Âm nhạc tộc người Gia Rai và việc lưu, truyền nền âm nhạc này
Tóm tắt
Tộc người Gia Rai cư trú ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc và phía Tây Khánh Hòa. Họ có một
nền Âm nhạc riêng, tồn tại cách đây hàng ngàn năm. Các nhạc cụ của người Gia Rai gồm đàn Đá,
T’rưng, Đinh Đong, Krông-pút, đàn Nước, Tiêu, T’ni, cồng, chiêng và đặc trưng nhất là K’ni. Âm nhạc
Gia Rai dùng thang 5 âm có bán cung. Âm nhạc Gia Rai là vốn quý của Việt Nam và thế giới nhưng
đang có nguy cơ thất truyền. Cần phải có kế hoạch lưu giữ và truyền dạy Âm nhạc Gia Rai.
Bạn đang xem tài liệu "Âm nhạc tộc người Gia Rai và việc lưu, truyền nền âm nhạc này", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Âm nhạc tộc người Gia Rai và việc lưu, truyền nền âm nhạc này
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016 61 Âm nhạc tộc người Gia Rai và việc lưu, truyền nền âm nhạc này Jrai music preservation and teaching it ThS. Trần Thế Cường, Trường Đại học Sài Gòn M.A. Tran The Cuong, Sai Gon University Tóm tắt Tộc người Gia Rai cư trú ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc và phía Tây Khánh Hòa. Họ có một nền Âm nhạc riêng, tồn tại cách đây hàng ngàn năm. Các nhạc cụ của người Gia Rai gồm đàn Đá, T’rưng, Đinh Đong, Krông-pút, đàn Nước, Tiêu, T’ni, cồng, chiêng và đặc trưng nhất là K’ni. Âm nhạc Gia Rai dùng thang 5 âm có bán cung. Âm nhạc Gia Rai là vốn quý của Việt Nam và thế giới nhưng đang có nguy cơ thất truyền. Cần phải có kế hoạch lưu giữ và truyền dạy Âm nhạc Gia Rai. Từ khóa: tộc người, âm nhạc Gia Rai, tháng 5 âm, lưu giữ, truyền dạ Abstract Jrai ethnic lives in Gia Lai, Kon Tum, Dac Lac provinces and west Khanh Hoa province. They have independent music that has lived thousands of years. Instruments of Jrai are those made of rock, T’rung, Ding Dong, Krongput, bro Ia (those played by water), flute, T’ni, cong, chieng (gong) and the most special is K’ni. Jrai music use five-sound scale with semitone. Jrai music is a highly valuable treasure of Vietnam and the world but it is in danger of being lost. We need a plan to keep and teach Jrai music. Keywords: ethnic, Jrai music, five-sound scale, keep, teach 1. Âm nhạc tộc người Gia Rai Tộc người Gia Rai gồm các nhóm Chor, Hđrung, Hbau, Aráp, Mthur, Tơbuân. Ngôn ngữ Gia Rai thuộc ngữ hệ Nam Đảo (6;312); (8;76). Theo thống kê năm 1999, dân số Gia Rai là 371.557 người, cư trú ở phía bắc tộc người Ê Đê, tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc và phía Tây Khánh Hòa. Gia Rai là tộc người duy nhất trên Tây Nguyên có một tổ chức xã hội tiền nhà nước. Họ có hai ông vua là vua Nước (pơtao Ia) và vua Lửa (pơtao Apui). Ngày nay cạnh vua Lửa ở Chư Athai còn có vua Gió (pơtao Angin) (10;6); (2;60). Đây là những người có “thiên tính” thay mặt cho cộng đồng cầu mưa chống hạn, họ thuộc về một dòng tộc nhất định, lấy vợ thuộc một dòng họ riêng. Những ông vua này không trực tiếp nắm quyền hành thế tục nhưng phải sống tuân thủ một số kiêng cữ, họ có ảnh hưởng lớn trong vùng người Gia Rai và xung quanh. Xưa kia hai cộng đồng này có quan hệ ngoại giao với hai nước Việt Nam và Campuchia. Đây là một dạng tù trưởng, một hình thức sơ khai của nhà 62 nước, ở đó thần quyền được coi trọng hơn thế quyền. Hình thức này còn thấy cách đây không lâu ở các bộ lạc hay liên minh bộ lạc Châu Phi và Nam Ấn Độ. Triều đình Việt Nam gọi hai ông vua đó là Hỏa Xá và Thủy Xá, coi đây là hai phiên quốc và nhận cống vật của họ từ năm 1558 đến năm 1841 (1;199-200). Nhà nước Chân Lạp cứ ba năm một lần lại dâng lễ vật cho hai vị vua này để cầu ước điều lành cho xứ sở và mong được sự che chở bảo vệ từ phía Tây Nguyên. Tộc người Gia Rai là tộc người bản địa có dân số đông nhất trên Tây Nguyên, gắn liền với thành phố Pleiku của tỉnh Gia Lai, miền đất trù phú và có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội. Họ là cư dân sống giữa hai tộc người Ba Na và Ê Đê nhưng lại chịu nhiều ảnh hưởng của người Ba Na. Nhóm Aráp sống ở Kon Tum là nhóm gốc Ba Na nhưng đã Gia Rai hóa. Tộc người Gia Rai là nhóm ngữ hệ Nam - Đảo duy nhất có nhà rông. Nhà dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn cho rằng việc người Gia Rai có nhà rông có thể là do sự thoát ra từ đại gia đình mẫu hệ và do ảnh hưởng của các tộc người Môn - Khơme ngành Ba Na (9;205). 1.1 Âm nhạc tộc người Gia Rai có lịch sử hàng ngàn năm Dựa vào việc các nhà khảo cổ tìm thấy rất nhiều Đàn Đá có thang 5 âm Gia Rai trong vùng đất người Gia Rai sinh sống, căn cứ vào các nhạc cụ bằng kim loại như cồng chiêng và lời hát trong trường ca Sử thi cùng với các nguồn sử liệu có liên quan Chúng tôi có thể khẳng định rằng Âm nhạc tộc người Gia Rai đã tồn tại cách đây hàng ngàn năm. Dựa trên thang 5 âm Gia Rai, cách dùng thang 5 âm này trong lịch sử và hiện nay; dựa trên các bài dân ca và trường ca Gia-rai còn lưu giữ, cách biểu diễn các nhạc cụ của các nhạc công và phong cách sáng tác của các nhạc sĩ Gia Rai... Căn cứ vào chuyên môn Âm nhạc chúng tôi khẳng định tộc người Gia Rai có một nền Âm nhạc của riêng mình. Người Gia Rai đã chế tác và sử dụng các loại nhạc cụ sau : - Đàn Đá: Có thể nói Đàn Đá là nhạc cụ lâu đời nhất mà các nhà khảo cổ học tìm thấy ở Việt Nam. Nó có cách đây trên năm ngàn năm. Trong địa bàn cư trú của người Gia Rai, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy Đàn Đá có cách đây hàng ngàn năm được chế tác theo thang 5 âm Gia Rai. Hiện nay vẫn còn nhiều nhạc công Gia Rai biểu diễn Đàn Đá. - Nhạc cụ gõ, vỗ, thổi hơi bằng tre trúc Gia Rai giống với các tộc người Tây Nguyên khác, nhạc cụ gõ, vỗ, thổi hơi bằng tre trúc phát triển rất mạnh như: T’rưng, T’rưng một ống tre (cái nhạc), Đinh Đong, Krông-pút, đàn Nước, Sáo và Tiêu. - Nhạc cụ dây: Nhạc cụ dây gồm có T’ni (Tinh ninh) và K’ni (Bro mâm). T’ni có nhiều dây được mắc trên ống tre nên có thể tạo ra hòa âm và âm thanh rất sáng, vui nhộn. K’ni có một dây, nhạc công biểu diễn bằng cách dùng vĩ kéo. Điều đặc biệt là K’ni có thêm một sợi dây được nối từ cuối cây đàn tới miệng nhạc công. Khi biểu diễn nhạc công dùng răng cắn sợi dây này và môi của họ thay đổi làm cho tiếng đàn thay đổi đôi lúc nghe rất giống tiếng người nên còn được gọi là Đàn Môi. - Cồng và chiêng: Mặt lưng của cồng có núm còn mặt lưng của của chiêng thì phẳng. Cồng, chiêng Gia Rai ngoài những nét tương đồng với cồng, chiêng của các tộc người sống ở Tây Nguyên, nó còn có nhiều nét khác biệt như cách chế tác, hình dáng, và đặc biệt là cách biểu diễn. Các bài trường ca, dân ca và hát ru của tộc người Gia Rai rất nhiều và phong phú: 63 - Các trường ca gồm trường ca sử thi và trường ca dân gian: + Trường ca sử thi như Đam San, Xinh Nhã, Đăm Ri là những bài ca rất dài có thể hát một vài đêm mới hết (6;314). Nó kể về cội nguồn của người Gia Rai hoặc lai lịch của một vấn đề về phong tục, xã hội. + Trường ca dân gian cũng là những bài ca dài, hát để kể chuyện dân gian, kể chuyện về các vị thần, những điều răn dạy về luân thường đạo lý - Dân ca của tộc người Gia Rai rất phong phú, nội dung các bài dân ca thường nói về thiên nhiên, con người, tình yêu, muôn thú, cây cỏ hoa lá - Các bài hát ru Gia Rai cũng giống như hát ru Việt Nam, những bài hát này dùng để ru cho con ngủ nhưng hát ru Gia Rai còn một loại hát ru rất đặc biệt là hát ru trên nương rẫy khi người mẹ vừa địu con vừa đi nương. Các điệu múa (blơi, xoang) và các lễ hội đâm trâu - Các điệu múa của người Gia Rai thường mô phỏng lại các động tác chiến tranh giữa các tộc người xa xưa, thường múa trên nền nhạc đệm của đàn T’rưng (4;415). - Lễ hội đâm trâu của người Gia Rai gắn liền với các sự kiện ăn mừng như mừng lúa mới (bong bâc asang prao), mừng nhà Rông (bong bâc prông), ăn mừng lúa mới hoặc được mùa (bong bâc hơk kơ dok hơmao pơdaihlô) (3;249). 1.2. Những nét tương đồng và riêng biệt của âm nhạc tộc người Gia Rai với âm nhạc các tộc người ở Việt Nam và trên thế giới: - Thang âm: các tộc người sống ở Việt Nam và rất nhiều tộc người trên thế giới cũng có sử dụng thang 5 âm. - Nhạc cụ làm bằng tre trúc: các tộc người sống ở Việt Nam và nhiều tộc người sống ở những vùng có tre trúc đều dùng tre trúc để chế tạo và sử dụng nhạc cụ làm bằng tre trúc. - Đàn Đá: Trong lịch sử, các tộc người sống ở Việt Nam sử dụng đàn đá rất nhiều. Trên thế giới không có nhiều tộc người sử dụng đàn đá. - Cồng và chiêng: các tộc người sống ở Việt Nam và nhiều tộc người trên thế giới cũng có dùng cồng, chiêng. Những nét riêng của âm nhạc tộc người Gia Rai - Thang 5 âm có bán cung (demi ton diatonique): Các tộc người sinh sống ở Tây Nguyên Việt Nam như Ê Đê, Bana, Xê Đăng, Cơ Ho, M’nông, Gié Triêng cũng sử dụng thang 5 âm này, nhưng cách sử dụng thang âm của các tộc người này không giống với cách sử dụng thang âm của tộc người Gia Rai. Người Gia Rai thường dùng thang 5 âm với các quãng đi liền nhau liên tục như: 2 thứ, 2 thứ, 2 thứ, 3 Trưởng, 1 Đúng/, 2 Trưởng, 2 Trưởng, 2 thứ, 1 Đúng/, 3 Trưởng, 5 Đúng/, 5 Đúng/, 2 thứ... Ví dụ: Đố si đố si sol sol/ sol fa sol fa mi mi/ mi đô sòl/ đô sòl/ đô sì đô Giai điệu thường đổ từ cao xuống thấp như thác nước sau đó lại từ từ đi lên như người đang leo lên núi - K’ni (Bro mâm) là nhạc cụ độc đáo của tộc người Gia Rai từ cách chế tạo đến cách biểu diễn. 1.3. Những đặc trưng nổi bật của âm nhạc tộc người Gia Rai - Giai điệu dùng trong trường ca Sử thi và Dân gian thay đổi liên tục. Điệu thức thay đổi rất tài tình tạo thành sự luân chuyển trong âm nhạc nên không làm cho người nghe nhàm chán. - Cồng, chiêng Gia Rai có nét đặc trưng từ hình dáng, chế tác đến cách thức biểu diễn. Mặt cồng, chiêng có đường kính lớn hơn, nhiều chiếc có đường kính tới 90cm nên có âm thanh rất trầm ấm (5;582). 64 Tai cồng, chiêng dài hơn để tạo âm thanh ngân vang. Núm cồng to và có hình nửa khối tròn. Nhạc công Gia Rai thường thích tạo âm thanh cồng ngân dài và âm thanh chiêng ngắn, tạo tiết tấu dồn dập, sôi động. Theo nhà dân tộc học Jacques Dournes thì người Gia Rai có 5 dàn chiêng (cing): + Cing Arap: gồm 8 chiêng và 5 cồng, dùng vào việc tang ma. + Cing to nah hay cing monyum: gồm 9 chiêng, dùng khi uống rượu. + Cing trum: gồm 3 cồng có người khiêng cùng đánh với một trống đeo vào cổ, dùng khi có đám rước. + Cing kom giống như cing trum, dùng để rước thần lửa. + Cing juar: gồm 3 cồng, 5 chiêng dùng để đón chiến sĩ thắng trận trở về. Dàn cing juar tấu với một trống, người đánh trống cũng là người chỉ huy (11;218-221). 1.4. Âm nhạc tộc người Gia Rai là vốn quý của Việt Nam và thế giới Âm nhạc tộc người Gia Rai đang mai một và có nguy cơ thất truyền. Tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa đang xóa dần buôn làng của người Gia Rai. Thực tế cho thấy khi buôn làng không còn và khi người dân Gia Rai phải đi làm trong các nhà máy, xí nghiệp thì các hoạt động âm nhạc Gia Rai thưa thớt dần. Các buổi đàn hát múa Gia Rai có hồn Gia Rai khi diễn ra trong sân của buôn làng (plơi), nhà Rông Gia Rai chứ không thể diễn ra trong phố thị! Hiện nay, nhiều buôn làng Gia Rai ở Tây Nguyên đã không còn người biết sử dụng nhạc cụ Gia Rai cũng như hát được dân ca Gia Rai ! Nhiều thanh thiếu niên Gia Rai không biết sử dụng các nhạc cụ dân tộc Gia Rai nhưng biết sử dụng các nhạc cụ Tây phương như Organ, Guitar(7;13). Ngày hôm nay, chúng ta phải thừa nhận rằng nền văn hóa của bất cứ tộc người nào cũng đều có giá trị và phải trân trọng. Âm nhạc tộc người Gia Rai chắc chắn cũng là vốn quý của đất nước Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung nên Âm nhạc tộc người Gia Rai phải được gìn giữ và phát triển. 2. Lưu giữ âm nhạc Gia Rai Hiện nay có rất ít văn bản ghi chép bài bản khí nhạc và thanh nhạc của nền Âm nhạc tộc người Gia Rai. Hầu hết những văn bản này đều ghi theo phương pháp ghi chép của âm nhạc Tây phương. Đã có một số băng dĩa ghi âm ghi hình các bài bản Âm nhạc Gia Rai do các nhạc công và ca sĩ Gia Rai biểu diễn. Tất cả những tài liệu trên không đi theo một chương trình lưu giữ nào cả. Muốn bảo tồn âm nhạc Gia Rai thì phải có một chương trình tầm cỡ quốc gia để lưu giữ theo hệ thống và phương pháp. 2.1. Lưu giữ bằng cách ghi âm ghi hình Đây là phương pháp tốt nhất và không mất nhiều thời gian. Phương pháp này còn giúp cho việc truyền thông được thuận lợi. Cần tiến hành ngay việc ghi âm, ghi hình cách chế tác và biểu diễn các nhạc cụ của tộc người Gia Rai; các bài bản dân ca, trường ca do các ca sĩ Gia Rai biểu diễn cũng như các điệu múa (B’lơi, Xoang) Gia Rai. Năm 2000, Viện âm nhạc Việt Nam đã thực hiện được CD về cách chế tác và biểu diễn 5 loại nhạc cụ do nghệ sĩ Gia Rai là R’Chăm Tih sống ở làng Plei Dró, thành phố Pleiku trình bày. 2.2. Lưu giữ bằng cách ghi chép văn bản Người Gia Rai có cách ghi chép nhạc bằng chữ viết của họ kết hợp với các ký hiệu riêng nhưng không thống nhất và ít người dùng. Trong tình hình hiện nay, số nhạc công và ca sĩ Gia Rai đã mất dần cũng như đã lớn tuổi thì cách phải dùng là ghi chép nhạc Gia Rai theo phương pháp 65 Tây phương (portée) để ghi lại các bài bản về khí nhạc và thanh nhạc đang còn lưu truyền trong các buôn làng Gia Rai. 3. Truyền dạy âm nhạc Gia Rai Cần phải dạy Âm nhạc Gia Rai cho người Gia Rai vì âm nhạc Gia Rai là nghệ thuật của người Gia Rai. Một sự kiện đã xảy ra tại Plei ku khi nhà nước Việt Nam muốn giữ nét văn hóa nhà Rông của tộc người Gia Rai đã cấp kinh phí để xây một nhà Rông bằng bê tông cốt thép ở làng Plei Choet (cách thành phố Plei ku 9km về phía Đông, trên trục đường 19 đi Quy Nhơn) ?! Chính người dân Gia Rai trong làng đã không chịu được nên cố gắng tự đi tìm kinh phí và bỏ công sức của chính họ để làm một nhà Rông theo truyền thống bằng gỗ, tre, lá ở bên cạnh. Phổ biến âm nhạc Gia Rai cho cộng đồng Gia Rai bằng nhiều cách như hỗ trợ kinh phí hoặc giúp tổ chức các hoạt động âm nhạc trong các buôn làng, dạy nhạc cho người lớn và nhất là cho thiếu nhi. Hỗ trợ kinh tế cho các nhạc công, nhạc sĩ và ca sĩ Gia Rai để họ có điều kiện để chuyên chú vào Âm nhạc. Dạy Âm nhạc Gia Rai cho học sinh Gia Rai Hiện nay chương trình môn âm nhạc trong nhà trường phổ thông Việt Nam thì ở Tiểu học, lớp 2 có một bài hát là dân ca Gia Rai. Đây là niềm tự hào của tộc người Gia Rai vì có rất ít bài dân ca trong toàn bộ các bài hát từ lớp 1 đến lớp 9 vậy mà lại có một bài dân ca Gia Rai. Giáo dục phổ thông Việt Nam thống nhất trong toàn quốc vì vậy các bộ môn nói chung và âm nhạc nói riêng đều giống nhau. Với chính sách dân tộc (tộc người) của Việt Nam hiện nay thì việc giảng dạy văn hóa nói chung và Âm nhạc của các tộc người nói riêng cho học sinh các tộc người là cấp thiết. Chính vì vậy, trong các trường học của học sinh Gia Rai ngoài việc dạy chữ và ngôn ngữ Gia Rai còn phải dạy âm nhạc Gia Rai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Henri Maitre (2008), Rừng người Thượng, Lưu Đình Tuân dịch, Nxb Tri Thức. 2. Nguyễn Văn Huy (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc, Nxb Giáo dục. 3. Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Hoàng Văn Trụ (1997), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc Hà Nội. 4. Nhiều tác giả (2013), Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa-Thông tin. 5. Nhiều tác giả (2004), Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Nxb Viện Văn hóa Thông tin Hà Nội. 6. Trần Quang Phúc (2013), Việt Nam sắc màu văn hóa 54 dân tộc anh em, Nxb Đồng Nai. 7. Đào Huy Quyền (1993), Nhạc khí dân tộc ở Gia Lai, Nxb Giáo dục. 8. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc, Nxb Thông Tấn. 9. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng các quốc gia, dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 10. Jacques Dournes (1977), Potao, une théorie du pouvoir chez les Jorai sud Indochinois, Paris, Flammarion. 11. Jacques Dournes (1965), La musique chez les Jorai, Objets et mondes, Tome V, Fasc 4, Paris, Musée de l’homme. Ngày nhận bài: 13/11/2015 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016
File đính kèm:
- am_nhac_toc_nguoi_gia_rai_va_viec_luu_truyen_nen_am_nhac_nay.pdf