Xây dựng và phân tích chỉ số tài chính toàn diện
Cơ sở dữ liệu Tài chính toàn diện toàn cầu do Ngân hàng Thế giới
(WB) xây dựng vào năm 2011 cung cấp các dữ liệu mô tả cho thấy
dân cư toàn cầu tiết kiệm, vay mượn và thanh toán như thế nào. Có
150.000 cư dân từ 15 tuổi trở lên từ hơn 140 quốc gia được thu thập
thông tin làm cơ sở dữ liệu về cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch
vụ tài chính chính thức và không chính thức. Mặc dù có nhiều khía
cạnh khác nhau được thu thập trong cơ sở dữ liệu, nhưng tài khoản,
vay và gửi là các yếu tố được tập trung hơn cả. Tận dụng nguồn dữ
liệu sẵn có và được lưu trữ với quy mô lớn, nhóm tác giả sử dụng
dữ liệu Tài chính toàn diện toàn cầu để xây dựng hai cấu phần tài
khoản, vay và gửi của chỉ số tài chính toàn diện tổng thể. Ưu điểm
của chỉ số này là được xây dựng dựa trên hai cấu phần dễ hiểu và
hữu ích cho quá trình hình thành chính sách.
Mục tiêu Bài viết xây dựng và phân tích chỉ số tài chính toàn diện
theo các cấu phần (khía cạnh) tài chính toàn diện là tài khoản, vay
và gửi (cấu phần thanh toán không được sử dụng do sự thiếu hụt dữ
liệu của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong năm 2011). Qua đó,
đánh giá thứ hạng tài chính toàn diện của Việt Nam trong khu vực
và trên thế giới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng và phân tích chỉ số tài chính toàn diện
21 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 206- Tháng 7. 2019 Xây dựng và phân tích chỉ số tài chính toàn diện1 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Nguyễn Minh Ngọc Nguyễn Lê Thảo Hương Chu Nhật Anh Ngày nhận:13/06/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/07/2019 Ngày duyệt đăng: 22/07/2019 Cơ sở dữ liệu Tài chính toàn diện toàn cầu do Ngân hàng Thế giới (WB) xây dựng vào năm 2011 cung cấp các dữ liệu mô tả cho thấy dân cư toàn cầu tiết kiệm, vay mượn và thanh toán như thế nào. Có 150.000 cư dân từ 15 tuổi trở lên từ hơn 140 quốc gia được thu thập thông tin làm cơ sở dữ liệu về cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức và không chính thức. Mặc dù có nhiều khía cạnh khác nhau được thu thập trong cơ sở dữ liệu, nhưng tài khoản, vay và gửi là các yếu tố được tập trung hơn cả. Tận dụng nguồn dữ liệu sẵn có và được lưu trữ với quy mô lớn, nhóm tác giả sử dụng dữ liệu Tài chính toàn diện toàn cầu để xây dựng hai cấu phần tài khoản, vay và gửi của chỉ số tài chính toàn diện tổng thể. Ưu điểm của chỉ số này là được xây dựng dựa trên hai cấu phần dễ hiểu và hữu ích cho quá trình hình thành chính sách. Mục tiêu Bài viết xây dựng và phân tích chỉ số tài chính toàn diện theo các cấu phần (khía cạnh) tài chính toàn diện là tài khoản, vay và gửi (cấu phần thanh toán không được sử dụng do sự thiếu hụt dữ liệu của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong năm 2011). Qua đó, đánh giá thứ hạng tài chính toàn diện của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Từ khóa: Tài chính toàn diện; Chỉ số tài chính toàn diện; Cấu phần của tài chính toàn diện 1. Cấu phần của tài chính toàn diện ài chính toàn diện được định nghĩa là việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức (thanh toán, tiết kiệm, vay mượn và bảo hiểm) phù hợp và thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt là những người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương, nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính cho tất cả mọi thành phần của nền kinh tế (Sarma, 2008; Camara và Tuesta, 2014). Với sự phát triển của tài chính toàn diện đi kèm 1 Trích từ kết quả Đề tài nghiên cứu khoa học Sinh viên “Thực trạng và các nhân tố ảnh tác động tới tài chính toàn diện”, Đề tài đạt giải Nhất cấp Học viện Ngân hàng, năm học 2018-2019. CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 206- Tháng 7. 2019 với nhiều khía cạnh nhằm đem lại nhiều tiện lợi và lợi ích cho người sử dụng, tài khoản là một trong các khía cạnh phổ biến nhất hiện nay với mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện. Việc sở hữu tài khoản này cũng được áp dụng rộng rãi tại các quốc gia với các dịch vụ đi kèm như tín dụng, thẻ ghi nợ để phục vụ chi trả và thanh toán (Demirguc-kunt, 2015). Ngoài ra, hình thức vay và tiết kiệm tại các tổ chức tài chính được cho là có đóng góp mạnh mẽ tới khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức giúp đem lại nhiều thuận lợi cho các cá nhân cũng như doanh nghiệp (Park và Rogelio, 2018). - Sở hữu và sử dụng tài khoản là một trong các yếu tố quan trọng trong việc phát triển tài chính toàn diện bởi hầu hết các dịch vụ tài chính chính thức đều gắn với việc sở hữu và sử dụng tài khoản. Ngoài ra, tỷ lệ phần trăm người trưởng thành sở hữu thẻ ghi nợ và tín dụng cũng được sử dụng để đánh giá mức độ phổ biến của tài khoản. Do vậy, để đo lường cấu phần tài khoản, chúng tôi sử dụng 3 chỉ báo: Tài khoản (tài khoản, % tuổi từ 15 trở lên), thẻ ghi nợ (sở hữu thẻ ghi nợ, % tuổi từ 15 trở lên) và thẻ tín dụng (sở hữu thẻ tín dụng, % tuổi từ 15 trở lên) (Word Bank Financial Inclusion Database, 2017). - Bên cạnh tài khoản, tiết kiệm và vay tiền từ các tổ chức tài chính chính thức đóng vai trò thiết yếu trong việc phổ biến tài chính toàn diện. Chúng tôi sử dụng hai chỉ báo: Vay (vay từ tổ chức tài chính, % tuổi từ 15 trở lên) và tiết kiệm (gửi tiền tại tổ chức tài chính, % tuổi từ 15 trở lên) để đo lường cấu phần vay và gửi, từ đó xem xét cách thức người lớn tiết kiệm cho tương lai hoặc giải quyết các thiếu hụt tài chính tại thời điểm hiện tại thông qua việc sử dụng các dịch vụ tài chính (Word Bank Financial Inclusion Database, 2017). 2. Xây dựng chỉ số tài chính toàn diện Trong quá trình xây dựng chỉ số tài chính toàn diện, việc đảm bảo duy trì một số lượng lớn dữ liệu không có tính chất so sánh giữa các quốc gia để tạo ra chỉ số toàn diện nhất gặp rất nhiều trở ngại. Sarma (2008, 2015), Cámara và Tuesta (2014) và Park (2018) đã nêu ra một vài phương pháp tiếp cận đo lường chỉ số tài chính toàn diện bằng cách sử dụng các khía cạnh khác nhau bao gồm việc sử dụng, khả năng truy cập, các rào cản hoặc quyền truy cập, tính sẵn có và việc sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức. Trong các tác giả trên, Sarma (2008) đã bỏ qua khía cạnh thanh toán và các dịch vụ tài chính phi ngân hàng khi chỉ tập trung vào hệ thống ngân hàng, trong khi đó, Park và Mercado (2018) nhầm lẫn về mặt khái niệm tài chính toàn diện khi họ kết hợp cả hai lí do có và không có quyền truy cập tài chính vào cùng một chỉ số. Chính vì những yếu điểm đó mà nhóm tác giả áp dụng phương pháp của Cámara và Tuesta (2014), phương pháp phân tích thành phần chính hai giai đoạn, để tính các cấu phần và chỉ số tài chính toàn diện. Tài chính toàn diện được xác định thông qua nhiều cấu phần và được giả định tồn tại một cấu trúc cơ sở ẩn sau một nhóm các chỉ báo có mối quan hệ tương quan. Tài chính toàn diện có thể được tính toán với chỉ số theo phương trình sau: 𝐹𝐼𝐼𝑖 = ω 1 𝑌1α+ ω2𝑌𝑖𝑏&𝑠 (1) Trong đó, i là các quốc gia và vùng lãnh thổ, (𝑌1α, 𝑌𝑖𝑏&𝑠) đại diện cho các cấu phần tài khoản, vay và gửi. Bước phân tích thành phần chính thứ nhất đo lường chỉ số các cấu phần 𝑌1α, 𝑌𝑖𝑏&𝑠 và các thông số được biểu thị bởi 2 phương trình sau: 𝑌1α = α1accounti + α2debiti + α3crediti (2) 𝑌 𝑖 𝑏&𝑠 = β 1 borrowi + β2savei (3) 𝑅𝑝, (𝑝×𝑝) là ma trận tương quan của chỉ số chuẩn hóa p đối với mỗi cấu phần. Chúng tôi biểu thị 𝜆 𝑗 (j = 1, , m) là giá trị eigenvalue thứ j, trong đó, số lượng thành phần chính j tương ứng với số lượng chỉ báo p. Eigenvector của ma trận tương quan là 𝜑 𝑗 (𝑝×1). Không mất tính tổng quát, với mỗi cấu phần, chúng tôi giả định 𝜆 1 >𝜆 2 >>𝜆 𝑚 và coi 𝑃 𝑘 (k = 1, , m) là thành phần chính thứ k. Mỗi chỉ số của các cấu phần được tính như sau: 𝑌1α = (4) (5) Trong đó 𝑃 𝑘 = X 𝜆 𝑚 . 𝜆 𝑚 đại diện cho phương sai của thành phần chính thứ m, X là ma CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 206- Tháng 7. 2019 trận các chỉ báo. Do tỷ trọng của mỗi cấu phần giảm dần, phần lớn sự biến động của cấu phần được giải thích bởi thành phần chính thứ nhất và giảm dần theo thứ tự ở thành phần chính tiếp theo. Mặc dù thông thường là thay thế toàn bộ các biến số bằng một vài cấu phần chính ban đầu, chúng tôi sử dụng tất cả các cấu phần chính để ghi nhận toàn bộ 100% sự biến động của các chỉ số. Sau khi chỉ số riêng cho hai cấu phần được tính toán, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính giai đoạn hai để tính tỷ trọng cho từng cấu phần và tính được chỉ số tài chính toàn diện theo phương trình sau: (6) Trong đó 𝐹𝐼𝐼 𝑖 là chỉ số tài chính toàn diện tổng quát cho quốc gia và vùng lãnh thổ i. 𝑃 𝑘 = X 𝜆 𝑚 . 𝜆 𝑚 là phương sai của thành phần chính thứ m, và X là ma trận các chỉ báo. Trọng số cao nhất 𝜆 1 được gắn vào thành phần chính đầu tiên bởi nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng biến thiên trong tất cả các biến. Tương tự, trọng số thứ hai 𝜆 2 được gắn vào thành phần chính thứ hai. Tất cả các cấu phần chính được sử dụng để ghi nhận toàn bộ 100% sự biến động của các chỉ số. Sau khi biến đổi, nhóm tác giả viết mỗi cấu phần 𝑃 𝑘𝑖 dưới dạng sau: (7) (8) Từ các bước phân tích trên, chúng tôi tổng quát lại công thức tính chỉ số tài chính toàn diện dưới dạng phương trình sau: (9) Ngoài ra, chỉ số tài chính toàn diện tổng quát được trình bày dưới dạng bình quân có trọng số với là tỷ trọng mỗi cấu phần: w k = 3. Dữ liệu Dữ liệu Tài chính toàn diện toàn cầu của WB năm 2011, 2014 và 2017 được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Để có thể tính chỉ số tài chính toàn diện một cách chính xác và đầy đủ, nhóm tác giả chỉ chọn các quốc gia có dữ liệu ở cả ba năm 2011, 2014 và 2017, do đó, từ 140 quốc gia có dữ liệu, sau khi lọc bớt các quốc gia bị thiếu hụt dữ liệu ở một số năm, chỉ còn 126 quốc gia được lựa chọn lấy dữ liệu. 4. Phân tích chỉ số tài chính toàn diện Tại bước thứ nhất của phân tích thành phần chính, trong mỗi cấu phần tài khoản, vay và gửi, chúng tôi thực hiện tính toán tỷ trọng cho các chỉ báo. Các kết quả tính toán được có giá trị quan trọng và giúp ích cho các nhà làm chính sách trong việc xác định chiến lược Tài chính toàn diện. Bảng 1 thống kê các eigenvectors, eigenvalues, và tỷ trọng với từng cấu phần tài khoản, vay và gửi. Từ bảng phân tích, nhìn chung, tỷ trọng và mức độ biến động của các thành phần trong chỉ báo cho thấy sự ổn định qua các năm 2011, 2014 và 2017. Đối với cấu phần tài khoản, tỷ trọng các chỉ báo qua từng năm 2011, 2014 và 2017 gần như không biến động, ở mức ổn định. Trong đó, tỷ trọng chỉ báo sở hữu thẻ tín dụng chiếm nhiều nhất (0,37), kế đến là tỷ trọng chỉ báo sở hữu tài khoản (0,32) và sở hữu thẻ ghi nợ chiếm tỷ trọng ít nhất (0,31). Tỷ trọng chỉ báo sở hữu tài khoản thường được sử dụng nhiều trong nghiên cứu tài chính toàn diện lại chứa thông tin ít hơn chỉ báo sở hữu thẻ tín dụng. Mặc dù không có sự đồng đều hoàn toàn trong tỷ trọng của các chỉ báo, nhưng không có tỷ trọng của chỉ báo nào chiếm quá nhiều trong cấu phần. Đây là điều kiện tốt để xây dựng chỉ số. Đối với cấu phần vay và gửi, tỷ trọng vay từ tổ chức tài chính luôn được ghi nhận ở mức thấp hơn so với tỷ trọng gửi tiền vào tổ chức tài chính qua cả ba năm 2011, 2014 và 2017. Chỉ báo vay từ tổ chức tài chính chiếm tỷ trọng bằng khoảng một nửa so với mức tỷ trọng của chỉ báo gửi tiền vào tổ chức tài chính, 0,34 so với 0,66. Đối với cấu phần tài khoản, 89% thông tin trong cấu phần được giải thích bởi thành phần thứ nhất với mức phân bố tương đối đồng đều trong cả ba chỉ báo (từ 0,56 đến 0,59). Chỉ báo sở hữu thẻ tín dụng có vai trò quan trọng khi đóng góp thông tin trong cả CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 206- Tháng 7. 2019 B ản g 1. B ư ớ c p h ân t íc h t h àn h p h ần c h ín h t h ứ n h ất Tà i k ho ản 20 11 20 14 20 17 B iế n C ấu p hầ n 1 C ấu p hầ n 2 C ấu p hầ n 3 Tỷ tr ọn g C ấu ph ần 1 C ấu ph ần 2 C ấu ph ần 3 Tỷ tr ọn g C ấu p hầ n 1 C ấu ph ần 2 C ấu ph ần 3 Tỷ tr ọn g S ở h ữ u tà i k ho ản 0. 59 -0 .1 6 -0 .7 9 0. 32 0. 59 -0 .4 4 0. 68 0. 32 0. 59 -0 .4 4 0. 68 0. 32 S ở h ữ u th ẻ tín dụ ng 0. 56 0. 79 0. 26 0. 37 0. 55 0. 83 0. 06 0. 37 0. 56 0. 83 0. 05 0. 37 S ở h ữ u th ẻ gh i n ợ 0. 58 -0 .6 0 0. 56 0. 31 0. 59 -0 .3 4 -0 .7 3 0. 31 0. 59 -0 .3 5 -0 .7 3 0. 31 E ig en va lu es 2. 65 0. 25 0. 09 2. 69 0. 26 0. 06 2. 68 0. 25 0. 07 V ay v à gử i 20 11 20 14 20 17 B iế n C ấu p hầ n 1 C ấu p hầ n 2 Tỷ tr ọn g C ấu p hầ n 1 C ấu p hầ n 2 Tỷ tr ọn g C ấu ph ần 1 C ấu ph ần 2 Tỷ tr ọn g V ay từ c ơ s ở tà i c hí nh 0. 71 -0 .7 1 0. 32 0. 71 -0 .7 1 0. 36 0. 71 -0 .7 1 0. 34 Ti ết k iệ m tạ i c ơ s ở tà i c hí nh 0. 71 0. 71 0. 68 0. 71 0. 71 0. 64 0. 71 0. 71 0. 66 E ig en va lu es 1. 47 0. 53 1. 55 0. 45 1. 51 0. 49 N gu ồn : T ín h to án c ủa N hó m t ác g iả , p hầ n m ền h ỗ tr ợ E vi ew B ản g 2. B ư ớ c p h ân t íc h t h àn h p h ần c h ín h t h ứ h ai Tà i c hí nh to àn d iệ n 20 11 20 14 20 17 C ấu p hầ n C ấu p hầ n 1 C ấu p hầ n 2 Tỷ tr ọn g C ấu p hầ n 1 C ấu p hầ n 2 Tỷ tr ọn g C ấu p hầ n 1 C ấu p hầ n 2 Tỷ tr ọn g Tà i k ho ản 0. 71 -0 .7 1 0. 46 0. 71 -0 .7 1 0. 46 0. 71 -0 .7 1 0. 47 V ay v à gử i 0. 71 0. 71 0. 54 0. 71 0. 71 0. 54 0. 71 0. 71 0. 53 E ig en va lu es 1. 84 0. 16 1. 86 0. 14 1. 88 0. 12 N gu ồn : T ín h to án c ủa N hó m t ác g iả , p hầ n m ềm h ỗ tr ợ E vi ew CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 25Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 206- Tháng 7. 2019 ba thành phần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Tại thành phần thứ ba, sự đóng góp của chỉ báo sở hữu thẻ tín dụng không nhiều, chủ yếu là sự đóng góp thông tin từ chỉ báo sở hữu thẻ ghi nợ vào năm 2011 (0,56) và chỉ báo sở hữu tài khoản (0,68) vào 2 năm 2014 và 2017. Bên cạnh đó, thông tin được đóng góp bởi chỉ báo vay và gửi khá đồng đều trong thành phần thứ nhất. Trong năm 2011, thành phần thứ nhất giải thích 73% thông tin trong cấu phần, đến năm 2014 có sự tăng nhẹ trong đóng góp thông tin (78%) và đến năm 2017, thành phần thứ nhất giải thích tới 75% sự biến động của cấu phần vay và gửi. Chỉ báo tiết kiệm tại cơ sở tài chính đóng vai trò quan trọng hơn trong việc đóng góp thêm thông tin trong thành phần thứ hai với mức đóng góp tương đương cho thành phần thứ nhất (0,71). Tại bước phân tích thứ hai, phương pháp được chúng tôi áp dụng giống như tính toán các cấu phần của tài chính toàn diện. Tương tự, Bảng 2 trình bày các thành phần chính và tỷ trọng mỗi cấu phần trong chỉ số tài chính toàn diện qua các năm. Trong hai cấu phần giải thích sự biến động của tài chính toàn diện, cấu phần vay và gửi luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với cấu phần tài khoản (0,54 lớn hơn 0,46). Mặc dù tỷ trọng khác nhau, song không có sự khác biệt đáng kể giữa các cấu phần. Thông qua Bảng 3 phân tích thành phần chính, hơn 90% thông tin về sự biến động dữ liệu được giải thích bởi thành phần thứ nhất và có sự phân bố bằng nhau giữa hai cấu phần. Ngoài ra, cấu phần vay và gửi đóng vai trò quan trọng hơn khi đóng góp thêm thông tin cho thành phần thứ hai, giúp giải thích tốt hơn chỉ số tài chính toàn diện tổng thể. Bảng 4 thực hiện việc xếp hạng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu dựa theo các cấu phần chỉ số Tài chính toàn diện được tính toán trong ba năm 2011, 2014 và 2017. Từ đó, thứ tự xếp hạng qua các năm ... 16 99 5 10 4 11 11 0 45 N ig er ia 0. 19 89 -1 7 72 -1 1 78 0. 18 88 -1 3 75 -9 79 0. 2 85 -2 1 64 -2 2 63 46 Za m bi a 0. 19 90 5 95 4 94 0. 18 90 0 90 -2 88 0. 2 86 3 89 0 86 47 P hi lip pi ne s 0. 16 97 -1 0 87 -2 2 75 0. 13 10 5 -1 4 91 -1 9 86 0. 19 87 -1 3 74 -3 2 55 48 Ira q 0. 02 12 4 -6 11 8 -1 7 10 7 0. 04 11 9 0 11 9 -7 11 2 0 12 5 -9 11 6 -2 8 97 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 206- Tháng 7. 2019 ở Châu Âu có xếp hạng cao ở hai nhóm đầu và ổn định qua các năm trong khi khu vực các nước Châu Á và Châu Mĩ phân bổ xếp hạng tương đối rải rác ở tất cả các nhóm và biến động mạnh mẽ theo thời gian. Nhóm xếp hạng cuối cùng hầu hết xếp hạng bởi các nước Châu Phi. Nhìn vào bảng dữ liệu, mặc dù các nước Châu Âu chiếm đa số thứ hạng cao trong 32 quốc gia đầu, song không có bất kỳ năm nào trong phạm vi nghiên cứu ghi nhận thứ hạng cao nhất thuộc về một quốc gia của khu vực này. Trong hai năm 2011 và 2014, New Zealand(2) duy trì được thứ hạng cao nhất và nằm ở vị trí thứ hai với chỉ số 0,95 trong năm 2017 bởi sự tăng trưởng của Canada(1) từ xếp hạng thứ 4 năm 2011, thứ 2 năm 2014 và vượt qua New Zealand(2) để đứng nhất vào năm 2017 (0.97). Cũng như New Zealand(2) và Canada(1), Australia(3) và Mỹ(4) là hai trường hợp đặc biệt khi không thuộc Châu Âu và giữ vị trí khá cao trong bảng xếp hạng bởi nền kinh tế phát triển vượt bậc trên thế giới. Có đến gần 20 quốc gia thuộc khu vực Châu Âu, trong đó 6 nước nằm ở Bắc Âu (Thụy Điển, Vương quốc Anh(6), Đan Mạch, Phần Lan, Ireland, Estonia(15)) và 6 nước khu vực Tây Âu (Luxembourg(5), Đức(7), Bỉ, Áo, Hà Lan, Pháp) luôn vị trí ở tốp đầu trong 126 quốc gia vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, trong thời gian gần nhất trở lại đây, chỉ số của các nước này có xu hướng giảm tương đối đáng kể, ngoại trừ Luxembourg(5) và Đức(7) vẫn giữ vững vị trí của mình và chỉ có Vương quốc Anh(6), Estonia(15) có bước nhảy vọt trong thứ hạng. Nhóm phần tư thứ nhất cũng ghi nhận sự biến động đến từ các nước Đông và Nam Âu khi Cyprus(25) xếp thứ hạng thứ 21 vào năm 2011 và bị đẩy xuống vị trí tương đối tại nhóm phần tư thứ hai vào hai năm 2014 và 2017, ngược lại với Ba Lan(16) xếp hạng ngoài 40 và vươn lên vị trí 30 năm 2017. Một số quốc gia có nền kinh tế thu nhập cao nổi bật như Ý(14), Tây Ban Nha(11) góp mặt trong 32 quốc gia đầu tiên này. Bên cạnh đó, nhóm phần tư thứ nhất còn ghi nhận thứ hạng cao của các nền kinh tế phát triển nổi bật của khu vực Châu Á Hàn Quốc(9); Bán đảo Hong Kong(13); Nhật Bản(10); Đài Loan(12); Israel và Singapore(8). Một vài quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn như Iran(18), Cộng hòa Hồi giáo và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất(17) nằm trong top 30 và Kuwait(23), Mông Cổ(19), Bahrain là các trường hợp đặc biệt khi xuất hiện trong top đầu tại một trong các năm quan sát. Nhóm 32 quốc gia xếp hạng thứ hai bao gồm một số nước còn lại của Châu Âu, quốc gia Tây Á xuất khẩu dầu mỏ gồm Cộng hòa Hồi giáo và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất(17), Kuwait(23 các quốc gia Nam Mĩ có nền kinh tế ổn định gồm Brazil(28), Chile(26), Uruguay(27), các nước thuộc khu vực Đông Á và Tà i c hí nh to àn d iệ n Tà i k ho ản V ay v à gử i Q uố c gi a/ V ùn g lã nh th ổ C hỉ s ố (2 01 7) X ếp h ạn g C hỉ s ố (2 01 7) X ếp h ạn g C hỉ s ố (2 01 7) X ếp h ạn g ST T 20 17 20 14 20 11 20 17 20 14 20 11 20 17 20 14 20 11 49 A fg ha ni st an 0. 02 12 5 -4 12 1 -1 3 11 2 0 12 6 -2 12 4 -1 2 11 4 0. 03 12 2 -5 11 7 -1 6 10 6 50 N ig er 0. 01 12 6 0 12 6 0 12 6 0. 01 12 5 1 12 6 1 12 6 0. 01 12 4 1 12 5 1 12 5 N gu ồn : T ín h to án c ủa N hó m t ác g iả , p hầ n m ềm h ỗ tr ợ E vi ew v à E xc el CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 206- Tháng 7. 2019 Đông Nam Á như Malaysia(20), Thái Lan(22), Trung Quốc(24), Mông Cổ(19), và trường hợp đáng chú ý từ Châu Phi bên cạnh Nam Mỹ(35) là Kenya(29). Nhìn chung, thứ hạng của nhóm này biến động khá thất thường khi có thể tăng hoặc giảm rất nhanh. Như trường hợp của Mauritius, vào năm 2011 đứng nhất tại nhóm phần tư thứ hai nhưng càng về sau đến năm 2017 lại tụt hạng rất nhanh với chỉ số 0,45 tại vị trí thứ 43. Các nước thuộc khu vực Nam Mĩ ghi nhận sự chuyển biến tích cực khi chỉ số tài chính toàn diện vào năm 2011 xếp ở tốp cuối của nhóm này và tăng dần đều xếp hạng vào năm 2014 và 2017. Ngược lại, các quốc gia đến từ châu Âu mặc dù có vị trí tương đối cao vào thời điểm đầu (Bồ Đao Nha xếp 35, Hy Lạp xếp hạng 44, Serbia 56 và Motenegro 53), nhưng lại đánh mất vị trí và giảm thứ hạng, cụ thể, Hy Lạp(37) và Montenegro(33) còn bị đẩy xuống nhóm phần tư thứ ba vào năm 2017. Nhìn chung, nhóm các quốc gia và vùng lãnh thổ này đều có thu nhập ở mức trung bình và thuộc nền kinh tế đang phát triển. Một vài quốc gia Đông và Nam Âu như Kosovo và Albania, hầu hết các nước khu vực Châu Mỹ-Latinh, các nhóm nước khu vực Tây Á, Nam Á, Đông Nam Á (bao gồm Việt Nam) thuộc nhóm phần tư thứ ba. Phần lớn nhóm cuối bao gồm các nước tới từ Châu Phi, một vài nước từ Trung và Tây Á như Tajikista, Pakistan, Afghanistan, Iraq, và một ngoại lệ từ Châu Âu là Moldova. Mười quốc gia xếp hạng cuối cùng là các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp từ Trung, Nam Á, Trung, Tây Bắc Phi. Dựa vào bảng xếp hạng 126 quốc gia về sự phổ biến của tài khoản ngân hàng và mức độ đi vay và gửi tại cột giữa và bên tay phải, ta có thể thấy được sự phân hoá rõ ràng giữa 4 nhóm: Nhóm 1 chủ yếu là các quốc gia tới từ Châu Âu; nhóm 2 là các quốc gia tới từ Châu Âu và châu Mỹ; nhóm 3 là các quốc gia phát triển ở Châu Á; và các quốc gia rơi vào nhóm 4 chủ yếu tới từ Châu Phi. Nhóm 1, với 31 quốc gia, có tới 17 quốc gia tới từ Châu Âu, với các tên rất quen thuộc (Luxembourg(5), Vương quốc Anh(6), Hà Lan) chiếm tới hơn 50% các quốc gia và vùng lãnh thổ của nhóm 1. Tuy nhiên, khi quan sát những nước đầu tiên dẫn đầu của nhóm này, New Zealand, Canada, Australia, đều là những nước không tới từ Châu Âu. Đây là những quốc gia rất phát triển trong lĩnh vực ngân hàng, lí giải cho sự dẫn đầu khi nói tới sở hữu tài khoản và khoản vay gửi. Điều đặc biệt, có sự xuất hiện của Kuwait, đất nước đến từ Tây Á, một điểm nhấn khi đứng trong top 10 tài khoản và khoản vay gửi. Ngoài ra, nhóm 1 còn có một số nước phát triển từ Châu Á như Hàn Quốc(9); Bán đảo Hong Kong(13); Nhật Bản(10); Đài Loan(12); và hai nước Đông Nam Á gồm Singapore(8) và Thái Lan(22) Nhóm 2 nửa đầu là các nước nhỏ ở Châu Âu như Croatia, Hy Lạp(37); nửa dưới là các nước vùng cao châu Mỹ như Bolivia, Chile, Ecuador. Ngoài ra có một số quốc gia Châu Á như Malaysia và Trung Quốc(24). Nga là một đất nước phát triển nhưng lại thuộc cuối nhóm 2 tổng số 126 nước. Chỉ số sở hữu tài khoản và mức độ vay gửi của nhóm này chỉ xấp xỉ bằng một nửa so với nhóm đầu. Nhóm 3 chỉ có 5 nước Châu Âu như Ukraine, Romania; một số nước châu Mỹ đang rơi vào khủng hoảng như Colombia, Venezuela; một số nước Đông Nam Á đang phát triển như Philippines, Việt Nam(39), Indonesia. Argentina là một điểm ngoại lai khi rơi vào nhóm 3 này. Dựa theo bảng, chỉ số cấu phần tài khoản và vay gửi của nhóm này chỉ bằng 1/5 so với nhóm 1. Các quốc gia thuộc nhóm 4 gần như không có tài khoản ngân hàng và phát sinh khoản vay nào thuộc về các nước kém phát triển và có thu nhập thấp, chủ yếu đến từ Châu Phi. Khi liên hệ giữa bảng xếp hạng của cấu phần tài khoản, vay và gửi với bảng xếp hạng tài chính toàn diện, hầu hết vị trí xếp hạng chỉ số tài chính toàn diện được duy trì và nâng lên nhờ thứ hạng cao của chỉ số cấu phần vay và gửi. Trong khi đó, cấu phần tài khoản có tác động ít hơn và thường được coi là nguyên nhân kéo thứ hạng chung đi xuống. Mặc dù vậy, nhóm các nước thuộc phần tư thứ nhất có xếp hạng khá ổn định và đồng đều tại cả hai cấu phần tài khoản lẫn vay CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 206- Tháng 7. 2019 và gửi. Điều đó làm cho vị trí xếp hạng chung luôn được giữ ở mức ổn định và ít thay đổi so với cá nhóm nước còn lại. 5. Thứ hạng của Việt Nam và thảo luận kết quả nghiên cứu Việt Nam và các quốc gia thuộc khu vực ASEAN có sự phân hóa rõ rệt. Các nước phát triển có nền kinh tế ổn định hơn như Singapore và Thailand luôn nằm ở top nhóm phần tư thứ nhất. Xếp hạng phía sau là các nước Malaysia, Indonesia, Việt Nam, Philippones và Cambodia. Mặc dù, xếp hạng trong chỉ số cấu phần vay và gửi của Việt Nam ở vị trí tương đối cao tại phần tư thứ hai trong cả ba năm, nhưng thứ hạng lại quá thấp, gần như cuối top ba các quốc gia xếp hạng dẫn đến chỉ số tài chính toàn diện của Việt Nam bị kéo tụt xuống khá nhiều và rất thấp (0,26), đứng sau Malaysia và Indonesia. Điều này cũng tương tự với các nước còn lại khi việc tham gia vay và gửi trở nên phổ biến hơn so với sử dụng và sở hữu tài khoản. Con số thứ hạng này phản ánh rằng, không chỉ Việt Nam mà các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á có xu hướng ít quan tâm tới việc sở hữu tài khoản tại ngân hàng hay sâu xa hơn là chưa Tài liệu tham khảo 1. Cámara, N. and Tuesta, D. (2014) Measuring Financial Inclusion: A Multidimensional Index. BBVA Working Paper. No.14/26 2. Chu, K. L., Nguyen, M. P., Truong, H. D. H, Dao, B. N., và Pham, M. H. (2019) Nhân tố ảnh hưởng tới tài chính bao trùm: bằng chứng mới từ phân tích dữ liệu bảng, Báo cáo chuyên đề Học viện Ngân Hàng. 3. Park, C. Y. and Mercado, R. V. J. (2018) Financial Inclusion: New Measurement and Cross-Country Impact Assessment. ADB Economics Working Paper Series. No. 426 4. Sarma, M. (2008) ‘Index of Financial Inclusion’, Indian Council for Research on International Economic Relations Working Paper No 215, (215), pp. 1–26. doi: 10.1007/978-81-322-1650-6_28. 5. Sarma, M. (2015) ‘Measuring financial inclusion’, Economics Bulletin, 35(1), pp. 604–611. 6. https://globalfindex.worldbank.org/#data_sec_focus Thông tin tác giả Nguyễn Minh Ngọc Email: minhngoc2499@gmail.com Nguyễn Lê Thảo Hương Email: n.l.t.huong1998@gmail.com Chu Nhật Anh Email: nhatanhc259@gmail.com Viện Đào tạo Quốc tế, Học viên Ngân hàng Summary Constructing and analyzing financial inclusion index The Global Financial Inclusion (Global Findex) database is constructed by World Bank to provides an insight data of how people saving, borrowing and making payment. Base on the interview from more than 140 economics with about 150,00 nationally representative selected randomly adult at the age of 15 and above to inform about the access and usage of the banked and the unbanked. Take advantage from available and stored data on a large scale, authors formed a comprehensive financial inclusion index with two main dimensions account; borrowing and saving. Through analyzing the financial inconclusion index, Vietnamese ranking in term of financial inclusion was evaluated and compared with other economics in regions and all over the world. Keyword: Financial Inclusion, Financial Inclusion Index, Financial Inclusion Component Ngoc Minh Nguyen Huong Le Thao Nguyen Anh Nhat Chu Organization of all: International School of Business, Banking Academy of Vietnam xem tiếp trang 72 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 206- Tháng 7. 2019 Thông tin tác giả Nguyễn Văn Thắng, Phó giáo sư, Tiến sĩ Viện Phát triển Bền vững, Đại học Kinh tế Quốc dân Email: nguyenvanthang@neu.edu.vn; thang.apim@yahoo.com Summary Can the use of code of conducts reduce informal fees? Evidence from firm survey in Vietnam Code of conduct is a useful guideline for employees’ behaviours and a tool to reduce frauds in advanced countries. In Vietnam the amended Anti-corruption Law encourages firms to develop and apply their own code of conduct as an anti-corruption tool. However, evidences of the code of conduct’s impact on firm legal compliance in Vietnam is rare. This study examines whether the use of code of conduct help reduce corruption in term of informal fees. Based on survey data from firms in Vietnam, the study shows that the use of code of conduct reduces informal fees. This result suggests that firms could actively participate in the anti-corruption agenda by developing their own code of conduct, along with appropriate internal control system. Key words: Application of Code of conduct, informal fee. Thang Van Nguyen, Assoc.Prof. PhD. Institute for Sustainable Development, National Economics University tiếp xúc nhiều với sự thuận tiện của ngân hàng số ngày nay. Thay vào đó, xu hướng vay mượn và tiết kiệm cho tương lai lại được ưa chuộng cao, dẫn đến sự chênh lệch về mức độ phổ biến và làm biến động mạnh mẽ tới chỉ số tài chính toàn diện tổng thể. Việt Nam xếp hạng rất thấp qua từng năm ở chỉ số cấu phần tài khoản với thứ hạng 92 vào năm 2011 và 97 vào 2017. Sự suy giảm này cho thấy ngày càng ít người quan tâm cũng như sở hữu tài khoản bởi họ không thấy sự khác biệt quá lớn khi có và không có tài khoản. Trái lại, chỉ số thứ hạng vay và gửi lại có dấu hiệu tăng báo hiệu rằng, người Việt đang ngày càng quan tâm hơn tới cuộc sống tương lai và việc đi vay có thể xuất phát từ khả năng muốn mở rộng làm ăn kinh doanh phát triển kinh tế. Đây là điều Việt Nam cần lưu ý để thúc đẩy tài chính toàn diện phát triển. Nhìn chung, sở hữu tài khoản tập trung chủ yếu ở nhóm người có thu nhập cao, và số lượng này đang có xu hướng tăng mạnh trong những năm 2014, 2017. So sánh giữa Việt Nam với nước ngoài về tài khoản, cùng trong khu vực Đông Nam Á so với các nước phát triển, Việt Nam đang có xu thế chững lại và kém phát triển hơn tuy rằng những năm gần đây việc sử dụng tài khoản đang phát triển mạnh. Đối với tiết kiệm và vay mượn, các nước có thu nhập cao có thiên hướng chọn sử dụng các dịch vụ thông qua tổ chức tài chính chính thức thay vì chọn các tổ chức không chính thức, ngược lại với các quốc gia có thu nhập đang phát triển và thu nhập thấp. Ở các quốc gia phát triển có chỉ số TCTD và các cấu phần bên trong luôn ở mức cao và ổn định hơn, trong khi các quốc gia đang phát triển thường xếp hạng ở mức thấp và mức độ biến động với chỉ số tương đối mạnh. Cấu phần vay và gửi giải thích nhiều hơn sự biến động trong chỉ số TCTD so với cấu phần tài khoản, mặc dù sự khác biệt trong tỷ trọng của từng cấu phần là khá thấp ■ tiếp theo trang 30
File đính kèm:
- xay_dung_va_phan_tich_chi_so_tai_chinh_toan_dien.pdf