảng tài 
chính năm 2008, hầu hết các ngân hàng quốc tế 
đã không thừa nhận rủi ro danh tiếng và hậu quả 
của nó (International Association of Risk and 
Compliance Professionals, 2015; Ferreira, 2014: 
32). Hậu quả của rủi ro danh tiếng bao gồm: Sự 
suy giảm giá trị cổ phiếu và vốn hóa thị trường; 
sự suy giảm dòng tiền dự kiến trong tương lai; 
hạn chế vốn do mất các nguồn vốn ngắn hạn; 
giảm vốn tự có dành cho rủi ro danh tiếng; mất 
khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng 
trong tương lai; tổn thất giá trị của cán bộ; phá 
hủy niềm tin của ngân hàng và lợi thế cạnh 
tranh; suy giảm các mối quan hệ kinh doanh 
hiện tại hoặc tương lai và các nhà quản lý áp đặt 
gánh nặng tuân thủ lớn hơn (Fiordelisi, Soana 
và Schwizer, 2014; Ross, 2005; Zboron, 2006). 
Soprano và các cộng sự (2010) chỉ ra một cách 
chính xác rằng hậu quả của danh tiếng bị tổn 
hại có thể nghiêm trọng vì sự mất danh tiếng 
lan truyền giữa khách hàng, nhân viên và cuối 
cùng là thị trường tài chính. Họ kết luận là rủi 
ro danh tiếng có thể là loại rủi ro tồi tệ nhất mà 
một công ty có thể phải đối mặt.
Trong khung quy định ngân hàng Basel II, Ủy 
ban Basel (2009) đã đưa ra một định nghĩa cập 
nhật về các trạng thái rủi ro danh tiếng như sau: 
“Rủi ro danh tiếng được định nghĩa là rủi ro 
phát sinh từ nhận thức tiêu cực từ phía khách 
hàng, đối tác, cổ đông, nhà đầu tư hoặc cơ quan 
quản lý, có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng 
duy trì hoạt động kinh doanh hiện tại hoặc các 
hoạt động kinh doanh mới và việc tiếp cận các 
nguồn vốn của ngân hàng (ví dụ, thông qua các 
thị trường liên ngân hàng hoặc chứng khoán 
hóa). Rủi ro danh tiếng là đa chiều và phản 
ánh nhận thức của những chủ thể khác trên thị 
trường. Hơn nữa, rủi ro này tồn tại trong toàn tổ 
chức và trạng thái rủi ro danh tiếng phụ thuộc 
tính đầy đủ của quy trình quản lý rủi ro nội bộ, 
cách thức và hiệu quả của việc quản lý ứng phó 
đối với các tác động bên ngoài đến các giao 
dịch liên quan tới ngân hàng (Ủy ban Basel, 
2009).
2. Lược khảo nghiên cứu về mối quan hệ 
giữa các sự kiện tổn thất hoạt động và tổn 
thất danh tiếng
Trước khi Basel 2 ra đời, các nghiên cứu tập 
trung ở việc tìm hiểu mối quan hệ giữa danh 
tiếng của doanh nghiệp và các sự kiện của rủi 
ro hoạt động. Palmrose, Richardson và Scholz 
(2004) đã sử dụng dữ liệu thông qua các hồ sơ 
của Lexis-Nexis và Ủy ban Chứng khoán Hoa 
Kỳ (Security and Exchange Commission- SEC) 
để đánh giá phản ứng của thị trường đối với các 
thông báo về trình bày lại các khoản thu nhập. 
Họ nhận thấy rằng trong vòng 2 ngày xung 
quanh thông báo, lợi nhuận bất thường xấp xỉ 
khoảng -9%. Phản ứng của thị trường là tiêu 
cực hơn đối với các bản sửa đổi liên quan đến 
gian lận. Các tác giả cho rằng các nhà đầu tư 
quan tâm hơn đến các điều chỉnh lại mà có ảnh 
hưởng tiêu cực đến sự trung thực của bộ phận 
quản lý hơn là các sửa đổi lại do “các vấn đề kỹ 
thuật thuộc về kế toán”.
Karpoff và Lott (1993) phân tích tổn thất danh 
tiếng mà các công ty gặp phải khi phải đối mặt 
với những cáo buộc gian lận hình sự. Trong 
một mẫu công bố gian lận doanh nghiệp từ 
năm 1978 đến năm 1987, họ nhận thấy rằng 
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019
các thông báo ban đầu về gian lận đối với các 
công ty tư nhân và các cơ quan chính phủ tương 
ứng với giá cổ phiếu trung bình giảm lần lượt 
khoảng 1,3% và 5,1%. Họ cũng thấy rằng các 
chi phí, hình phạt và tiền phạt hình sự thực tế 
của tòa án chiếm ít hơn 10% tổn thất giá trị thị 
trường của công ty. Dựa trên những giả định 
hợp lý, các tác giả nhận thấy rằng sự suy giảm 
lớn trong giá trị thị trường là do các cổ đông 
nghi ngờ có các hình phạt lớn hơn cho gian lận 
trong tương lai. Họ cũng tìm thấy một số bằng 
chứng cho thấy thu nhập của một công ty giảm 
sau một thông báo gian lận.
Murphy, Shrieves and Tibbs (2004) kiểm tra 
tác động của thị trường đối với các công ty bị 
buộc tội có hành vi sai trái như vi phạm luật 
chống độc quyền, hối lộ, gian lận và vi phạm 
bản quyền. Họ nhận thấy rằng những hành vi 
sai trái, gian lận này có ảnh hưởng tiêu cực lớn 
nhất đến giá cổ phiếu. Thêm vào đó, họ thấy 
rằng quy mô doanh nghiệp có quan hệ ngược 
chiều với tỷ lệ tổn thất trên giá trị thị trường 
của công ty và các cáo buộc về hành vi sai trái 
đi cùng với sự gia tăng biên độ dao động của 
lợi nhuận cổ phiếu. Các tác giả xác định ảnh 
hưởng của quy mô doanh nghiệp lên tổn thất thị 
trường về cả hiệu ứng kinh tế nhờ quy mô và 
ảnh hưởng danh tiếng. Đối với hiệu ứng kinh 
tế nhờ quy mô, nếu các hành vi sai trái gây ra 
chi phí cố định lên công ty thì phần trăm thiệt 
hại sẽ nhỏ hơn đối với các doanh nghiệp lớn 
hơn. Với ảnh hưởng danh tiếng, các công ty lớn 
hơn với thương hiệu tốt hơn có thể dễ dàng hơn 
trong việc chống lại các thiệt hại danh tiếng của 
một cáo buộc, do đó giảm tác động tổn thất.
Basel II đã tách biệt rủi ro danh tiếng ra khỏi 
rủi ro hoạt động và đưa ra một định nghĩa riêng 
về rủi ro danh tiếng. Cũng từ đây đã xuất hiện 
nhiều nghiên cứu về chủ đề công bố thông tin 
rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng (Pakhchanyan, 
2016). Phần lớn các nghiên cứu theo chủ đề này 
tiến hành nghiên cứu sự kiện để phân tích phản 
ứng thị trường đối với thông báo lỗ hổng hoạt 
động, trong đó có một số nghiên cứu thực hiện 
kiểm tra phản ứng thị trường chứng khoán và 
thiệt hại danh tiếng gây ra bởi các thông báo 
của các sự kiện tổn thất hoạt động lớn. Bảng 1 
cung cấp chi tiết các nghiên cứu, dữ liệu và giai 
đoạn mẫu của phân tích, và những phát hiện 
chính.
Cụ thể, Cummins, Lewis và Wei (2006) đánh 
giá tác động giá trị thị trường của các công bố 
về các tổn thất hoạt động của các ngân hàng và 
công ty bảo hiểm của Hoa Kỳ. Kết quả cho thấy 
giá trị vốn hóa phản ứng tiêu cực đối với công 
bố về các tổn thất hoạt động, trong đó cổ phiếu 
bảo hiểm có phản ứng mạnh hơn là cổ phiếu 
ngân hàng. Các tác giả cũng tìm thấy một mối 
quan hệ thuận chiều giữa các tổn thất và giá trị 
Tobin Q, cho thấy rằng các công bố về các tổn 
thất hoạt động có tác động lớn hơn lên các công 
ty có triển vọng tăng trưởng tốt hơn. Thêm vào 
đó, họ tìm thấy một số bằng chứng cho thấy tổn 
thất về giá trị thị trường là nghiêm trọng hơn 
so với những tổn thất đã công bố, điều mà có 
thể ngụ ý rằng những tổn thất đó có thể truyền 
tải những thông tin bất lợi về dòng tiền trong 
tương lai.
Perry và De Fontnouvelle (2005) nhận thấy 
rằng giá cổ phiếu chỉ bị ảnh hưởng tiêu cực vào 
ngày công bố thua lỗ, trong khi Gillet, Hubner 
và Plunus (2010) đã theo một cách tiếp cận 
tương tự, tập trung vào 152 ngân hàng và công 
ty bảo hiểm ở Hoa Kỳ và Châu Âu từ năm 1990 
đến năm 2004, sử dụng thước đo dựa vào tỷ lệ 
giữa mất mát được các ngân hàng công bố và 
tổn thất giá trị thị trường, phân loại tổn thất 
hoạt động của mỗi tổ chức tài chính theo ba sự 
kiện: (1) Ngày công bố trên báo chí; (2) ngày 
công nhận; và (3) ngày thanh toán số tiền tổn 
thất hoạt động.
3. Xây dựng mô hình nghiên cứu về mối 
quan hệ giữa các sự kiện tổn thất hoạt động 
và tổn thất danh tiếng
Việc đưa rủi ro hoạt động vào công thức vốn 
Basel II đã gây tranh cãi. Hầu hết các nghiên 
cứu đều giả định rằng giá trị của một công ty 
chính bằng giá trị hiện tại của các dòng tiền 
trong tương lai của công ty được điều chỉnh 
theo rủi ro và rủi ro hoạt động là một nguồn 
rủi ro lớn đối với dòng tiền của các tổ chức tài 
chính (King, 2001). Tuy nhiên, những người 
phản đối quy định mới của Basel cho rằng rủi 
ro hoạt động không phải là rủi ro “bảng cân 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019
đối”, mà chỉ đơn giản là thu nhập 
“tiếng ồn” có thể được các cổ đông xử 
lý bằng cách đa dạng hóa. Theo cách 
giải thích này, quản lý rủi ro hoạt động 
không còn hấp dẫn vì các rủi ro riêng 
hoặc không có hệ thống có thể được 
các nhà đầu tư giải quyết bằng cách 
nắm giữ danh mục đầu tư đa dạng.
Tuy nhiên, rủi ro hoạt động, khác với 
hầu hết các rủi ro khác mà các tổ chức 
tài chính phải đối mặt ở chỗ nó là bất 
đối xứng, chỉ gây tổn thất và không tạo 
thu nhập. Do đó, trong phạm vi tổn thất 
hoạt động có giá trị trung bình là âm, 
các tổ chức tài chính sẽ chi cho quản 
lý rủi ro hoạt động ít nhất đến mức chi 
phí cận biên bằng mức giảm cận biên 
của các sự kiện tổn thất hoạt động. 
Vì vậy, bằng cách quản lý rủi ro hoạt 
động, các tổ chức tài chính có thể tối 
đa hóa dòng tiền dự kiến trong tương 
lai bằng cách giảm chi phí dự kiến của 
các sự kiện tổn thất hoạt động. Các 
công ty tài chính như các công ty bảo 
hiểm và ngân hàng cũng có động lực 
để quản lý các khoản lỗ hoạt động vì 
khách hàng của họ đặc biệt nhạy cảm 
với rủi ro mất khả năng thanh toán 
(Merton và Perold, 1993), có khả năng 
bị phóng đại nếu các tổn thất hoạt động 
là lớn. Động cơ này có thể tăng lên từ 
việc các cơ quan xếp hạng gần đây tập 
trung hơn vào rủi ro hoạt động.
Froot và các cộng sự (1993) cho rằng 
bất đối xứng thông tin giữa các doanh 
nghiệp và nhà đầu tư làm cho vốn huy 
động mới (phát hành cổ phiếu mới) có 
chi phí đắt đỏ hơn là vốn tăng từ nguồn 
nội bộ. Vì vậy, nếu một công ty chịu 
cú sốc về vốn nội bộ do các sự kiện 
rủi ro không có hệ thống, các dự án 
trước đó có giá trị hiện tại ròng dương 
có thể phải từ bỏ vì việc phải tăng vốn 
bên ngoài làm cho chi phí vốn tăng lên 
(lãi suất chiết khấu tăng). Lý do này 
có thể được đặc biệt áp dụng cho các 
ngân hàng, ngành có xu hướng cung 
cấp nhiều thông tin về chất lượng danh B
ản
g 
1.
 C
ác
 n
gh
iê
n
 c
ứ
u
 t
h
ự
c 
n
gh
iệ
m
 p
h
ân
 t
íc
h
 t
ác
 đ
ộn
g 
củ
a 
cá
c 
sự
 k
iệ
n
 t
ổn
 t
h
ất
 h
oạ
t 
đ
ộn
g 
lê
n
 g
iá
 t
rị
 t
h
ị 
tr
ư
ờ
n
g 
và
 d
an
h
 t
iế
n
g 
củ
a 
cô
n
g 
ty
 c
ôn
g 
b
ố
N
gh
iê
n 
cứ
u
G
ia
i đ
oạ
n 
ng
hi
ên
cứ
u
S
ố 
lư
ợ
ng
sự
 k
iệ
n
Th
ị 
tr
ư
ờ
ng
C
ơ
 s
ở
 d
ữ
 li
ệu
về
 tổ
n 
th
ất
ho
ạt
 đ
ộn
g
G
iá
tr
ị t
hị
tr
ư
ờ
ng
Tổ
n 
hạ
i d
an
h 
tiế
ng
P
hụ
 th
uộ
c 
lo
ại
 s
ự
 k
iệ
n 
(B
as
el
 II
)
C
um
m
in
s,
 J
.D
.; 
Le
w
is
, C
.M
.; 
W
ei
, R
. 2
00
6
19
78
-2
00
3
49
2
U
.S
.
Al
go
 O
pV
an
ta
ge
G
iả
m
C
ó
Kh
ôn
g
G
ol
ds
te
in
, J
.; 
C
he
rn
ob
ai
, A
.; 
Be
na
ro
ch
, M
. 2
01
1
19
85
-2
00
9
14
2
U
.S
.
Al
go
 F
IR
ST
G
iả
m
K
hô
ng
 k
iể
m
 tr
a
K
hô
ng
 k
iể
m
 tr
a
Be
na
ro
ch
, M
.; 
C
he
rn
ob
ai
, A
.; 
G
ol
ds
te
in
, J
. 2
01
2
19
85
-2
00
9
14
2
U
.S
.
Al
go
 F
IR
ST
G
iả
m
K
hô
ng
 k
iể
m
 tr
a
K
hô
ng
 k
iể
m
 tr
a
G
ille
t, 
R
.; 
H
üb
ne
r, 
G
.; 
Pl
un
us
, S
. 2
01
0
19
90
-2
00
4
15
4
U
.S
.+
EU
Al
go
 O
pV
an
ta
ge
G
iả
m
C
ó
C
ó
Fi
or
de
lis
i, 
F.
; S
oa
na
, M
.-G
.; 
Sc
hw
iz
er
, P
. 2
01
3
20
03
-2
00
8
21
5
U
.S
.+
EU
Al
go
 O
pV
an
ta
ge
G
iả
m
C
ó
C
ó
Fi
or
de
lis
i, 
F.
; S
oa
na
, M
.-G
.; 
Sc
hw
iz
er
, P
. 2
01
4
19
94
-2
00
8
43
0
U
.S
.+
EU
Al
go
 O
pV
an
ta
ge
G
iả
m
C
ó
C
ó
C
an
na
s,
 G
.; 
M
as
al
a,
 G
.; 
M
ic
oc
ci
, M
. 2
00
9
20
00
-2
00
6
20
U
.S
.+
EU
Al
go
 O
pV
an
ta
ge
G
iả
m
C
ó
K
hô
ng
 k
iể
m
 tr
a
St
ur
m
, P
. 2
01
3
20
00
-2
00
9
13
6
EU
Ö
ffs
ch
O
R
G
iả
m
C
ó
Kh
ôn
g
Bi
el
l, 
L.
; M
ul
le
r, 
A.
 2
01
3
19
74
-2
00
9
27
9
EU
Al
go
 O
pV
an
ta
ge
G
iả
m
C
ó
C
ó
M
oo
sa
, I
.A
.; 
Li
, L
. 2
01
3
19
99
-2
00
8
16
3
G
B
Al
go
 F
IR
ST
G
iả
m
Kh
ôn
g
Kh
ôn
g
M
oo
sa
, I
.A
.; 
Si
lv
ap
ul
le
, P
. 2
01
2
19
90
-2
00
7
54
Au
st
ra
lia
Al
go
 F
IR
ST
G
iả
m
C
ó
Kh
ôn
g
N
gu
ồn
: 
P
ak
hc
ha
ny
an
 (
20
16
)
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019
mục cho vay cho các nhà đầu tư. Do đó, trong 
phạm vi các tổn thất hoạt động làm cạn kiệt vốn 
nội bộ, chi phí quản lý rủi ro bỏ ra có thể vượt 
quá mức cân bằng được nói ở trên bởi giá trị kỳ 
vọng của các sự kiện tổn thất. 
Từ những lập luận này, nghiên cứu tiến hành 
kiểm tra xem việc công bố các sự kiện tổn thất 
lớn thực tế có ảnh hưởng đến giá trị thị trường 
của một công ty hay không. Từ lược khảo các 
nghiên cứu, các tác giả nhận thấy để theo dõi 
tác động của các sự kiện tổn thất hoạt động lên 
danh tiếng của công ty phù hợp với điều kiện 
Việt Nam có thể sử dụng phương pháp nghiên 
cứu sự kiện, là một phương pháp thường được 
sử dụng trong nghiên cứu tài chính doanh 
nghiệp (Woon, 2004). Dựa trên hầu hết các 
nghiên cứu sử dụng nghiên cứu sự kiện, chúng 
tôi giả định rằng thị trường chứng khoán có 
hiệu quả theo nghĩa là tất cả thông tin có sẵn 
công khai đã được phản ánh vào giá cổ phiếu 
của công ty. Nếu thông báo về sự kiện tổn thất 
hoạt động truyền tải thông tin tiêu cực và bất 
ngờ, giá cổ phiếu của tổ chức sẽ bị ảnh hưởng 
bất lợi. Trong một thị trường vốn hiệu quả, 
các thông báo về các sự kiện thua lỗ hoạt động 
được cho là mang tính thông tin nếu chúng dẫn 
đến sự thay đổi trong đánh giá của các nhà đầu 
tư về dòng tiền trong tương lai của công ty. Nếu 
không, các thông báo được cho là không mang 
tính thông tin. Lập luận này dẫn đến giả thuyết 
sau đây:
H11: Sự kiện tổn thất hoạt động làm thay đổi 
giá cổ phiếu của công ty bị ảnh hưởng. Nghĩa 
là, thông báo sự kiện tổn thất hoạt động là 
mang tính thông tin, cụ thể hơn, truyền đạt 
thông tin tiêu cực về giá trị của công ty.
Theo lập luận của những người phản đối yêu 
cầu tăng vốn tự có để bù đắp rủi ro hoạt động, 
nếu các nhà đầu tư tránh các sự kiện tổn thất 
hoạt động bằng cách giữ danh mục đầu tư đa 
dạng, việc công bố tổn thất hoạt động sẽ không 
làm cho giá trị của một tổ chức tài chính thiệt 
hại vượt quá giá trị khoản tổn thất. Tuy nhiên, 
nếu thông báo truyền tải thông tin bất lợi ảnh 
hưởng đến kỳ vọng của các nhà đầu tư về dòng 
tiền trong tương lai thì giá trị thị trường có 
thể mất nhiều hơn khoản lỗ hoạt động. Theo 
Cummins và các cộng sự (2006), lý do giải 
thích cho điều này bao gồm: (1) Khoản tổn thất 
có thể khiến người tham gia thị trường điều 
chỉnh tăng kỳ vọng của họ về xác suất và mức 
độ nghiêm trọng của các sự kiện mất mát trong 
tương lai, đặc biệt nếu tổn thất truyền tải thông 
tin mới quan trọng về bản chất và mức độ tổn 
thất hoạt động tiềm ẩn. (2) Khoản tổn thất có 
thể kích hoạt các sự kiện tốn kém hơn như tổ 
chức lại bộ máy quản lý, các cuộc điều tra pháp 
lý hoặc truy tố, và kiện tụng. Khoản tổn thất 
này cũng có thể làm hỏng danh tiếng của công 
ty với các cơ quan pháp luật, tăng tần suất hoặc 
tính nghiêm ngặt của các hành động pháp lý 
trong tương lai không liên quan đến sự kiện tổn 
thất. (3) Khoản tổn thất có thể làm hỏng danh 
tiếng của công ty với khách hàng, giảm dòng 
tiền hoạt động trong tương lai khi khách hàng 
chuyển hoạt động kinh doanh của họ sang các 
đối thủ cạnh tranh. (4) Khoản tổn thất có thể 
gây áp lực giảm giá cổ phiếu khi các giao dịch 
do người bán thực hiện tăng. Ví dụ, một số nhà 
đầu tư tổ chức có thể không muốn báo cáo cổ 
phiếu của ngân hàng có trong danh mục nắm 
giữ của họ. (5) Khoản tổn thất có thể là dấu 
hiệu của các kiểm soát quản lý kém hoặc các lỗi 
quản lý khác, khiến thị trường điều chỉnh các 
luồng tiền dự kiến trong tương lai; và (6) tổn 
thất có thể khiến công ty phải từ bỏ các dự án 
hấp dẫn vì suy giảm vốn nội bộ. Chúng tôi đưa 
ra suy luận rằng phản ứng thị trường tiêu cực 
hơn sau các thông tin tổn thất hoạt động là hậu 
quả của các hiệu ứng danh tiếng, từ đó, dẫn đến 
giả thuyết sau:
Giả thuyết H21: Các sự kiện tổn thất hoạt động 
truyền tải thông tin bất lợi về dòng tiền dự kiến 
trong tương lai của công ty và do đó khiến giá 
trị doanh nghiệp giảm nhiều hơn chính số tổn 
thất đó.
Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu sâu hơn bằng 
cách liên kết các hiệu ứng danh tiếng này với 
các đặc tính của thông báo (như loại tổn thất). 
Palmrose, Richardson và Scholz (2004) nhận 
thấy phản ứng của thị trường là tiêu cực hơn 
đối với các bản sửa đổi liên quan đến gian lận. 
Các tác giả cho rằng các nhà đầu tư quan tâm 
hơn đến các điều chỉnh lại mà có ảnh hưởng 
tiêu cực đến sự trung thực của bộ phận quản 
lý hơn là các sửa đổi lại do “các vấn đề kỹ 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019
thuật thuộc về kế toán”. Đối với các tổ chức tài 
chính, sự tin tưởng của khách hàng là một tài 
sản quan trọng có thể bị lung lay đáng kể bởi 
một số loại sự kiện tổn thất hoạt động (Merton, 
1995). Do đó, các sự kiện liên quan đến vấn đề 
hành vi thị trường, mà làm tổn hại danh tiếng 
của tổ chức đối với khách hàng, có thể làm 
giảm dòng tiền dự kiến trong tương lai nhiều 
hơn các sự kiện không ảnh hưởng trực tiếp đến 
khách hàng, chẳng hạn như an toàn tại nơi làm 
việc của nhân viên. Điều này dẫn đến giả thuyết 
thứ ba sau đây:
Giả thuyết H31: Các loại tổn thất hoạt động 
khác nhau tác động khác nhau đến giá cổ phiếu 
của ngân hàng.
4. Kết luận
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các sự kiện tổn 
thất hoạt động có thể tác hại đến danh tiếng của 
ngân hàng theo nhiều cách. Trong số các hậu 
quả khác nhau của rủi ro danh tiếng, biến động 
giá cổ phiếu là một biến phù hợp có thể quan 
sát được trong điều kiện Việt Nam. Bài viết đã 
lược khảo một số nghiên cứu xung quanh chủ 
đề về tác động của các sự kiện hoạt động tới 
danh tiếng của ngân hàng, từ đó xây dựng một 
mô hình nghiên cứu phù hợp với điều kiện Việt 
Nam để có thể quan sát được mối quan hệ này 
rõ hơn. Mô hình nghiên cứu mới dừng ở việc 
đưa ra các giả thuyết, vẫn cần các bài viết sâu 
hơn để đưa ra các biến quan sát thích hợp 
nhất ■
Tài liệu tham khảo
1. Basel Committee (2001) Working Paper of the Regulatory Treatment of Operational Risk. Bank for International Settlements.
2. Basel Committee (2002) Operational Risk Data Collection Exercise – 2002. Bank for International Settlements. 
Basel Committee (2003) Sound Practices for the Management and Supervision of Operational Risk. Bank for International 
Settlements: Basel Committee Publications No. 96.
3. Basel Committee, 2009, Enhancements to the Basel II Framework. Bank for International Settlements.
4. Basel Committee (2011). Principles for the Sound Management of Operational Risk.
5. Cummins, J. D., Lewis, C. M., & Wei, R. (2006). The market value impact of operational loss events for US banks and 
insurers. Journal of Banking & Finance, 30(10), 2605-2634.
6. Benaroch, M., Chernobai, A., & Goldstein, J. (2012). An internal control perspective on the market value consequences of IT 
operational risk events. International Journal of Accounting Information Systems, 13(4), 357-381.
7. Biell, L., & Muller, A. (2013). Sudden crash or long torture: the timing of market reactions to operational loss events. Journal 
of Banking & Finance, 37(7), 2628-2638.
8. Cannas, G., Masala, G., & Micocci, M. (2009). Quantifying reputational effects for publicly traded financial 
institutions. Journal of Financial Transformation, 27, 76-81.
9. Ferreira, S.J. (2014). Analysing reputational risk in the South African Banking sector. Vanderbijlpark: NWU. (Mini-
dissertation-unpublished).
10. Fiordelisi, F., Soana, M. G., & Schwizer, P. (2013). The determinants of reputational risk in the banking sector. Journal of 
Banking & Finance, 37(5), 1359-1371.
11. Fiordelisi, F., Soana, M. G., & Schwizer, P. (2014). Reputational losses and operational risk in banking. The European 
Journal of Finance, 20(2), 105-124.
12. Froot, K. A., Scharfstein, D. S., & Stein, J. C. (1993). Risk management: Coordinating corporate investment and financing 
policies. the Journal of Finance, 48(5), 1629-1658.
13. Gillet, R., Hübner, G., & Plunus, S. (2010). Operational risk and reputation in the financial industry. Journal of Banking & 
Finance, 34(1), 224-235.
14. Goldstein, J., Chernobai, A., & Benaroch, M. (2011). An event study analysis of the economic impact of IT operational risk 
and its subcategories. Journal of the Association for Information Systems, 12(9), 1.
15. International Association of Risk and Compliance Professionals (2015), Reputational risk. 
Reputational_Risk.htm
16. Karpoff, J. M., & Lott Jr, J. R. (1993). The reputational penalty firms bear from committing criminal fraud. The Journal of 
Law and Economics, 36(2), 757-802.
17. King, J.L., 2001. Operational Risk: Measurement and Modeling. John Wiley & Sons Ltd., New York.
18. Merton, R. C., & Perold, A. (1993). Theory of risk capital in financial firms. Journal of applied corporate finance, 6(3), 16-
32.
19. Merton, R. C. (1995). A functional perspective of financial intermediation. Financial management, 23-41.
20. Moosa, I., & Li, L. (2013). The frequency and severity of operational losses: a cross-country comparison. Applied Economics 
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019
Letters, 20(2), 167-172.
21. Moosa, I., & Silvapulle, P. (2012). An empirical analysis of the operational losses of Australian banks. Accounting & 
Finance, 52(1), 165-185.
22. Murphy, D. L., Shrieves, R. E., & Tibbs, S. L. (2009). Determinants of the stock price reaction to allegations of corporate 
misconduct: Earnings, risk, and firm size effects. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 43(3), 581-612.
23. Pakhchanyan, S. (2016). Operational risk management in financial institutions: A literature review. International Journal of 
Financial Studies, 4(4), 20.
24. Palmrose, Z. V., Richardson, V. J., & Scholz, S. (2004). Determinants of market reactions to restatement 
announcements. Journal of accounting and economics, 37(1), 59-89.
25. Perry, J., & De Fontnouvelle, P. (2005). Measuring reputational risk: The market reaction to operational loss 
announcements. Available at SSRN 861364.
26. Ross, A. (2005). Report of Economist intelligence unit. Reputation: Risk of risks.
27. Soprano, A., Crielaard, B., Piacenza, F., & Ruspantini, D. (2010). Measuring Operational and Reputational Risk: A 
Practitioner’s Approach (Vol. 562). John Wiley & Sons.
28. Sturm, P. (2013). Operational and reputational risk in the European banking industry: The market reaction to operational 
risk events. Journal of Economic Behavior & Organization, 85, 191-206.
29. Woon, W. S. (2004). Introduction to the event study methodology. Singapore Management University, 4(7).
30. Zboron, M. (2006). Reputational risk in the context of A.M. best’s rating analysis. The Geneva Papers, 2006(31):500-511.
Thông tin tác giả
Phạm Hồng Linh, Thạc sĩ
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng 
Email: linhph@hvnh.edu.vn
Đỗ Thu Hằng, Thạc sĩ
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng 
Email: hangdo@hvnh.edu.vn
Summary
Develop hypotheses of the research model on the impact of operational loss events on reputational loss
In recent years, the number of banking scandals has been increasingly appearing in the media. These cases 
or operational loss events not only cause financial losses to the banks in which the events occurred but also 
can seriously damage their reputation. The serious consequences of reputation damage may include decline in 
stock value and market capitalization; decline in expected cash flow in the future; loss of current customers and 
potential customers in the future; loss of trust in banks and competitive advantages; decline in existing or future 
business relationships and greater compliance burdens able to be imposed by regulators. The paper reviews 
studies of the impact of operational loss events on reputation loss, which help to develop hypotheses of a model 
which can observe this relationship in the context of Vietnam.
Key words: operational risk, operational loss, reputational risk, reputational loss.
Linh Hong Pham, MEc.
Hang Thu Do, MEc.
Organization of all: Faculty of Banking, Banking Academy of Vietnam
này không đòi hỏi đảm bảo có trước, vừa giúp 
doanh nghiệp tiếp cận hình thức tín dụng mới, 
vừa giải tỏa áp lực về tài sản đảm bảo. Mặc dù 
nghiên cứu đã trả lời được các câu hỏi đặt ra 
nhưng nghiên cứu vẫn còn có hạn chế đó là mô 
hình nghiên cứu chỉ dừng lại vào phân tích ảnh 
hưởng của các nhân tố nội tại của các doanh 
tiếp theo trang 40
nghiệp, các nhân tố ngoại sinh và các nhân tố 
chưa thể lượng hóa vào mô hình còn chưa được 
đề cập đến. Tác giả hy vọng sẽ khắc phục được 
hạn chế này trong các nghiên cứu tiếp theo ■

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_cac_gia_thuyet_cua_mo_hinh_nghien_cuu_ve_tac_dong_c.pdf