Ý nghĩa và đặc trưng của những phong tục tháng giêng tại Việt Nam và Hàn Quốc

TÓM TẮT

Ở Hàn Quốc và Việt Nam, cứ đến ngày

đầu tiên của tháng Giêng âm lịch, là lại có

một "cuộc di chuyển lớn của cả dân tộc".

Đó chính là lúc mọi người về quê tụ họp

gia đình và cùng nghỉ Tết. Tết Âm lịch (Tết

Nguyên Đán) đứng đầu các phong tục

trong tháng Giêng, là dịp lễ quan trọng

nhất trong số các ngày lễ của năm. Bài viết

tìm hiểu đặc trưng và ý nghĩa của những

phong tục tháng Giêng ở Hàn Quốc và Việt

Nam, nhằm nâng cao hiểu biết lẫn nhau,

góp phần phát triển mối quan hệ giao lưu

hợp tác giữa hai dân tộc.

pdf 10 trang yennguyen 4820
Bạn đang xem tài liệu "Ý nghĩa và đặc trưng của những phong tục tháng giêng tại Việt Nam và Hàn Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ý nghĩa và đặc trưng của những phong tục tháng giêng tại Việt Nam và Hàn Quốc

Ý nghĩa và đặc trưng của những phong tục tháng giêng tại Việt Nam và Hàn Quốc
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 8(180)-2013 66 
Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NHỮNG PHONG TỤC 
THÁNG GIÊNG TẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC 
AHN KYUNG HWAN 
TÓM TẮT 
Ở Hàn Quốc và Việt Nam, cứ đến ngày 
đầu tiên của tháng Giêng âm lịch, là lại có 
một "cuộc di chuyển lớn của cả dân tộc". 
Đó chính là lúc mọi người về quê tụ họp 
gia đình và cùng nghỉ Tết. Tết Âm lịch (Tết 
Nguyên Đán) đứng đầu các phong tục 
trong tháng Giêng, là dịp lễ quan trọng 
nhất trong số các ngày lễ của năm. Bài viết 
tìm hiểu đặc trưng và ý nghĩa của những 
phong tục tháng Giêng ở Hàn Quốc và Việt 
Nam, nhằm nâng cao hiểu biết lẫn nhau, 
góp phần phát triển mối quan hệ giao lưu 
hợp tác giữa hai dân tộc. 
1. LỜI MỞ ĐẦU 
Mối quan hệ giao lưu giữa Hàn Quốc và 
Việt Nam, vốn có truyền thống văn hóa 
tương đồng, đã có lịch sử lâu đời gần 900 
năm. Kể từ sau khi hai nước bình thường 
hóa quan hệ vào ngày 22/12/1992, hợp tác 
thương mại hai nước đến năm 2012 đạt 21 
tỉ 672 triệu 40 ngàn đô la Mỹ. So với năm 
1992 khi mới thiết lập quan hệ là 490 triệu 
đô la Mỹ, thì quy mô tăng gấp 44 lần. Ngày 
20-22/10/2009, khi Tổng thống Lee Myung 
Bak đến thăm Việt Nam, hai nước đã 
thống nhất thỏa thuận đến năm 2015 quy 
mô mậu dịch hai nước tăng lên 20 tỷ đô la 
Mỹ. Thế nhưng, với thành quả 21 tỉ 672 
triệu 40 ngàn đô la Mỹ (xuất khẩu là 15 tỷ 
954 triệu 23 ngàn đô la, nhập khẩu là 5 tỷ 
718 triệu 17 ngàn đô la), mục tiêu này đã 
vượt mức kế hoạch. 
Góp phần vào sự thúc đẩy giao lưu kinh tế 
như trên, những hoạt động giao lưu khác 
giữa hai quốc gia ngày càng sôi nổi, và mối 
quan tâm đến văn hóa của nhau ngày càng 
cao hơn. Nhiều người Hàn Quốc và Việt 
Nam cho rằng hai nước có khá nhiều tương 
đồng về văn hóa truyền thống, vì từ lâu đời 
đã cùng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa 
Trung Hoa. Cả hai nước cùng có truyền 
thống văn hóa Nho giáo, coi trọng giáo dục-
học vấn, và có phẩm chất cần cù lao động. 
Nhiều người cùng cảm nhận rằng, nền văn 
hóa của hai dân tộc tương đồng nhau, 
nhưng hiện chưa có nhiều tài liệu nghiên 
cứu cụ thể xem có những tương đồng và dị 
biệt như thế nào. Chúng tôi sẽ khảo sát đặc 
trưng và ý nghĩa của những phong tục 
tháng Giêng ở Hàn Quốc và Việt Nam trong 
nghiên cứu này. Vì hiểu biết sâu sắc về 
những tương đồng và dị biệt văn hóa của 
nhau sẽ giúp cải thiện và thúc đẩy quan hệ 
giao lưu-hợp tác giữa hai nước. 
2. PHONG TỤC THÁNG GIÊNG CỦA HÀN 
QUỐC VÀ VIỆT NAM 
2.1. Ý nghĩa của ngày Tết 
Phong tục theo mùa là để chỉ những phong 
tục mang tính chất nghi lễ truyền lại từ xưa, 
được cử hành lặp đi lặp lại vào cùng một chu 
kỳ từ tháng Giêng đến tháng Chạp Âm lịch. 
Ahn Kyung Hwan. Giáo sư Tiến sĩ. Đại học 
Chosun Hàn Quốc. 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA 
67
Hàn Quốc và Việt Nam vốn cùng sử dụng 
âm lịch từ xưa, nên cả hai dân tộc cùng 
đón những ngày lễ tết giống nhau trong 
cùng thời gian. 
Hàn Quốc vốn là một quốc gia nông 
nghiệp, ngày mùng một Tết là ngày lễ đầu 
tiên của năm. Mùng một Tết còn được gọi 
là Nguyên Đán (Weondan, 元旦), Tuế Thủ 
(Sesu, 歲首), Niên Thủ (Yeonsu, 年首), nhưng 
thông thường gọi là 'Seol'. Seol bằng Hán 
tự viết là Thận Nhật (Sinil, 愼日), có ý nghĩa 
rằng, "phải thận trọng, để không hành 
động ẩu tả và bừa bãi". Do họ nghĩ rằng, 
mùng một Tết là thời điểm đánh dấu khởi 
đầu năm mới, nên vận may trong một năm 
sẽ tùy thuộc vào ngày đầu năm. 
Ở Việt Nam, người ta gọi những ngày đầu 
năm âm lịch là 'Tết', từ 'Tết' có nguồn gốc 
từ Hán tự 'tiết' (節), có ý nghĩa là 'đốt tre', 
khi khí hậu và mỗi mùa khác nhau ở mỗi 
thời kỳ khác nhau trong năm như các đốt 
cây tre nối với nhau. Và ở Việt Nam cũng 
gọi Tết Âm lịch là Tết Nguyên Đán. Tết ở 
Việt Nam, tạo thành ba hình thái kết hợp, 
như việc các đốt tre nối với nhau. Đó là sự 
kết nối gia đình đang sống chia cắt ở các 
nơi khác nhau trên toàn quốc, sự hợp lại 
với linh hồn tổ tiên đã qua đời, và sự giao 
lưu về tâm linh với các vị thần trong đời 
sống như thần Bếp chẳng hạn. Vì vậy, 
trong suốt kỳ nghỉ Tết Âm lịch, mỗi người 
cố gắng giảm bớt những phẫn nộ và giận 
dữ, giữ phong thái điềm tĩnh và thận trọng. 
Vì họ tin rằng, ngày đầu của năm mới sẽ 
quyết định 'cát, hung, họa, phúc’ (吉凶祸福, 
điều tốt lành, điều dữ, tai vạ và phúc) của 
năm đó. Tết Âm lịch là khởi đầu cho mùa 
Xuân, mà mùa Xuân là mùa sinh sôi vạn 
vật. Để mọi sự khởi đầu được thanh khiết, 
người ta dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, tắm 
rửa, chuẩn bị một tâm hồn thanh khiết và 
thay quần áo mới. Có thể cho rằng, ý 
nghĩa về Tết Âm lịch của Hàn Quốc và Việt 
Nam tương đồng nhau ở điểm này. 
2.2. Mùng một Tết và món ăn tháng Giêng 
Món ăn ngày Tết điển hình của Hàn Quốc 
là Bánh gạo trắng (Heuintteok, Garaetteok), 
Canh bánh gạo làm từ bánh gạo trắng 
(Tteokuk) và canh há cảo (Mandukuk). Ở 
Hàn Quốc, vào ngày Tết phải ăn canh 
bánh gạo trắng thay vì ăn cơm và canh 
thường. Có câu nói rằng 'phải ăn Canh 
bánh gạo trắng thì mới có thêm tuổi mới'. 
Vì vậy, có khi hỏi tuổi, thay vì hỏi mấy tuổi, 
thì họ hỏi đã ăn mấy chén canh bánh gạo 
trắng. Bánh gạo trắng có thể dùng để nấu 
canh hay nướng ăn. Và còn có các món 
bánh chiên dầu áp chảo có tên là Jeon, 
chẳng hạn như bánh jeon lá mè 
(Kkenipjeon), bánh jeon cá, bánh jeon thịt, 
và món thịt bò xiên Sogogisanjeok. 
Sanjeok ở mỗi miền làm mỗi kiểu khác 
nhau, nhưng chủ yếu gồm các loại vật liệu 
thịt bò, hành, bánh bột gạo Garaetteok, 
nấm và thịt cua, v.v. Ngoài ra còn có các 
món như sườn bò rim (Sogalbijjim) và cơm 
nếp Yaksik1. Món sườn bò rim Galbijjim 
còn là một trong những món dùng nhiều 
trong các bữa ăn thường ngày của người 
Hàn. Còn món cơm nếp Yaksik là món ăn 
tiêu biểu trong ngày rằm. 
Món ăn ngày Tết của Việt Nam thì có bánh 
chưng, đây là món ăn quan trọng không 
thể thiếu trong dịp Tết của người Việt Nam, 
đến mức người ta nói rằng 'không có bánh 
chưng thì không phải ngày Tết'. Theo truyền 
thống của người Việt, họ không sử dụng 
bếp trong ba ngày để giữ gìn 'hòa bình 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA... 68 
trong bếp'. Vì thế, những món ăn trong ba 
ngày Tết phải chuẩn bị sẵn trước đó. 
Trong số các món ăn này, có hai món tiêu 
biểu cho ba ngày Tết là bánh chưng và giò 
gói, có thể bảo quản lâu mà không cần tủ 
đông lạnh. Bánh chưng tương tự như món 
bánh bột nếp Chapssal Tteok của Hàn 
Quốc, người ta gói bánh hình vuông bằng 
lá chuối xanh, bên trong có gạo nếp, trong 
ruột bánh là đậu xanh và thịt heo, bánh 
luộc trong 6 giờ là chín ngon. Ý nghĩa về 
bánh chưng, hình vuông (tứ giác) là biểu 
tượng cho Đất (Âm / ), nhân đậu xanh là 
thực vật, thịt heo là động vật, và màu xanh 
của lá chuối là cầu mong cho một năm 
phồn thịnh. Bánh dày có hình tròn và màu 
trắng, biểu tượng cho Trời là dương (+). 
Hai món ăn này điển hình cho món ăn 
ngày Tết Việt Nam và có ý nghĩa tượng 
trưng về triết học âm dương Việt Nam. 
Tương truyền, lịch sử bánh chưng đã có từ 
khoảng 3.000 năm trước. Trong truyền 
thuyết, vua Hùng Vương đời thứ sáu trước 
khi nhường ngôi cho các con, cho gọi các 
con trai lại và ra lệnh cho các con tìm một 
món ăn mới, ai mang đến cho ông một món 
ăn ngon mà ông chưa từng ăn bao giờ thì 
ông sẽ truyền ngôi cho người ấy. Có một 
hoàng tử, trong khi đang nghĩ cách nào đó 
để tạo ra món ăn mới trong cung, thì một 
đêm nọ có một ông tiên xuất hiện chỉ cách 
cho chàng. Cuối cùng, món bánh chưng 
mà chàng làm ra đã thắng các hoàng tử 
khác và chàng được truyền ngôi vua. 
Món ăn ngày Tết tiêu biểu của hai nước có 
điểm chung là làm từ gạo. Ở Việt Nam, 
người ta không sử dụng lửa vào dịp Tết 
Âm lịch, nên họ phát triển loại bánh chưng 
và bánh dày có thể bảo quản lâu, còn 
người Hàn Quốc thì ăn canh bánh bột gạo 
trắng (Tteokuk) nấu bằng bánh bột gạo 
trắng (Garaetteok, Heuintteok) với ý nghĩa 
cầu mong trường thọ và không bệnh tật. 
3. PHONG TỤC THÁNG GIÊNG Ở VIỆT 
NAM 
Cứ đến tháng Giêng, mọi gia đình ở Việt 
Nam đều bận rộn. Vì trong suốt thời gian 
nghỉ Tết Âm lịch họ phải giữ sạch sẽ bàn 
thờ tế lễ, đốt hương (nhang) và bày biện 
hoa, nến (đèn cầy), nước và các loại giấy, 
giữ lễ nghi với tổ tiên và chuẩn bị thức ăn. 
Những phong tục chủ yếu như sau. 
3.1. Ngày cúng thần bếp (ông Táo) 
Ngày đón Tết Âm lịch bắt đầu trước ngày 
mùng một Tết một tuần, được bắt đầu 
bằng việc dâng cúng thần Bếp, được gọi là 
Ông Táo hay Ông Công, vào ngày 23 
tháng Chạp âm lịch. Đây là ngày Ông Táo 
lên chầu Ngọc hoàng thượng đế trên trời, 
để báo cáo về những việc thiện và việc ác 
trong một năm qua của chủ nhà. Vào ngày 
này, chủ nhà cúng ông Táo với ý nghĩa 
nhờ ông giấu đi những điều xấu và chỉ báo 
cáo điều tốt. Nghi thức này giống với ý 
nghĩa ngày cúng thần Bếp (祀竈日) của Hàn 
Quốc, nhưng thần Bếp theo quan niệm ở 
Việt Nam thì có ba vị thần, hai Ông và một 
Bà. 
Theo truyền thuyết, ngày xưa có một đôi 
vợ chồng nghèo khổ chung sống với nhau, 
một ngày nọ anh chồng bỏ nhà đi kiếm 
sống, người vợ còn lại một mình phải đi ăn 
xin. Quá khổ cực, người vợ cuối cùng phải 
tái hôn với một người đàn ông khác. Và 
một ngày kia, khi người chồng cũ cũng trở 
thành kẻ ăn xin, ngẫu nhiên vào đúng ngày 
23 tháng Chạp âm lịch anh ta đến xin ăn 
vào đúng nhà người vợ cũ. Người vợ nhận 
ra chồng cũ của mình, nên cô mang nhiều 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA 
69
thức ăn ra cho. Khi anh chồng sau về nhà 
và tỏ ý nghi ngờ thì người vợ nhảy vào bếp 
lửa, chết cháy. Người chồng trước thấy 
vậy chết theo, rồi người chồng sau cũng 
chết cùng. Vì vậy, khi cúng thần Bếp (cúng 
ông Táo) người ta cúng hai ông và một bà, 
trên bàn cúng người ta bày cúng 3 bộ mũ - 
áo quần và giày bằng giấy (hàng mã). 
Ở Hàn Quốc ngày xưa cũng có tục cúng 
thần Bếp vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, 
và ngày này được gọi là Sajoil (祀竈日), 
nhưng ngày nay tục lệ này hầu như không 
còn nữa. 
3.2. Tục lệ đốt pháo ngày Tết 
Ngày xưa, Việt Nam có tục cả nước cùng 
đốt pháo vào đêm giao thừa (tức 30 tháng 
Chạp âm lịch), mọi người trong nhà cùng 
nhau tụ họp để thờ cúng tổ tiên, người ta 
thắp đèn sáng mọi nơi trong nhà và đốt 
pháo, tục đốt pháo này có ý nghĩa xua đuổi 
ma quỷ, thay vì được hiểu với ý nghĩa đơn 
thuần là mừng Tết. Tiếng pháo nổ to vang 
đến mức chấn động trời đất. Do tai nạn cháy 
nổ hóa chất làm pháo, Chính phủ đã ban 
hành luật cấm sử dụng pháo từ năm 1993, 
nên ngày nay không còn phong tục đốt pháo 
ngày Tết nữa. Còn ở Hàn Quốc, thì từ xưa 
đã không tồn tại tục lệ đốt pháo này. 
3.3. Phong tục cầu phúc lộc ngày Tết 
Ở Hà Nội ngày xưa có tục lệ là, giống như 
tục đi rao bán túi lộc (Bokjori) ở Hàn Quốc, 
trẻ con chia thành từng nhóm, chúng bỏ 
tiền đồng hay miếng kim loại vào lư đồng 
(cắm nhang) hay ống tre rồi đi quanh mấy 
nhà giàu và hát bài ca chúc phúc, khi đó 
chủ nhà sẽ ra cho quà, tiền hay pháo. Trò 
chơi này, người ta gọi là "súc sắc súc sẻ". 
3.4. Tục lệ đi thăm người thân và chúc Tết 
Vào ngày mùng một Tết, mọi người đi 
thăm hỏi những người lớn tuổi trong họ 
hàng thân thích, thầy cô, hàng xóm... để 
chúc năm mới và cầu phúc lộc cho nhau. 
Vào ngày này, trẻ em sẽ được mừng tuổi 
(cho tiền lì xì). Tiền mừng tuổi còn gọi là 
tiền 'lì xì', được bỏ vào trong phong bì đỏ 
cho trẻ em. Ở Hàn Quốc thì trẻ con phải 
lạy chúc năm mới người lớn, còn người lớn 
thì chúc phúc lại và mừng tuổi cho trẻ con. 
3.5. Tục lệ dựng cây Nêu ngày Tết 
Trong những gia đình ở nông thôn hay 
thành thị Việt Nam, trễ nhất là vào một 
ngày trước ngày mùng một Tết, mọi người 
dựng một cây tre, cây này gọi là cây Nêu. 
Người ta làm cây Nêu bằng cách chặt một 
cây tre dài, tỉa hết cành, chỉ để lại phần đọt 
ở trên ngọn cây, sau đó đánh dấu âm (-) 
và dương (+) và buộc vào cây nhiều thứ 
như cá chép hay ngựa (làm bằng giấy hay 
đất sét) rồi dựng trước hiên nhà. Cá chép 
hay con ngựa có ý nghĩa là để cho Táo 
quân (thần Bếp) làm vật cưỡi khi lên chầu 
Ngọc hoàng thượng đế báo cáo những 
hành vi thiện ác của người trần gian. Ở 
thành thị, người ta trang trí cây Nêu bằng 
cá chép hay con ngựa làm từ giấy màu. 
Người ta tin rằng, cây Nêu vừa là dấu hiệu 
chỉ đường cho tổ tiên dễ dàng tìm về nhà, 
vừa là để xua đuổi ma quỷ. Cây Nêu được 
dựng cho đến ngày 7 tháng Giêng âm lịch 
thì người ta hạ xuống. Phong tục dựng cây 
Nêu ngày Tết như thế này ở Hàn Quốc 
không có. 
3.6. Phong tục vẽ tranh Tết Việt Nam 
Cứ đến ngày Tết thì người Việt Nam dán 
tranh Tết lên trước cửa nhà mình, họ làm 
vậy để đón Tết, trang trí nhà cửa và mừng 
năm mới đến, ngoài ra còn có ý nghĩa 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA... 70 
khác là cầu mong cho gia đình bình an, 
con cháu phồn thịnh và tài vật dồi dào 
trong năm mới. Tranh Tết thì có tranh dân 
gian Đông Hồ và tranh dân gian Hàng 
Trống là nổi tiếng bậc nhất. 
3.7. Tục rằm tháng Giêng của Việt Nam 
Rằm tháng Giêng là rằm đầu tiên của năm 
mới, có thể xem là ngày rằm quan trọng 
nhất, lớn nhất trong các ngày rằm. Ở Việt 
Nam, rằm tháng Giêng là dịp lễ mà mọi 
người hướng lên trời để cầu may. Cứ đến 
rằm tháng Giêng, các ngôi chùa trên cả 
nước tấp nập người đến cầu may cầu 
phúc, đến mức không còn chỗ chen chân 
và nơi nào cũng tràn ngập khói hương. 
3.8. Những điều cấm kỵ 
Những điều cấm kỵ trong dịp Tết Âm lịch ở 
mỗi dân tộc và mỗi vùng Bắc, Trung, Nam 
có khác nhau đôi chút. Tuy nhiên, phần lớn 
mọi người tránh mặc quần áo màu trắng 
và màu đen, vì đây là hai màu tượng trưng 
cho sự chết chóc. Họ tránh nói những điều 
gở, xui xẻo hay nói về sự chết. Người đầu 
tiên đến xông nhà mà có nhiều phúc lộc, 
thì sẽ mang lại nhiều phúc lộc cho nhà đó 
trong năm mới. Người nào có tang hay 
trong nhà có chuyện phiền não xui xẻo, 
hoặc người đang mắc bệnh, hay là phụ nữ 
thì không đến thăm nhà người khác vào 
ngày đầu tiên của năm mới, và cũng không 
gọi điện thoại. Có khi người ta mời người 
khách đầu tiên đến nhà mình là người giàu 
có, hay là người có địa vị cao trong xã hội, 
với ý nghĩa cầu mong phúc lộc cho gia 
đình. Vì họ tin rằng phúc và lộc của người 
đến thăm sẽ theo đến nhà họ. Lúc này, 
người đến thăm đầu tiên sẽ thắp hương 
cho tổ tiên nhà đến thăm, chúc phúc cho 
chủ nhà và mừng tuổi cho trẻ con nhà đó. 
Mọi người thường không dọn dẹp nhà 
trong ba ngày Tết vì họ nghĩ rằng nếu dọn 
dẹp nhà cửa sẽ quét hết phúc lộc năm mới 
đi, mọi công việc dọn dẹp đều kết thúc 
trước ngày mùng một Tết. Còn cây chổi đã 
dùng để quét nhà trước đó thì phải bảo 
quản cho tốt để không bị mất, vì người ta 
tin rằng, nếu bị mất cây chổi ấy thì nhà sẽ 
bị trộm vào. Ở Hàn Quốc, mọi người cũng 
nghĩ rằng ngày mùng một Tết là quyết 
định vận may cho năm mới, nên phải cẩn 
thận mọi thứ từ lời nói đến hành động. 
Giống như ở Việt Nam, người Hàn Quốc 
cũng hạn chế việc phụ nữ hoặc người 
đang có tang, có xui xẻo đến thăm nhà vào 
ngày mùng một. Những điều cấm kỵ này, 
có thể cho rằng, nguyên do là Việt Nam và 
Hàn Quốc cùng có những tương đồng 
như: ảnh hưởng văn hóa Nho giáo, tư 
tưởng trọng nam khinh nữ, phong tục thờ 
cúng tổ tiên, căn bản văn hóa dân tộc nông 
nghiệp, v.v. 
4. PHONG TỤC THÁNG GIÊNG CỦA HÀN 
QUỐC 
4.1. Tục lệ cúng Táo quân (Sajoil) 
Những tục lệ trước và sau Tết Âm lịch của 
Hàn Quốc rấ ... với nghi thức cúng 
Táo Quân (Jowangsin). Táo Quân là thần 
Lửa (Hỏa thần, 火神, Hwasin), giữ nhiệm vụ 
báo cáo với Ngọc hoàng thượng đế về mọi 
việc xảy ra trong nhà. Thần này còn được 
gọi là thần Bếp (Bueoksin), thần hỏa lò 
(Agungisin) hay thần miệng lò 
(Buttumaksin). Vì là thần Lửa nên được 
các bà nội trợ 'phụng dưỡng' và thờ cúng 
trong bếp. Những bà nội trợ không được 
nói những lời không hay khi đun củi vào 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA 
71
cửa bếp lò, hay không được ngồi hay dẫm 
chân lên miệng bếp lò. Khi cúng họ lạy và 
cầu nguyện cho gia đình phồn thịnh. Thần 
Lửa cai quản hầu hết mọi việc trong nhà, 
nhưng đặc biệt là gìn giữ tài sản và bảo vệ 
sức khỏe của trẻ em mới ra đời. Vì vậy các 
bà nội trợ rất xem trọng thần Lửa. Tuy 
nhiên, tục lệ thờ cúng thần Lửa này hiện 
nay hầu như không còn nữa. 
4.2. Phong tục rao bán Bokjori 
Ở Hàn Quốc, đến ngày ba mươi Tết, vừa 
bước qua thời khắc Giao thừa (12 giờ 
khuya ngày 30 tháng Chạp) là những 
người bán Bokjori mang Bokjori đi rao bán 
khắp đường. Mỗi gia đình sẽ mua một 
lượng Bokjori nhất định dùng trong một 
năm, mua càng sớm càng tốt. Người ta tin 
rằng, nếu treo nó trong nhà thì lộc sẽ tràn 
đầy trong nhà. 
4.3. Tục cúng tế và tảo mộ dịp Tết 
Ở Hàn Quốc vào sáng mùng một Tết, sau 
khi cúng tổ tiên, thì con cháu sẽ ra mộ ông 
bà tổ tiên, tục này gọi là tảo mộ. Sau đó, 
mọi người đi thăm hỏi bà con thân thích và 
hàng xóm láng giềng để trao nhau những 
lời chúc mừng năm mới, lời chúc được gọi 
là Deokdam (德談, đức đàm). Lúc này, 
người lớn sẽ bỏ tiền mừng tuổi vào túi lộc 
(Bokjumeoni) để mừng tuổi cho trẻ con. Họ 
cũng chuẩn bị những món ăn ngày Tết 
(Sechan, 岁馔, tuế soạn) và món rượu ngày 
Tết (Seju, 岁酒, tuế tửu), bánh bột gạo trắng 
(Heuintteok) và canh bánh bột gạo (Tteokuk) 
để đãi khách. 
4.4. Các phong tục và trò chơi tháng Giêng 
Ngày Tết cũng là ngày dành cho các trò 
chơi dân gian truyền thống như Yutnori, trò 
chơi bập bênh, trò chơi thả diều, v.v. Đặc 
biệt có nhiều tục lệ để ngăn chặn tai ương 
và cầu vận may cho cả năm. Trò chơi bập 
bênh được xem là trò chơi dân gian dành 
cho phụ nữ, vì vốn thời xưa phụ nữ bị hạn 
chế việc đi ra ngoài, nên họ chơi trò chơi 
này trong khuôn viên nhà. Trò chơi này có 
thể nhảy lên cao để họ được nhìn thấy thế 
giới bên ngoài bức tường rào nhà họ. Ngoài 
ra, phụ nữ còn cho rằng, trò chơi bập bênh 
giúp họ bớt bị phát bệnh. Trò chơi thả diều 
được chơi từ cuối tháng Chạp cho đến rằm 
tháng Giêng. Vào ngày rằm, người ta viết 
lên cánh diều những câu có ý nghĩa xua 
đuổi tai ương đi và gọi phúc lộc đến, rồi 
thả diều bay lên trời. Ngoài ra còn có 
phong tục trang trí tranh lên cửa nhà, loại 
này gọi là Sehwa (歲畵, Tuế họa), Munbae 
(門排, Môn bài), Kyehohwa (鷄虎畵). 12 ngày 
kể từ ngày mùng một Tết, người ta định ra 
'nhật thìn' (日辰, iljin) theo 12 can chi (干支) 
và có những tục cấm kỵ kèm theo đó. 
Người nào bị tam tai2 năm đó thì làm theo 
phép Tam tai (三災法)3, ngoài ra còn có 
phong tục 'Ngũ hành chiếm' (Oheangjeom, 
五行占) và 'Thiêu phát' (Sobal, 燒髮)4. 
4.5. Tục lệ rằm tháng Giêng 
Rằm tháng Giêng thì được chia ra rằm nhỏ 
vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch và rằm 
lớn. Vào buổi sáng ngày rằm lớn, có 
phong tục cắn Bureom5 và ăn cơm nếp 
uống rượu Gwibalki6. Ngoài ra còn có tục 
bán cái nóng (oi bức) cho người khác để 
tránh được sự nóng bức giữa hè năm đó. 
Có một tục lệ nữa là người ta cắt vỏ và lõi 
cây kê với nhiều hình dạng khác nhau rồi 
nhuộm màu, sau đó tạo thành hình dạng 
chồi hay nhánh cây lúa, cây lúa mạch, lúa 
mì, cây bắp ngô, cây đậu, hay cây bông, 
rồi gắn vào bó rơm và cột lên ngọn một 
cây cọc dài, sau đó người ta dựng bên 
hiên nhà hay đóng trước chuồng ngựa. 
Đây là một nghi thức để cầu mong cho 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA... 72 
mùa màng bội thu. Người ta cũng chế biến 
các món ăn vào dịp này như cơm ngũ cốc 
(Ogokbap), cơm nếp Yaksik và cơm cuộn 
rong biển Bokssam, cầu bình an trong nhà 
(安□). Vào đêm rằm tháng Giêng, mọi 
người thích ngắm trăng lên. Lúc này là 
khởi đầu mùa màng, nên những nghi thức 
dành cho cộng đồng làng xã, gọi chung là 
Đỗng thần tế (Dongsịnje, 洞神祭), sẽ tổ 
chức tập trung vào dịp này. Những phong 
tục hay nghi thức đó bao gồm: Tục đạp Địa 
thần7, đốt lửa đuổi chuột, trò đấu Dongche, 
trò nhảy dây, trò đạp ngói, trò đấu đầu bò, 
trò nhảy bập bênh, trò đá cầu, trò thả diều, 
trò quay chong chóng giấy, trò quăng tiền 
đồng, trò dậm chân8, trò đấu đá, v.v. 
Những tục lệ rằm tháng Giêng ở Hàn Quốc 
có thể liệt kê như sau: 
* Mạch kỳ phong (Borikipung, 麥祈風): Vào 
tối ngày 14 tháng Giêng, có tục bói năm 
được mùa lúa mạch. Mỗi gia đình sẽ chặt 
cây kê (susukang) làm thành hình dạng 
cây lúa mạch sau đó cắm nó vào đống 
phân, đến sáng ngày rằm thì lấy ra và đốt 
lấy tro, tro ấy được gom lại, để đến mùa 
lúa mạch Xuân năm đó sẽ rải tro này 
xuống. Người ta cho rằng nếu làm cách 
này thì mùa lúa mạch năm đó sẽ bội thu. 
* Tục trực đêm rằm: Đêm rằm tháng Giêng 
mà ngủ thì lông mày sẽ rậm ra, nên người 
ta không ngủ, trẻ nhỏ nào mà ngủ đêm 
rằm thì người ta bôi bột gạo hay bột mì lên 
lông mày. 
* Tục ăn cơm nếp (Chalbap) và rau (Namul) 
ngày rằm: Vào sáng ngày rằm, mọi người 
sẽ ăn cơm nếp. Cơm nếp (Chalbap) là loại 
cơm ngũ cốc (Ogokbap) bỏ thêm các loại 
ngũ cốc như gạo nếp, gạo tẻ, kê, bắp, lúa 
mạch, v.v, cơm này còn ăn kèm với các 
loại rau Gosari, bí, Siregi và giá đậu xanh. 
Trước khi ăn cơm ngũ cốc, mọi người 
dùng cơm này cúng các thần bảo vệ trong 
gia đình (家神, gia thần), như thần Seongju 
bảo vệ căn nhà, Táo vương Jowang bảo 
vệ bếp, Tam thần (Samsin) bảo vệ sản phụ 
và trẻ con, thần Yongdanji giữ bình an cho 
gia đình và cho được mùa, v.v. Họ cho 
rằng ăn càng nhiều cơm ngũ cốc càng tốt. 
Từ xưa có câu nói là “ăn chín rổ rau và 
chín chén cơm nếp”. 
* Tục cắn Bureom: Là tục cắn các loại hạt 
khô, gọi là Bureom, vào tối ngày rằm, phải 
cắn sao cho nghe tiếng "tách (Tak)", thì 
năm đó sẽ không bị các chứng mụn nhọt, 
răng sẽ chắc khỏe hơn, để có một năm 
khỏe mạnh. 
* Tục uống rượu sáng mắt tinh tai 
(Gwibalkisul, □□□□): Là loại rượu uống 
sau khi ăn cơm nếp vào sáng sớm, trẻ con 
cũng được uống tí chút để mắt sáng hơn 
và tai nghe rõ hơn. 
* Tục đuổi chim và đuổi muỗi: Người ta có 
những cách ngăn chặn chim phá mùa 
màng. Trẻ con sẽ ra ngoài vườn hay cánh 
đồng hét lên để đuổi chim hay tạo ra mấy 
cách mô phỏng để chim không đến, và 
người ta cũng ra hiên nhà, vườn hay cánh 
đồng để đuổi muỗi. 
* Tục bói vận nông sự bằng việc cho bò 
ăn: Sáng ngày rằm, người ta đựng cơm 
nếp và rau vào cái mẹt (khay) và mang ra 
chuồng cho bò ăn. Tùy theo con bò sẽ ăn 
rau hay cơm trước mà bói xem năm đó 
được mùa hay mất mùa. 
* Ngắm trăng (Dalmaji): Để được ngắm 
trăng tròn đêm rằm tháng Giêng, người ta 
lên những vùng địa hình cao như đồi núi từ 
trước khi trăng lên cùng với đoàn nông 
nhạc gồm đủ các nhạc cụ chiêng, trống, 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA 
73
kwangkwari, v.v. Vào thời khắc trăng rằm 
lên, người chỉ huy đoàn nhạc sẽ gióng 
tiếng nhạc đầu tiên, lúc đó mọi người cùng 
cúi đầu và nguyện ước. 
* Tục ngắm trăng bói vận nông sự của 
năm (Daljeom): Người ta ngắm ánh trăng 
đang lên vào đêm rằm để đoán xem việc 
nông năm ấy bội thu hay thất bát (được 
mùa hay mất mùa). Nếu ánh trăng có sắc 
đỏ, thì năm đó sẽ là 'hung niên', tức năm 
mất mùa do hạn hán, còn nếu ánh trăng 
sáng vằng vặc đầy ánh trắng, thì năm đó là 
'phong niên', tức năm được mùa, vì năm 
đó trời sẽ mưa nhiều. Ngoài ra, người ta 
còn đoán năm được mùa hay mất mùa 
bằng cách xem vị trí mọc của trăng. 
* Trò chơi ném lửa: Trò chơi ném lửa 
được mọi người chơi khi đi lên núi ngắm 
trăng. Người ta làm một cái thùng có khoét 
mấy cái lỗ, sau đó đặt vào đó những cái 
cây có nhóm lửa cháy, rồi cột dây vào cái 
thùng và quay vòng vòng, những vòng lửa 
hình tròn được tạo nên bằng cách này sẽ 
trang trí cho bầu trời đêm thêm rực rỡ. 
* Động tế (洞祭, Dongje): Người ta tổ chức 
dâng tế lễ và lên đồng với quy mô lớn. 
Ngày rằm tháng Giêng là ngày dâng tế 
thần bảo hộ cho cả làng, gọi là thần làng 
(守護神, Suhosin). Trước khi dâng tế, người 
ta mắc sợi dây cấm vào tế đàn, nơi thờ 
thần làng, sau đó nhét giấy trắng vào giữa 
các mắt dây. Ban ngày, mọi người chơi 
các nhạc cụ nhà nông (nông nhạc, 
nongak) và chơi trò chơi lớn, có đông 
người cùng tham gia. 
* Ngày ma quỷ: Người ta gọi ngày 16 tháng 
Giêng là ngày ma quỷ. Để xua đuổi ma quỷ, 
người ta dùng thuật bùa phép. 
* Tục bán cái nóng: Vào ngày này, sáng 
sớm thức dậy gặp người nào đầu tiên thì 
gọi người ấy lại và nói 'hãy mua cái nóng 
của tôi đi'. Vì vậy, sáng ngày rằm mà ai gọi 
tên mình thì người ta không trả lời, hoặc 
nói trước câu 'hãy mua cái nóng của tôi đi', 
làm vậy để chuyển cái nóng qua họ trước. 
Khi bán được cái nóng trong ngày này, thì 
mùa hè năm đó sẽ không bị mắc các 
chứng bệnh do thời tiết nóng gây ra. 
* Vào đêm ngày 14 âm lịch mọi người ăn 
cơm nếp Yaksik, cơm ngũ cốc Ogokbap và 
14 loại rau. Sáng sớm ngày rằm thì mọi 
người cắn các loại hạt khô gọi là Bureom, 
gồm hạt dẻ, hạt óc chó, hạt ngân hạnh 
(hay còn gọi là bạch quả), để không bị các 
chứng mụn nhọt và giúp răng rắn chắc. 
5. KẾT LUẬN 
Hàn Quốc và Việt Nam đều là những nước 
chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc 
và Nho giáo, cùng là những quốc gia nông 
nghiệp, sống bằng nghề trồng lúa từ lâu 
đời, cùng sử dụng âm lịch và trải qua 
những tiết kỳ giống nhau. Vì thế, hai nước 
cùng đón những ngày lễ giống nhau trong 
cùng thời điểm. Tết Âm lịch (ngày mùng 
một Tết) là dịp lễ lớn mà cả Hàn Quốc và 
Việt Nam đều xem trọng bậc nhất. Ngày 
này, mọi người cầu nguyện cho mùa màng 
bội thu và phúc lộc tràn đầy cả năm. Việc 
chuẩn bị cho Tết Âm lịch, có thể nói bắt 
đầu từ việc cúng Táo Quân vào ngày 23 
tháng Chạp. Việt Nam và Hàn Quốc xa 
nhau về mặt địa lý, nhưng có chung tục 
cúng thần Bếp Táo Quân là một điều hết 
sức thú vị. Cả hai nước cùng gọi Tết Âm 
lịch là Tết Nguyên Đán (元旦), mọi người 
cùng cẩn thận về sức khỏe, đi lại và cũng 
cẩn trọng mọi hành động của mình trong 
ngày này. Một năm bắt đầu bằng ngày 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA... 74 
mùng một Tết, và cả hai dân tộc từ xưa 
đều tin rằng, mọi vận may của một năm 
phụ thuộc vào ngày đầu tiên này. Về các 
hình thức họp mặt ngày Tết, ở Hàn Quốc 
và Việt Nam đều có ba kiểu, thứ nhất là sự 
sum họp với gia đình của những người 
sống xa cách khắp nơi, hai là sự hòa hợp 
với tổ tiên, ba là sự hòa hợp với các thần 
phù hộ trong đời sống hàng ngày như thần 
Bếp, v.v. Để cho sự khởi đầu năm mới 
được trọn vẹn, người dân hai nước có tục 
dọn dẹp nhà cửa, rửa chén bát, tắm gội và 
thay quần áo mới. Theo đó, ở Hàn Quốc 
và Việt Nam, ý nghĩa về ngày tết Âm lịch 
cơ bản là như nhau. Những điểm khác biệt 
có thể có là những chi tiết cụ thể trong các 
loại món ăn ngày Tết của hai nước, cách 
chào hỏi người lớn, cách làm các món ăn 
để cúng tế và phương thức cúng tế, các 
trò chơi dân gian truyền thống. Tuy nhiên, 
quan niệm của hai dân tộc về Tết Âm lịch, 
tinh thần đón Tết và ý thức sùng bái tổ tiên, 
tục lệ xua đuổi tà ma và cầu mong phúc 
lộc cho năm mới, có thể nói hai nước có 
nhiều điểm tương đồng. Trong số các 
phong tục tháng Giêng ở Hàn Quốc có 
Mạch kỳ phong, tục trực đêm rằm, tục ăn 
cơm nếp (Chalbap) và rau (Namul) ngày 
rằm, tục cắn Bureom, tục uống rượu sáng 
mắt rõ tai (Gwibalkisul), tục đuổi chim và 
đuổi muỗi, tục bói vận nông sự bằng việc 
cho bò ăn, ngắm trăng (Dalmaji), tục ngắm 
trăng bói vận nông sự của năm (Daljeom), 
trò chơi ném lửa, Động tế (洞祭, Dongje), 
ngày ma quỷ, tục bán cái nóng, tục ăn cơm 
nếp Yaksik, cơm ngũ cốc Ogokbap và 14 
loại rau, v.v. Những tục này không có ở 
Việt Nam. Tuy nhiên, có tục đuổi chim làm 
hại mùa màng thì ở Việt Nam có tục tương 
tự là tục bắt chuột, nhưng không được 
xem là phong tục tháng Giêng của Việt 
Nam. Còn phong tục trực đêm rằm của 
Hàn Quốc thì có điểm khác, người Việt 
Nam thức đêm trước ngày mùng một Tết, 
tức đêm giao thừa. Điểm đặc biệt nữa là, ở 
Hàn Quốc không có các tục lệ như đốt 
pháo ngày Tết, dựng cây Nêu ngày Tết để 
xua đuổi tà ma. Những điểm này có thể 
xem là có liên quan đến quan niệm về ma 
quỷ và dân tộc tính theo cách riêng của hai 
dân tộc. 
Có thể nói, Hàn Quốc và Việt Nam tương 
đồng trong “cái khung chung” trong mối 
tương quan với văn hóa khu vực, đồng 
thời có những dị biệt nhất định về mỗi yếu 
tố cụ thể như khí hậu, tính đa dạng hay 
những khác biệt về tập quán sinh hoạt của 
mỗi nước. ‰ 
CHÚ THÍCH 
1 Cơm nếp Yaksik còn gọi là Yakbap. Theo 
Tam quốc di sự (Samkukyusa), tương truyền, 
khi vua Soji của Silla đến vùng Namsan 
Gyeongju vào ngày rằm tháng Giêng, nhờ con 
quạ mà đã thoát khỏi bị ám sát bởi hoàng phi 
và nhà sư ban dịch, ông đặt tên ngày rằm 
tháng Giêng là ngày Ô kị nhật (烏忌日) và nấu 
cơm nếp cúng quạ. Nguồn gốc về cơm nếp 
Yaksik này được lưu truyền từ đó đến nay. 
Cách làm món này như sau: họ hấp cơm nếp 
lên sau đó trộn với mật ong, đường đen, nước 
tương v.v. và cuối cùng trộn thêm hạt dẻ, táo 
tàu, dầu mè v.v. để làm thành bánh cơm nếp 
Yaksik. 
2 Tam tai (三災, samjae): là chỉ thủy tai (水災, 
sujae), hỏa tai(火災, hwajae), phong tai (風災, 
pungjae), hoặc là binh nạn (兵難, byeongnan), 
tật dịch (疾疫, jilyeok) và cơ cận (飢饉, kikeun). 
3 Phép tam tai (三災法, samjaebeop): là nguyên 
tắc tránh tai ương. Người nào bị tam tai năm 
đó sẽ vẽ con chim ưng (diều hâu) có một thân 
hình nhưng ba đầu và dán lên cây cột chính 
giữa nhà để tránh tai ương. 
AHN KYUNG HWAN – Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA 
75
4 Thiêu phát (燒髮, sobal): là phong tục đốt hết 
lượng tóc rụng (khi chải đầu) trong một năm 
vào xế chiều ngày Tết bên ngoài cửa, để tránh 
bệnh tật. 
5 Bureom (□□): là tục cắn các loại hạt khô (gọi 
là Bereom) như hạt dẻ, hạt óc chó, hạt ngân 
hạnh hay là bạch quả. Vào sáng sớm ngày rằm 
tháng Giêng, khi cắn thì phải cắn sao cho nghe 
tiếng kêu lớn "tách” (□ □□), làm vậy để cả 
năm không bị các chứng mụn nổi trên da, giúp 
răng chắc hơn, để cả năm mạnh khỏe. 
6 Rượu Gwibalki là phong tục ăn cơm nếp sau 
đó uống rượu trong vào sáng sớm, để mắt 
sáng và tai nghe rõ. 
7 Trò chơi đốt chuột (Juibulnoli): nhà nông ra 
ngoài đồng vào ban đêm đốt lửa diệt sâu bọ 
hại ruộng đồng, để năm đó gieo trồng cho tốt. 
8 Phong tục dậm chân (Daribalki): Là phong tục 
mà khi trăng rằm tháng Giêng mọc, mọi người 
dậm chân 12 lần, làm vậy để năm đó không bị 
đau chân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahn Kyong Hwan, Park Jun Kyu. 1988. 
Chào Việt Nam. Jeongboyeoheng Bussiness. 
2. Cao Linh quận chí (高灵郡志). 1996. Ủy ban 
biên soạn Cao Linh quận chí. 
3. Huu Ngoc, Babara Cohen. 1997.『Tet』. 
The Gioi Publishers. 
4. Lee Sang Oek. 2012. Tiếng Hàn và văn 
hóa Hàn Quốc. Sotong. 
5. Toan Ánh. 1998. Tìm hiểu phong tục Việt 
Nam. TPHCM: Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
6. Tết Việt Nam. 1994. Hà Nội: Nxb. Văn hóa 
Thông tin. 
7. Tuế thời phong tục tỉnh Gyoengsang. 2002. 
Viện Nghiên cứu Văn hóa Quốc gia Hàn 
quốc. 
8. Trieu Son. 2010. Phong tục cổ truyền 
ngày Tết. Nxb. Thời đại. 

File đính kèm:

  • pdfy_nghia_va_dac_trung_cua_nhung_phong_tuc_thang_gieng_tai_vie.pdf