Ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến hoạt động giao tiếp hành chính văn phòng

TÓM TẮT

Hoạt động giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội. Tùy theo tính chất mối quan hệ các chủ

thể tham gia giao tiếp mà có cách ứng xử khác nhau. Trong hoạt động giao tiếp hành chính, người

cán bộ, công chức vừa phải tuân thủ những nguyên tắc của giao tiếp nói chung, vừa phải chú ý tới

những yêu cầu riêng của giao tiếp hành chính. Giao tiếp hành chính văn phòng trong thực tế đã

chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa truyền thống. Trong những năm gần đây, vấn đề giao tiếp

trong lĩnh vực hành chính văn phòng đã thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên

cứu. Bài viết này đề cập đến sự ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến giao tiếp hành chính văn

phòng trên hai phương diện là cách xưng hô và tâm lý, thái độ ứng xử.

pdf 6 trang yennguyen 3920
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến hoạt động giao tiếp hành chính văn phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến hoạt động giao tiếp hành chính văn phòng

Ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến hoạt động giao tiếp hành chính văn phòng
123
Ảnh hưởng của văn hóa . . .
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN 
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP HÀNH CHÍNH VĂN PHÒNG
 Đặng Thị Thu Phương*
TÓM TẮT
Hoạt động giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội. Tùy theo tính chất mối quan hệ các chủ 
thể tham gia giao tiếp mà có cách ứng xử khác nhau. Trong hoạt động giao tiếp hành chính, người 
cán bộ, công chức vừa phải tuân thủ những nguyên tắc của giao tiếp nói chung, vừa phải chú ý tới 
những yêu cầu riêng của giao tiếp hành chính. Giao tiếp hành chính văn phòng trong thực tế đã 
chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa truyền thống. Trong những năm gần đây, vấn đề giao tiếp 
trong lĩnh vực hành chính văn phòng đã thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên 
cứu. Bài viết này đề cập đến sự ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến giao tiếp hành chính văn 
phòng trên hai phương diện là cách xưng hô và tâm lý, thái độ ứng xử.
Keywords: giao tiếp hành chính; văn hóa truyền thống
EFFECTS OF CULTURAL TRADITIONS ACTIVITIES 
OF THE OFFICE OF COMMUNICATIONS
ABSTRACT
Communication activities as a social activity. Depending on the nature of the relationship of 
the actors to communicate that different behavior. In the communication of administrative activity, 
the officers and employees must comply with both the principles of communication in general, has 
to pay attention to the specific requirements of the administrative interface. Office administrative 
communication in practice was influenced greatly from traditional cultures. In recent years, the 
problem of communication in the office administration field has attracted the attention of researchers. 
This article refers to the influence of traditional culture to communicate the administrative offices 
on two fronts is the vocative and psychology, behavior.
Keywords: administrative communication; Traditional culture
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIAO TIẾP 
HÀNH CHÍNH VĂN PHÒNG VÀ VĂN 
HÓA TRUYỀN THỐNG
“Văn phòng là bộ máy điều hành tổng hợp 
của một cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, là 
nơi tiếp thu, thu nhận và xử lý thông tin nhằm 
phục vụ cho lãnh đạo, quản lý; là nơi đảm bảo 
cơ sở vật chất cho hoạt động của cơ quan và 
tổ chức”1. Có thể nói văn phòng có vai trò rất 
quan trọng trong quá trình hoạt động của mỗi 
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Cùng với quá 
trình hoạt động của mình, văn phòng luôn giữ 
vai trò là chiếc cầu nối truyền tải thông tin 
đến với các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong và 
ngoài cơ quan. Đồng thời, đây cũng là nơi tạo 
nên bộ mặt, hình ảnh của người lãnh đạo, của 
cơ quan, tổ chức. Lao động trong văn phòng 
thể hiện kết hợp giữa lao động cá nhân và lao 
động tập thể. Vì vậy, vấn đề giao tiếp hành 
chính văn phòng góp phần không nhỏ để tạo 
nên nề nếp, phong cách làm việc của mỗi cán 
bộ, công chức nhà nước.
* ThS. Gv. Học viện Hành chính Quốc gia (cơ sở TP. Hồ Chí Minh) 
1 Đào Xuân Chúc, “Văn phòng và quản trị văn phòng - Lý luận và thực tiễn”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học do Trường Đại học Khoa học xã 
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 17/12/2004, trang 50
124
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Trong công tác quản lý hành chính, hoạt 
động giao tiếp thường xuyên diễn ra: giao tiếp 
giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các nhóm làm 
việc, giữa các đồng nghiệp với nhau... Hiệu 
quả của hoạt động giao tiếp sẽ ảnh hưởng 
không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của từng 
cá nhân, nhóm, người lãnh đạo và hoạt động 
chung của tổ chức.
1.1. Giao tiếp và giao tiếp hành chính 
văn phòng
Cùng với những yêu cầu cần phải đổi mới 
một cách toàn diện văn phòng thì mô hình văn 
phòng mở đã xuất hiện, phá vỡ thế độc tôn của 
văn phòng cổ điển. Có thể nói mục tiêu của 
đổi mới và hiện đại văn phòng cũng nhằm thực 
hiện tốt chức năng nhiệm vụ của văn phòng, 
mà trong đó công tác đối nội và đối ngoại cũng 
là một trong những nhiệm vụ giữ vai trò quan 
trọng và có liên quan một cách trực tiếp đến 
hoạt động giao tiếp. Từ đây các nhà nghiên cứu 
đã tiếp cận lĩnh vực quản trị văn phòng ở nhiều 
góc độ và giao tiếp hành chính văn phòng là 
một trong những nội dung được đề cập đến.
Giao tiếp là một hoạt động diễn ra thường 
xuyên và không thể thiếu trong đời sống xã 
hội. Đồng thời, cũng có nhiều cách tiếp cận 
và định nghĩa về giao tiếp. Thông qua đó, 
các định nghĩa đã khái quát lên những dấu 
hiệu cơ bản như sau: Giao tiếp là một hiện 
tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ 
riêng con người mới có sự giao tiếp khi họ 
biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ (nói, viết, 
hình ảnh nghệ thuật...) và được thực hiện chỉ 
trong xã hội. Giao tiếp được thể hiện ở sự trao 
đổi thông tin, sự rung động và ảnh hưởng lẫn 
nhau; Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn 
nhau giữa người với người1.
Trên cơ sở đó chúng ta có thể nói, giao tiếp 
hành chính văn phòng là những hoạt động trao 
đổi thông tin giữa các cán bộ, công chức với 
nhau trong quá trình giải quyết các công việc 
văn phòng của mỗi cơ quan, tổ chức. Theo 
Giáo sư Mai Hữu Khuê thì: “Giao tiếp hành 
chính văn phòng là những hoạt động giao tiếp 
chính thức nhằm giải quyết các vấn đề, các mối 
quan hệ có liên quan đến việc thực hiện chức 
năng nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan”2.
1 Lê Thị Bừng, Phương tiện giao tiếp trong hoạt động quản lý, 
NXB Chính trị Quốc gia,2014,Trang 10
2 Mai Hữu Khuê, Tâm lý học trong quản lý Nhà nước, Học viện 
Hành chính Quốc gia, 1996, trang 94,95
Như vậy, giao tiếp hành chính văn phòng 
là những hoạt động giao tiếp diễn ra trong quá 
trình giải quyết công việc của cán bộ, công 
chức nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ của 
cơ quan, tổ chức. Đồng hành với việc nhằm 
thực hiện chức năng nhiệm vụ của văn phòng 
thì không thể không sử dụng đến hoạt động 
giao tiếp. Đây là một trong những phương tiện 
giúp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức 
thực hiện công việc hiệu quả hơn.Giao tiếp nói 
chung và giao tiếp hành chính văn phòng nói 
riêng là những hoạt động diễn ra rất đa dạng và 
phong phú.Vì vậy mà các hình thức giao tiếp, 
giao tiếp hành chính văn phòng cũng được nhìn 
nhận và phân chia ở nhiều cách khác nhau.
- Xét theo góc độ tính chất tiếp xúc thì 
hoạt động giao tiếp có thể chia thành hai loại: 
Giao tiếp trực tiếp, là giao tiếp không qua 
các khâu trung gian, giao tiếp “mặt đối mặt”; 
Giao tiếp gián tiếp, là giao tiếp thông qua các 
phương tiện giao tiếp như: thư từ, sách báo, 
văn bản, dữ liệu điện tử...
- Xét theo tính chất của giao tiếp, gồm có: 
Giao tiếp chính thức, là những hoạt động giao 
tiếp được tổ chức và tiến hành theo quy định 
của pháp luật, theo một quy định đã được thể 
hiện hóa như: mít tinh, hội họp, tiếp dân, hội 
thảo... Giao tiếp không chính thức, là những 
giao tiếp có tính cá nhân, tuy không bị ràng 
buộc bởi những quy định có tính chất pháp 
lý, nghi thức nhưng lại chịu sự tác động của 
những quy tắc và tập quán xã giao.
- Dựa vào tâm thế thì hoạt động giao 
tiếp có thể chia làm ba loại: giao tiếp ở thế 
vững mạnh; giao tiếp ở thế yếu; giao tiếp ở 
thế cân bằng.
Từ những cách phân loại như trên chúng 
ta thấy ở trong văn phòng, các cán bộ, công 
chức, viên chức tham gia hầu hết vào các 
hình thức giao tiếp cơ bản như: Giao tiếp 
(trao đổi và xử lý thông tin) qua điện thoại; 
Giao tiếp trong các cuộc họp, hội thảo, hội 
nghị; Giao tiếp qua việc biên tập và xử lý 
thông tin bằng văn bản, thư từ giao dịch; 
Giao tiếp qua việc tiếp khách của thủ trưởng 
và khách đến làm việc, giao dịch với cơ quan. 
Các hình thức giao tiếp này đang chịu sự tác 
động của rất nhiều yếu tố, trong đó có sự tác 
động đậm nét từ ảnh hưởng của văn hóa giao 
tiếp truyền thống.
125
Ảnh hưởng của văn hóa . . .
1.2. Văn hóa và văn hóa truyền thống 
Để làm rõ sự ảnh hưởng, tác động của 
văn hóa truyền thống đến hoạt động giao 
tiếp hành chính văn phòng, cần thống nhất 
một khái niệm văn hóa làm mạch dẫn, định 
vị nội hàm và ngoại diên của đối tượng cần 
nghiên cứu. Ngày nay, văn hóa trở thành đối 
tượng nghiên cứu của các nhà khoa học xã 
hội, do đó đã có trên 300 định nghĩa khác 
nhau về văn hóa. Căn cứ vào mục đích tiếp 
cận và nghiên cứu của bài viết, định nghĩa 
của tác giả Trần Ngọc Thêm là hướng ưu tiên 
để tiếp cận. Trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt 
Nam” ông đã đưa ra định nghĩa về văn hóa 
như sau:“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ 
các giá trị vật chất và tinh thần do con người 
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động 
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người 
với môi trường tự nhiên và xã hội”1. Văn hóa 
được con người tạo ra và chỉ có được khi con 
người trải qua thực tế lao động, là sự tích tụ 
bền bỉ các hiện tượng, sự vật riêng lẻ của 
từng dân tộc, để khái quát thành những đặc 
trưng chung của một cộng đồng cư dân trên 
một lãnh thổ nhất định. Chính vì vậy mà mỗi 
dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp 
đều có những văn hóa truyền thống đặc trưng 
riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là 
sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất được 
chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên 
bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Giá trị văn 
hóa truyền thống đó được truyền lại cho thế 
hệ sau và trở thành một động lực nội sinh để 
phát triển đất nước.
Vậy, văn hóa truyền thống là gì? Theo 
giáo sư Trần Ngọc Thêm: “Truyền thống 
văn hóa là những giá trị tương đối ổn định 
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới 
những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái 
tạo trong cộng đồng người qua không gian và 
được cố định hóa dưới dạng những phong tục 
tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận”2.
Ngày nay, xã hội loài người đã đạt được 
những bước tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh 
vực, đặc biệt là kinh tế, thì con người ngày 
càng tỏ rõ xu hướng trở về, giữ gìn những 
giá trị văn hóa truyền thống. Con người sẽ 
1 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, 1999, trang 10
2 Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu bản sắc văn hóa 
Việt Nam,1998, trang 26
không quay đầu lại với văn hóa truyền thống 
một khi còn mang nặng trong mình tính nhân 
văn, bởi vì bản thân mỗi con người đều có 
chứa đựng trong đó đặc tính nhân văn sâu sắc. 
Một biểu hiện hùng hồn cho sức sống của văn 
hóa là hiện nay ở nhiều thuật ngữ đa ngành 
cụm từ “văn hóa” đã có mặt thường xuyên với 
tư cách như một thước đo giá trị, chẳng hạn 
trong thương mại có cụm từ “văn hóa trong 
kinh doanh”, hay “văn hóa ẩm thực”, “văn 
hóa ứng xử trong sinh hoạt đời thường” hoặc 
“văn hóa giao tiếp”, “văn hóa công sở” và gần 
đây người ta còn đưa ra cụm từ “bản sắc văn 
hóa của tổ chức Nhà nước”. Như vậy, văn hóa 
đã có mặt và tác động đến mọi góc cạnh của 
đời sống xã hội với mọi sắc thái, mọi cường 
độ khác nhau của nó. TS.Huỳnh Văn Thới, 
trong cuốn sách Văn hóa công vụ ở Việt Nam 
đã viết: “nền công vụ Việt Nam đậm nét 
truyền thống văn hóa phương Đông”3. 
Trong bối cảnh chung đó, giao tiếp hành 
chính văn phòng không nằm ngoài sự tác động 
của văn hóa truyền thống. Sự tác động này đã 
đem lại cho giao tiếp hành chính văn phòng cả 
mặt tích cực và tiêu cực. Nắm bắt được điều 
đó sẽ giúp cho chúng ta có cách nhìn nhận và 
cách ứng xử cho phù hợp trong quá trình giải 
quyết công việc ở văn phòng. 
2. GIAO TIẾP HÀNH CHÍNH VĂN 
PHÒNG DƯỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Hành chính văn phòng là các hoạt động tổ 
chức và điều hành các tổ chức, các nhóm thực 
hiện các công việc văn phòng, trong đó hoạt 
động chủ yếu là soạn thảo, quản lý hồ sơ, giấy 
tờ để đảm bảo các yêu cầu thông tin phục 
vụ lãnh đạo, quản lý. Giao tiếp hành chính 
văn phòng là nhằm mục đích hướng tới giải 
quyết các công việc liên quan tới chức năng 
nhiệm vụ của văn phòng, của cơ quan. Vì vậy, 
có thể nói giao tiếp hành chính văn phòng 
vừa mang tính quy phạm vừa mang tín nghệ 
thuật, lại vừa mang tính kỹ thuật và thực tiễn 
cao. Cho nên văn hóa truyền thống trong quá 
trình tác động vào giao tiếp hành chính văn 
phòng cũng có những ảnh hưởng nhất định. 
Tuy nhiên, trong quá trình tác động thì văn 
hóa truyền thống không hề đơn độc mà còn có 
3 Huỳnh Văn Thới, Văn hóa công vụ ở Việt Nam, Nhà xuất bản 
Lý luận chính trị,2016, trang 143
126
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
sự tham gia của các yếu tố như: trình độ học 
vấn, vốn ngôn từ, đặc điểm môi trường địa 
lý... của các đối tượng giao tiếp. Nhưng văn 
hóa có một vai trò mà các yếu tố khác không 
thể thay thế được ở chỗ văn hóa là một điều 
kiện tiên quyết để nhận diện một dân tộc, một 
quốc gia. Sự tác động của các yếu tố văn hóa 
truyền thống vào giao tiếp hành chính chủ yếu 
thể hiện ở các góc độ sau:
Thứ nhất, văn hóa truyền thống tác động 
đến giao tiếp hành chính văn phòngthể hiện 
qua cách xưng hô
Xưng hô là cách gọi và xưng mình. Trong 
văn hóa truyền thống của người Việt Nam 
xưng hô bao giờ cũng thể hiện trật tự thứ bậc 
rõ ràng. Thứ tự này dựa trên cơ sở độ tuổi, 
giới tính hoặc là quan hệ huyết thống... Chính 
vì vậy, trong giao tiếp ứng xử, người Việt rất 
coi trọng trật tự trên dưới. Cách ứng xử dựa 
trên quan niệm đạo đức và niềm tin vào phúc 
đức. Trật tự trên dưới thể hiện mối quan hệ 
cha - con, vợ - chồng, anh - em họ hàng. Điều 
này dẫn đến cách ứng xử, xưng hô của người 
Việt phong phú phức tạp có xu hướng “gia 
đình hóa”. Đồng thời, văn hóa truyền thống 
cho thấy người Việt rất coi trọng tình cảm, 
thường lấy tình cảm làm chuẩn mực ứng xử, 
“nặng tình mà nhẹ lý”. Do phải đấu tranh với 
thiên nhiên khắc khiệt, với giặc ngoại xâm 
trong nhiều thế kỷ vì sự sinh tồn, người Việt 
có truyền thống gắn bó, yêu thương, giúp đỡ 
lẫn nhau. Vì thế, người Việt rất coi trọng quan 
hệ tình cảm, xem tình cảm là cơ sở để xử lý 
các vấn đề nảy sinh trong đời sống cộng đồng.1 
Có thể nói hệ thống xưng hô trong cách ứng 
xử này đã tồn tại suốt chiều dài của lịch sử 
của đất nước. Nó gắn bó với mỗi người Việt 
Nam như chính máu thịt của mình và nó cũng 
tác động vào mọi mặt hoạt động của đời sống 
xã hội. Trong quá trình tác động đó văn hóa 
truyền thống đã rất thành công khi thâm nhập 
vào môi trường giao tiếp hành chính. Tuy 
nhiên, sự sự thành công ấy không phải trên cơ 
sở áp đặt khuôn mẫu mà có sự phù hợp, thích 
ứng linh hoạt trong từng môi trường cụ thể.
Thông thường trong môi trường làm việc 
tại các cơ quan thì cách xưng hô giữa thủ 
trưởng với nhân viên và nhân viên với nhân 
1 Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB 
TPHCM, 1997
viên đều sử dụng hệ thống ngôn từ xưng hô 
trong văn hóa giao tiếp cổ truyền của người 
Việt Nam; thể hiện tính tôn ti trật tự kỹ lưỡng 
về độ tuổi, về sự tôn trọng. Trong thực tế cho 
thấy cách xưng hô trong văn bản và cách xưng 
hô “mặt đối mặt” còn có độ vênh nhất định, 
không trùng khớp với nhau. Biểu hiện cụ thể 
là trong văn bản khi phải gọi đối tượng giao 
tiếp tùy ý theo giới tính có thể gọi là ông hoặc 
bà trong khi trong giao tiếp mặt đối mặt (hoặc 
là qua điện thoại) thì không sử dụng các đại 
từ mà chỉ dùng các danh từ thân mật hóa coi 
mọi người trong văn phòng như bà con ruột 
thịt. Trong khi chấp nhận lối xưng hô ông (bà) 
trong văn bản thì người Việt Nam lại chưa 
quen, đúng hơn là không mặn mà với cách 
xưng hô theo lối ông (bà) khi giao tiếp trực 
diện với nhau. Điều này xuất phát từ chính 
tâm lý, thái độ giao tiếp của người Việt.
Dưới ảnh hưởng của văn hóa truyền thống 
người Việt Nam không có thói quen gọi thẳng 
tên đối tượng giao tiếp, vì như vậy sẽ bị xem 
là thiếu lịch sự, thiếu tôn trọng người khác. Ví 
dụ một nhân viên có thể gọi thủ trưởng là anh 
X. Cách xưng hô trong văn phòng hành chính 
chủ yếu thực hành theo cách hoặc đại từ nhân 
xưng hoặc danh từ chỉ quan hệ thân mật “+” 
tên người giao tiếp.
Thứ hai, văn hóa truyền thống tác động 
đến giao tiếp hành chính văn phòng qua 
cách thể hiện tâm lý, thái độ ứng xử
Người Việt có tính cấu kết cộng đồng 
rất cao, thể hiện niềm tin vào làng xóm quê 
hương, tình làng nghĩa xóm, “tối lửa tắt đèn 
có nhau”. Người Việt thích lối giao tiếp tế nhị, 
giữ gìn ý tứ và coi trọng sự hòa thuận. Trong 
giao tiếp, người Việt còn rụt rè, dè dặt, đặc 
biệt là ở các môi trường không quen thuộc. 
Người Việt thích giao tiếp nhưng họ chỉ cảm 
thấy tự nhiên, thoải mái trong cộng đồng quen 
thuộc, còn khi trước mặt là người lạ hoặc chưa 
thật sự quen biết thì thường ngại tiếp xúc, gặp 
gỡ. Do coi trọng sự hòa thuận và quan niệm 
“sự thật mất lòng” cho nên trong giao tiếp, 
người Việt thường rất ý tứ, tế nhị, cân nhắc 
lấy từng lời từng ý, ít khi họ nói thẳng vào 
vấn đề, đặc biệt là các vấn đề “tế nhị”. Đồng 
thời, cũng do xuất phát từ tâm lý cộng đồng 
làng xã, người Việt rất thích quây quần hay 
127
Ảnh hưởng của văn hóa . . .
gặp gỡ, thăm viếng nhau. Dù ở miền Bắc hay 
miền Nam, ở đồng bằng hay miền núi, người 
Việt đều quan niệm rằng sống cùng nhau thì 
phải yêu thương đùm bọc, vui buồn cùng chia 
sẻ. Người việt thường quan tâm hỏi han tìm 
hiểu hoàn cảnh của nhau chẳng hạn quê quán, 
nghề nghiệp, gia đình, bố mẹ, con cái... Điều 
đó cho thấy trong văn hóa truyền thống Người 
Việt thích giao tiếp và ưa tìm hiểu, đánh giá 
đối tượng giao tiếp1. Chính nét văn hóa này 
đã được tác động mạnh mẽ đến giao tiếp hành 
chính văn phòng, làm nảy sinh một đặc tính 
tâm lý trong giao tiếp hành chính văn phòng 
của công chức là vừa thích giao tiếp lại vừa 
rụt rè trong giao tiếp. Thích giao tiếp có thể do 
động cơ thăng tiến hoặc có thể là do cá nhân 
đã quen với môi trường hoạt động hoặc để tìm 
kiếm cơ hội hợp tác. Còn rụt rè trong trong 
tiếp có thể khởi nguồn từ những yếu kém về 
chuyên môn, tự ti về vị trí nghề nghiệp hoặc 
là ở một môi trường chưa quen biết... Một 
trong những tâm lý, thái độ trong giao tiếp 
hành chính văn phòng của người Việt Nam 
là sự cả nể, tế nhị, luôn chủ động “dĩ hòa vi 
quý”, thích lối mở đầu giao tiếp dài dòng, kiểu 
“vòng vo tam quốc”cố tránh mở đầu theo lối 
trực diện. Hơn nữa, trong giao tiếp hành chính 
văn phòng các đối tượng giao tiếp luôn có thái 
độ cân nhắc kỹ lưỡng khi xuất ngôn, quyết 
định vấn đề.
Bên cạnh đó trong văn hóa truyền thống 
của người Việt Nam có một nguyên tắc rất tối 
quan trọng là phải luôn tôn trọng đối tượng 
giao tiếp. Nguyên tắc này cũng đã có một chỗ 
đứng vững chắc trong giao tiếp hành chính 
văn phòng. Vì thế trở lại vấn đề xưng hô với 
lối sử dụng đại từ nhân xưng ông - bà như 
đã trình bày ở phần trên, chính là tuân theo 
nguyên tắc tôn trọng này. Theo ấn tượng tâm 
lý của người Việt Nam, thì đại từ ông - bà, khi 
đã dùng để xưng hô kết hợp với khẩu khí kém 
thiện chí (hoặc không kèm theo) thì đó có 
thể là biểu hiện của sự coi thường, một điều 
khó chấp nhận, nó chỉ được dùng khi diễn ra 
xung đột hoặc tượng trưng cho sự xung đột 
trong quan hệ. Điều này đã đi vào tiềm thức 
của người Việt dường như khó xóa bỏ được. 
Tính cộng đồng trong văn hóa Việt Nam đã 
1 Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB 
TPHCM, 1997
làm nảy nở tâm lý mong muốn cộng tác cũng 
như cần có sự đồng cảm trong giao tiếp hành 
chính văn phòng trong các cơ quan, tổ chức.
3. KẾT LUẬN
Văn hóa truyền thống luôn giữ vai trò là 
nền tảng cho mỗi một quốc gia, dựa vào đó 
người ta phân biệt được nền văn hóa nước này 
với nước khác. Do đó điều mà không thể phủ 
nhận là văn hóa truyền thống đã tác động khá 
sâu sắc đến giao tiếp hành chính văn phòng 
cả trên hai phương diện ưu điểm và hạn chế. 
Sự tác động của văn hóa truyền thống dẫn 
đến cách xưng hô, thái độ, cử chỉ trong giao 
tiếp hành chính đã tạo nên bản sắc của các tổ 
chức, là dấu hiệu để nhận diện và phân biệt 
các cơ quan Nhà nước với các cơ quan của 
các nước khác. Qua cách nhận diện đó, vai trò 
của văn hóa truyền thống lại thực sự có ảnh 
hưởng nổi bật. Trong quá trình tác động của 
văn hóa truyền thống đến giao tiếp hành chính 
văn phòng thì sự chuyển hóa của một loạt các 
ngôn từ xưng hô dùng trong quan hệ thân 
tộc, gia đình đã tạo ra những tác dụng tích 
cực không thể phủ nhận. Đó là việc phi hành 
chính hóa mối quan hệ, tạo nên mối quan hệ 
gần gũi thân ái hơn giữa các thành viên trong 
văn phòng, tăng cường sự ổn định, trật tự, 
đoàn kết nhất trí nội bộ, tạo nên được sự phối 
hợp trong quá trình giải quyết công việc thuận 
lợi và đạt kết qủa tốt. Nói cách khác, nó đem 
lại sự cộng tác và cộng cảm trong công việc 
một cách bền vững cấu kết. Với sự ảnh hưởng 
của văn hóa, xưng hô, tâm lý giao tiếp hành 
chính văn phòng của cán bộ, công chức, viên 
chức luôn tạo ra những ấn tượng tốt đẹp với 
đối tượng giao tiếp, tạo ra nét đặc sắc trong 
phong cách giao tiếp của người công chức 
Việt Nam.Nét đẹp này cần được phát huy trên 
tình thần kết hợp giữa truyền thống và hiện 
đại trong nền văn hóa Việt.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì sự tác 
động của văn hóa giao tiếp truyền thống đã 
để lại những hạn chế nhất định. Có thể nói 
cách xưng hô và tâm lý giao tiếp hành chính 
văn phòng rất dễ tạo nên sự trì trệ, những ảnh 
hưởng tiêu cực, sự tùy tiện có thể làm mờ đi 
sự khách quan, nhất là trong điều kiện chúng 
ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền. 
Chính các yếu tố văn hóa truyền thống cũng 
128
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đang là vật cản trong việc đưa pháp luật vào 
cuộc sống một cách chặt chẽ hơn, bởi trong 
dân gian đã ăn sâu quan niệm “phép vua thua 
lệ làng” hoặc “đưa nhau đến trước cửa quan, 
bên ngoài là lý bên trong là tình”. Tính duy 
tình của người Việt Nam đã chèn ép, vượt 
lên tính duy lý, mà mặt trái của nó là hòn đá 
tảng đè lên công cuộc cải cách hành chính của 
Nhà nước ta.Để khắc phục những mặt khuyết 
điểm còn tồn tại, trong giao tiếp hành chính 
văn phòng có thể thực hiện một số phương 
cách giao tiếp như sau:
Thứ nhất, Trong cách xưng hô có thể áp 
dụng: Chức vụ + Tên. Ví dụ: Giám đốc A, 
Trưởng phòng B...; Tôn xưng + Tên: ví dụ: 
Ngài A, Ngài B...; Ông, Bà + Tên; ví dụ: Ông 
A, Bà B...; Học vị + Tên (đã được sử dụng 
khá phổ biến trong các cơ sở giáo dục - đào 
tạo). Đối với những người có học vị cao hơn 
chức vụ, cần nêu vị trí công việc trước tên 
gọi: ví dụ: Đạo diễn A, Giáo sư B...
Thứ hai, Trong quá trình làm việc các cơ 
quan tổ chức nên tạo điều kiện tối đa để cán 
bộ, công chức, viên chức tham gia các lớp học 
tập nghiên cứu tìm hiểu sâu về lĩnh vực giao 
tiếp trong lĩnh vực đang làm việc, để giúp họ 
có cách ứng xử đúng chuẩn mực và phù hợp 
hơn trong môi trường giao tiếp hành chính văn 
phòng.Bởi lẽ trong nền công vụ hành chính 
Nhà nước nói chung rất cần có một đội ngũ 
cán bộ, công chức có cái nhìn thẳng thắn để 
thấy được những cản trở từ tâm lý dân tộc, từ 
nền văn hóa truyền thống từ nền kinh tế nông 
nghiệp lúa nước đối với việc tiếp nhận những 
giá trị chung để xây dựng một nền hành chính 
chính quy hiện đại, thông sốt, hiệu lực và hiệu 
quả trong điều kiện hội nhập.
Thứ ba, Cần ban hành và duy trì thực hiện 
hoạt động giao tiếp theo Quy chế văn hóa công 
sở do Nhà nước và của các cơ quan,tổ chức. 
Đây chính là cơ sở để tiến hành thống nhất và 
đồng bộ hóa hoạt giao tiếp trong công sở. 
Đồng thời cũng là sự kết hợp, tiếp thuvăn 
hóa truyền thống vào giao tiếp hành chính văn 
phòng nói riêng và văn hóa giao tiếp trong cơ 
quan nhà nước nói chung.
Đồng thời thực hiện những phương cách 
giao tiếp hành chính văn phòng như trên 
nhằm hoàn thiện nền công vụ Việt Nam theo 
hướng tích cực, thân thiệntrong việc kế thừa 
những truyền thống văn hóa để không vấp 
phải những bất cập khi tiếp thu những tinh 
hoanước ngoài vào mỗi cơ quan, tổ chức Nhà 
nước, để hướng tới những tương đồng trong điều 
kiện hội nhập rộng mở hiện nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Học viện hành chính quốc gia, giáo trình Hành chính văn phòng trong cơ quan Nhà nước, NXB chính 
trị Quốc gia, 2014
[2]. Mai Hữu Khuê và tập thể tác giả “Kỹ năng giao tiếp trong hành chính”, NXB. TPHCM, 1997
[3]. Mai Hữu Khuê, Tâm lý học trong quản lý Nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, 1996
[3]. Ngô Đức Thịnh. Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi 
mới và hội nhập [
chung/1593-ngo-duc-thinh-nghien-cuu-he-gia-tri-van-hoa-truyen-thong.html]
[4]. Nguyễn Văn Thâm, Tổ chức điều hành hoạt động công sở, NXB. Chính trị Quốc gia, 1999
[5]. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB. Giáo dục, HN, 1999
[6]. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP.HCM, 1997
[7]. Trần Ngọc Thêm. Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam [
name.vn/nghien-cuu-vhh/vhh-viet-nam/30-gia-tri-va-su-chuyen-doi-he-gia-tri-van-hoa-truyen-thong-
viet-nam.html]
[8]. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nxb. KHXH. H.,1980
[9]. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nxb. KHXH. H.,1980
[10]. Việt Anh, Lễ nghi giao tiếp xưa và nay, NXB. Văn hóa-Thông tin, 2000.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_van_hoa_truyen_thong_den_hoat_dong_giao_tiep_h.pdf