Bản chất của luật tục

TÓM TẮT

Luật tục hay còn gọi là tập quán pháp, luật lệ, lệ tục, phong tục, hương ước. đây chính là một hệ

thống bao gồm các phép tắc, phép xử sự được áp dụng rộng rãi trong cộng đồng làng bản dân tộc

thiểu số. Những chuẩn mực đó được cả cộng đồng thừa nhận, thực hiện tạo nên sự thống nhất và

sự cân bằng trong xã hội. Luật tục cũng là tri thức về môi trường tự nhiên, về sản xuất nương rẫy,

hái lượm, săn bắt, đánh cá, tri thức về xã hội và ứng xử giữa người với người, tri thức về đời sống

văn hoá, nghi lễ và phong tục Nghiên cứu này bước đầu phân tích khái niệm, đặc điểm của luật

tục nhằm làm sáng tỏ bản chất của nó dựa trên góc nhìn và phương pháp nghiên cứu dân tộc học.

pdf 5 trang yennguyen 3200
Bạn đang xem tài liệu "Bản chất của luật tục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản chất của luật tục

Bản chất của luật tục
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 65 - 69 
 Email: jst@tnu.edu.vn 65 
BẢN CHẤT CỦA LUẬT TỤC 
Nguyễn Văn Tiến 
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Luật tục hay còn gọi là tập quán pháp, luật lệ, lệ tục, phong tục, hương ước... đây chính là một hệ 
thống bao gồm các phép tắc, phép xử sự được áp dụng rộng rãi trong cộng đồng làng bản dân tộc 
thiểu số. Những chuẩn mực đó được cả cộng đồng thừa nhận, thực hiện tạo nên sự thống nhất và 
sự cân bằng trong xã hội. Luật tục cũng là tri thức về môi trường tự nhiên, về sản xuất nương rẫy, 
hái lượm, săn bắt, đánh cá, tri thức về xã hội và ứng xử giữa người với người, tri thức về đời sống 
văn hoá, nghi lễ và phong tục Nghiên cứu này bước đầu phân tích khái niệm, đặc điểm của luật 
tục nhằm làm sáng tỏ bản chất của nó dựa trên góc nhìn và phương pháp nghiên cứu dân tộc học. 
Từ khóa: Bản chất; luật tục; tri thức; bản địa; tộc người. 
Ngày nhận bài: 22/11/2018; Ngày hoàn thiện: 08/5/2019; Ngày duyệt đăng: 06/6/2019 
NATURE OF CUSTOMARY LAWS 
Nguyen Van Tien 
TNU - University of sciences 
ABSTRACT 
Customary laws, customs, conventions... are a system of rules and practices that are commonly 
performed among ethnic minority communities. These norms are recognized by the whole 
community, which creates unity and balance in society. Customary law is also the knowledge of 
the natural environment, upland cultivation, gathering, hunting, fishing; knowledge of the society 
and behaviors among people, knowledge of cultural life, rituals and customs... This study initially 
analyzes the concept, characteristics and functions of customary law in order to clarify its nature 
using the ethnographic perspective and methodology. 
Keywords: Nature; customary law; knowledge; indigenous; ethnic. 
Received: 22/11/2018; Revised: 08/5/2019; Approved: 06/6/2019 
Email: tiennv@tnus.edu.vn 
Nguyễn Văn Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 65 - 69 
 Email: jst@tnu.edu.vn 66 
1. Các quan điểm về luật tục 
Cho đến nay, đã có rất nhiều học giả trong và 
ngoài nước chú ý, quan tâm nghiên cứu về 
các vấn đề của luật tục dưới nhiều lĩnh vực, 
chuyên ngành khác nhau như: lịch sử, văn 
học, dân tộc học, luật học, văn hóa học, xã hội 
học...thậm chí nhiều trường đại học đã đưa 
luật tục các dân tộc thiểu số vào chương trình 
giảng dạy cho các sinh viên khối ngành xã hội 
- nhân văn. Các công trình đã công bố nghiên 
cứu, đánh giá đến nhiều khía cạnh của luật tục 
như: vai trò, giá trị pháp lý, giá trị văn hóa, 
kho tàng tri thức... Từ đó, chúng ta thấy rằng, 
luật tục là một trong những tư liệu quý giá 
cho các nhà khoa học, nhà chính trị khi 
nghiên cứu về các tộc người ở Việt Nam và 
trên thế giới. Các công trình này đã đều nêu ra 
những khái niệm về “Luật tục”, tuy vậy, giữa 
những quan điểm vẫn có những cách nhìn 
nhận khác khau. Về điều này, chúng ta có thể 
thấy các quan điểm sau: 
Thứ nhất về quan điểm dựa trên góc độ 
nghiên cứu về văn hóa và dân tộc học, GS TS 
Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Đó là một hình 
thức của tri thức bản địa, tri thức địa phương, 
được hình thành trong quá trình lịch sử lâu 
dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường 
và ứng xử xã hội, đã được định hình dưới 
nhiều dạng thức khác nhau, được truyền từ 
đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực 
hành sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng 
đến việc hướng dẫn, điều chỉnh và điều hoà 
các quan hệ xã hội, quan hệ con người với 
môi trường thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy 
của luật tục được cả cộng đồng thừa nhận và 
thực hiện, tạo nên sự thống nhất và cân bằng 
xã hội của mỗi cộng đồng.” [1, tr. 441] 
Cũng dưới góc độ nghiên cứu văn hóa và dân 
tộc học, PGS TS Lâm Bá Nam đưa ra quan 
điểm: “Luật tục là sản phẩm của xã hội 
truyền thống và do đó nội dung của luật tục 
phản ánh đặc trưng của văn hoá truyền 
thống, trong đó tính tộc người được thể hiện 
khá rõ nét. Thêm nữa, luật tục từng tồn tại 
khá lâu dài, là sản phẩm của bản thân từng 
tộc người và trên một khía cạnh nhất định, nó 
còn mang tính địa phương và nhóm địa 
phương tộc người. ” [2, tr. 12] 
Nhà dân tộc học, PGS TS Vương Xuân Tình 
cho rằng: “Luật tục, với ngh a là tri thức 
dân gian về quản l cộng đồng có vai trò lớn 
trong xã hội, nhất là xã hội tiền giai cấp. Luật 
tục, có thể là thành văn hay bất thành văn, có 
thể được định danh khác nhau như hương 
ước người iệt , tập quán một số v ng 
dân tộc Tây Nguyên hay quy ước nhiều dân 
tộc tại miền n i phía B c , nhưng đều hàm 
chứa những quy định liên quan tới nhiều mặt 
của đời sống và buộc các thành viên phải 
tuân theo.” [3, tr. 370-410]. 
Như vậy, dưới góc độ văn hóa, dân tộc học các 
các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng 
luật tục là những tri thức dân gian bản địa, 
mang dấu ấn văn hóa tộc người, được hình 
thành trong quá trình phát triển của từng cộng 
đồng dân tộc trên cơ sở kinh nghiệm về cuộc 
sống, xã hội, tính thích ứng tự nhiên... Luật tục 
được tích lũy qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau và 
được bổ sung, thay thế, hoàn chỉnh cho phù 
hợp với từng hoàn cảnh. Và tính thực thi của 
luật tục chỉ được thừa nhận trong không gian 
làng bản từng tộc người. 
Dưới góc độ nghiên cứu về pháp luật, luật tục 
cũng được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá và 
nhìn nhận như sau: 
Theo Từ điển Luật học: “Những quy t c xử sự 
mang tính chất b t buộc do các cộng đồng 
làng xã xây dựng nên và được truyền từ đời 
này sang đời khác. Luật tục có thể tồn tại 
bằng truyền miệng hoặc được ghi thành văn 
bản. ăn bản luật tục có thể tồn tại dưới hình 
thức đơn giản như "hương ước" nhưng cũng 
có thể xây dựng dưới dạng bộ luật”[4]. luật 
tục là tập tục, phong tục tập quán của một 
cộng đồng, được hình thành tự phát và được 
các thành viên trong cộng đồng chấp nhận, 
tuân theo trong quan hệ với nhau. Luật tục thể 
hiện bao quát, phong phú các mối quan hệ xã 
hội truyền thống, ít thay đổi và hiện nay vẫn 
Nguyễn Văn Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 65 - 69 
 Email: jst@tnu.edu.vn 67 
giữ một vai trò quan trọng trong đời sống xã 
hội, kể cả ở nhiều nước phát triển. Ở Việt 
Nam, các nhà nghiên cứu văn hoá cho rằng 
luật tục về căn bản đã nhường bước cho luật 
thành văn, tuy nhiên, những phong tục, tập 
quán tốt đẹp vẫn được duy trì, vận dụng phù 
hợp với xã hội mới. 
Nghiên cứu luật học, PGS.TS Nguyễn Thị 
Việt Hương có quan điểm:“Luật tục là những 
chuẩn mực xã hội, giới hạn hành vi ứng xử 
của mỗi cá nhân và cả cộng đồng sao cho ph 
hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Luật tục 
bao hàm và cụ thể hóa các chuẩn mực về đạo 
đức, pháp l xã hội, tạo nên các giá trị văn 
hóa, tinh thần, truyền thống của dân tộc, 
không ngừng được củng cố trong tiến trình 
phát triển lịch sử”[5, tr. 22-29]. Như vậy, 
quan điểm của các nhà nghiên cứu luật học 
cho rằng luật tục là bước chuyển trung gian 
giữa những phong tục, tập quán với luật pháp 
của thời kỳ có giai cấp và chuẩn bị xuất hiện 
nhà nước. Luật tục ra đời và tồn tại trong xã 
hội chưa có nhà nước nên chủ yếu nó vẫn là 
những quy phạm cộng đồng, bao hàm các loại 
giá trị đạo đức, pháp lý và văn hóa, tôn giáo - 
tín ngưỡng...và phần nhiều mang đặc thù của 
tính địa phương, văn hóa từng tộc người. 
Về mặt lịch sử, luật tục chứa đựng yếu tố 
truyền thống, có vai trò điều hành góp phần 
vào sự ổn định trật tự để bảo vệ các quyền lợi 
của các thành viên trong cộng đồng của các 
dân tộc trong đời sống xã hội. Trong những 
điều kiện và hoàn cảnh nhất định luật tục có 
thể trở thành nguồn của luật nhà nước. 
Xét về mặt văn hoá xã hội, luật tục như một 
thứ văn hoá truyền thống của một nhóm 
người với những quy định cấm đoán, cho 
phép, khích lệ hay xử phạt và được nhóm 
người đó thừa nhận, bắt buộc nhằm ràng buộc 
mọi cá nhân, gia đình, dòng họ phải tuân theo. 
Như vậy, luật tục được hiểu là những quy 
định mang tính truyền thống, văn hoá của một 
nhóm người có quan hệ với nhau về mặt 
huyết thống, do đó phải tuân theo những quy 
định của cộng đồng. Và luật tục là một dạng 
quy phạm xã hội có phạm vi điều chỉnh rộng 
lớn thể hiện các vấn đề về đạo đức, luân lý, 
phép ứng xử, tính cách thái độ của các thành 
viên trong xã hội. Luật tục có ảnh hưởng rất 
lớn trong đời sống cộng đồng, nó chi phối 
mạnh mẽ các phong tục tập quán ở địa 
phương. Nghĩa là, nó thiết lập nên toàn bộ giá 
trị nền tảng cho các phán xét cả về đạo đức, 
pháp luật cũng như nguồn gốc của các dự 
đoán xã hội. 
2. Đặc điểm của luật tục 
Thứ nhất, luật tục được hình thành trong quá 
trình lịch sử lâu dài trong thời kỳ đầu của xã 
hội nguyên thủy (tương ứng với thời đại đồ đá 
cũ và phát triển mạnh ở thời đại đá giữa và đá 
mới). Theo phân kỳ lịch sử như vậy, luật tục 
ra đời dưới thời kỳ chế độ mẫu hệ của lịch sử 
loài người, đây là những quy định chung mà 
được cả cộng đồng tộc người đều thừa nhận. 
Vì thế, luật tục đảm bảo lợi ích chung của cả 
cộng đồng và không bao giờ có sự mâu thuẫn 
hay có sự phản đối gay gắt từ phía những 
thành viên của tộc người đó. 
Thứ hai, phần lớn các bộ luật tục ở nước ta 
được hình thành ở dạng ngôn ngữ truyền 
miệng. Điều này xuất phát từ sự ra đời rất 
sớm của luật tục, thời gian này hầu hết các 
dân tộc của nước ta chưahình thành chữ viết 
thậm chí hiện nay còn nhiều dân tộc thiểu số 
nước ta không có chữ viết. Luật tục được xây 
dựng bằng các ngôn từ đơn giản, dễ hiểu, dễ 
thực thi như văn vần, dân ca, câu đố, lời ru, 
truyện, thơ ca..., ngoài ra cách ví von nội 
dung của luật tục đều dùng các thứ mà cả 
cộng đồng đều biết như con dao, cái điếu cày, 
hòn đá, con cọp, cây rừng... do vậy mà các 
thành viên trong cộng đồng có thể hiểu để áp 
dụng khi xử phạt, hoặc biết để tránh không vi 
phạm những điều cấm kỵ đã được tuyên bố 
trong luật tục. 
Thứ ba, luật tục là những nguyên tắc nhằm 
hướng đến việc tạo ra sự bình đẳng trong nội 
bộ của cộng đồng tộc người. Vì thế, trong khi 
xử phạt có nguyên tắc đó là mọi tội đều phải 
mang ra xét xử: “Lửa cháy dập mới t t/ Nước 
Nguyễn Văn Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 65 - 69 
 Email: jst@tnu.edu.vn 68 
chảy đ p mới cạn/ Các tội phạm phải đền mới 
hết”[6, tr. 361] để nhằm mục đích: “Anh và em 
mới được đoàn kết/ Cha và con mới được hòa 
thuận/ Bà con ta mới được thân ái” [6, tr. 362]. 
Và nhất thiết phải có người làm chứng hoặc có 
tang chứng để chứng minh: “Phải có bốn năm 
người, vài ba người khi sự việc xảy ra, tất cả 
mọi người đều đã nghe, m t đều đã thấy. Có 
như vậy, các tang chứng mới thật là ch c 
ch n” [6, tr. 312]. Nếu có những hình phạt thì 
tính công bằng rất cao, thường là tội lớn thành 
tội nhẹ, tội nhẹ thành không có. “Hình thức 
phạt tội, mức phạt bồi thường nhiều khi còn 
mang ngh a văn hóa nhất định. Thí dụ, với 
luật tục Êđê, người nào ăn c p của người khác 
một thì phải đền ba.” [7, tr. 49] 
Thứ tư, luật tục có phạm vi điều chỉnh rộng, 
bao quát toàn bộ các lĩnh vực quan hệ xã hội 
trong cộng đồng người. Căn cứ vào tính chất, 
đặc điểm của những quan hệ xã hội được điều 
chỉnh, có thể phân thành những nhóm lĩnh 
vực được luật tục điều chỉnh như: lĩnh vực tổ 
chức và quản lý cộng đồng, lĩnh vực ổn định 
trật tự an ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng, 
lĩnh vực tôn trọng, tuân thủ, bảo vệ phong tục, 
tập quán; lĩnh vực quan hệ dân sự, hôn nhân 
và gia đình; lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; 
bảo vệ sản xuất, môi trường; lĩnh vực duy trì 
và giáo dục nếp sống văn hóa, tín ngưỡng. 
Thứ năm, luật tục được đảm bảo thực hiện 
bằng sức mạnh của dư luận cộng đồng, bằng 
chính sự tự giác của mỗi cá nhân, có khi như 
một thói quen. Dư luận cộng đồng là lực 
lượng hướng dẫn và cưỡng chế các thành viên 
ứng xử theo đúng chuẩn mực của quy ước và 
luật tục. Dư luận cộng đồng góp phần cổ vũ, 
khích lệ các thành viên chấp hành các quy 
định của luật tục, làm tốt các điều phải làm, 
có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những người 
có hành động vi phạm luật tục. Mặt khác, tín 
ngưỡng, thần linh cũng chi phối ý thức tuân 
thủ luật tục của của cả cộng đồng. 
3. Bản chất của luật tục 
Thứ nhất, luật tục là một hệ thống giáo dục 
hoàn chỉnh. Trong rất nhiều cuốn luật tục hiện 
nay đều thấy được tính giáo dục được phản 
ánh rõ nét trên mọi phương diễn từ trong gia 
đình, ngoài đời sống xã hội đến sự ứng xử của 
con người với tự nhiên. Tính giáo dục trong 
luật tục nhằm khuyên nhủ, điều chỉnh nhận 
thức, hành vi con người theo hướng tích cực để 
xây dựng lối sống tốt đẹp, giữ thuần phong mỹ 
tục của ông cha. Như trong cuốn Luật tục của 
người Raglai nói về con cái phải vâng lời, phải 
có trách nhiệm, bổn phận dưỡng nuôi, chăm 
sóc cha mẹ: “Làm con phải gọi dạ, bảo vâng, 
ăn lời mẹ cha/ Phải có bổn phận chăm sóc, 
dưỡng nuôi mẹ cha, phải canh bưng, cơm dọn/ 
Chăm lo, phụng dưỡng mẹ cha mới là con” [8, 
tr. 485]. Tương tự trong luật tục Êđê: “Có 
măng to là nhờ có le, có t c kè to là nhờ có 
cây, con người mà đông lên hàng trăm, hàng 
nghìn là nhờ có cha mẹ” [9, tr. 114]. Ngoài sự 
giáo dục trong gia đình ra, trong các cuốn luật 
tục còn rất nhiều các quy định nhằm hướng 
đến điều chỉnh các hành vi cá nhân như: quan 
hệ vợ chồng, trộm cắp, cưỡng hiếp... Và cuối 
cùng là trong chế tài xử phạt phần nhiều mang 
tính chất giáo dục, răn đe hơn là sự trừng phạt, 
chẳng hạn việc giết người rất nghiêm trọng 
nhưng khi xét xử thì: “Nếu h n đã giết một 
người nhà nghèo thì h n phải đền mạng bằng 
một cái la một cẳng tay và một gang tay 
 đường kính ” [6, tr. 134]. 
Thứ hai, luật tục chính là một phương thức 
quản lý cộng đồng có tính hiệu quả nhất trong 
các làng bản. Luật tục xuất hiện từ sớm, tồn 
tại lâu đời trong đời sống của nhân dân, được 
truyền từ đời này sang đời khác, phù hợp với 
nguyện vọng của nhân dân, trở thành thói 
quen ứng xử hàng ngày của họ và được đảm 
bảo thực hiện bằng dư luận xã hội, bằng các 
biện pháp cưỡng chế của cộng đồng nên được 
người dân tự giác thực hiện (chức năng điều 
chỉnh xã hội). 
Thứ ba, luật tục là di sản văn hoá tộc người. 
Trong mỗi bộ luật tục nó không chỉ chứa 
đựng những sắc thái văn hoá độc đáo của mỗi 
tộc người khiến có người đã ví von nó như là 
“Bộ từ điển Bách khoa sống của mỗi dân tộc” 
mà bản thân mỗi bộ luật tục đó thực sự còn là 
một tác phẩm văn học dân gian truyền miệng 
Nguyễn Văn Tiến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 65 - 69 
 Email: jst@tnu.edu.vn 69 
có giá trị nội dung và nghệ thuật. Luật tục là 
kho tàng tri thức dân gian phong phú. Đó là 
tri thức về môi trường tự nhiên, về sản xuất 
nương rẫy, hái lượm, săn bắt, đánh cá, tri thức 
về xã hội và ứng xử giữa người với người, tri 
thức về đời sống văn hoá, nghi lễ phong tục. 
Đó là việc xác định các quan hệ sở hữu của 
cộng đồng và cá nhân đối với các nguồn tài 
nguyên đất, rừng, nước, lâm nghiệp, thổ sản 
“B t con ếch phải chừa con mẹ/ Chặt cây tre 
phải chừa cây con/ Đốt tổ ong phải chừa ong 
ch a/ Thuốc cá làm suối nghèo” [6, tr. 567]. 
Xét cho cùng, luật tục không phải là cái gì 
khác mà chính bản thân nó đã là văn hóa. Nói 
luật tục là văn hóa không phải chỉ xét ở bản 
chất và con đường hình thành của nó gắn liền 
với văn hóa, mà còn thể hiện ở nội dung văn 
hóa chứa đựng trong luật tục. 
4. Kết luận 
Như vậy thông qua khái niệm và đặc điểm 
chúng ta có thể thấy bản chất của luật tục là 
một cách thức quản lý cộng đồng giản đơn và 
sơ khai được áp dụng rộng rãi trong các bản 
làng dân tộc thiểu số. Trong suốt thời gian 
dài, luật tục đóng vai trò là hệ thống pháp luật 
với những quy phạm tương đối chặt chẽ của 
nó đã trở thành công cụ hữu hiệu để giải 
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và duy trì 
trật tự xã hội. Là bức tranh phản ánh chân 
thực mọi mặt đời sống xã hội, phong tục tập 
quán, tín ngưỡng, lối sống của các dân tộc. Là 
một hệ thống giáo dục từ nhân cách đến các 
hành vi của các cá nhân. Trong xã hội hiện 
đại ngày nay, luật tục vẫn phát huy vai trò 
điều chỉnh mọi mối quan hệ xã hội ở các 
buôn, làng, bản của đồng bào các dân tộc 
thiểu số. Đối với họ, luật tục vẫn được coi là 
những chuẩn mực trong hành vi ứng xử hàng 
ngày. Trong mọi hoạt động giao tiếp với cá 
nhân, cộng đồng, khi gặp phải tình huống cần 
lựa chọn hành vi ứng xử, đồng bào các dân 
tộc thiểu số thường nghĩ ngay đến những câu 
trong luật tục mang đậm chất dân gian để 
định hướng cho hành vi ứng xử của mình mà 
không vượt ra ngoài những quy định của luật 
tục. Chính điều này cho thấy sức sống mãnh 
liệt của luật tục và chứng minh cho sự hợp lý, 
sự cần thiết của nó trong việc điều chỉnh các 
mối quan hệ xã hội của đồng bào dân tộc 
thiểu số hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ngô Đức Thịnh, Tìm hiểu luật tục các tộc 
người iệt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà 
Nội, 2003. 
[2]. Lâm Bá Nam, “Luật tục các dân tộc bản địa ở 
Tây Nguyên: Nhận diện di sản lịch sử”, Tạp 
chí Dân tộc học, số 10/2010. 
 [3]. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Viện Nghiên cứu 
Văn hóa dân gian (2000), Luật tục và phát 
triển nông thôn hiện nay iệt Nam, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 370-410. 
[4]. https://thuvienphapluat.vn/tnpl/2631/Luat-tuc? 
tab=0, truy cập lúc 8:37, ngày 13/3/2019. 
[5]. Nguyễn Thị Việt Hương, “Giá trị của luật tục 
từ góc nhìn pháp lý”, TC Nhà nước và pháp 
luật, số 4/2000 tr 22 – 29. 
[6]. Phan Đăng Nhật (chủ biên), Luật tục các dân 
tộc thiểu số Việt Nam (quyển 4), Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội, 2014. 
[7]. Ngô Đức Thịnh, Tìm hiểu luật tục các tộc 
người iệt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 
H.2003. 
[8]. Phan Đăng Nhật, Nguyễn Thế Sang, Luật tục 
Chăm và luật tục Raglai, Nxb Văn hóa Dân 
tộc, Hà Nội, 2012. 
[9]. Phan Đăng Nhật (chủ biên), Luật tục các dân tộc 
thiểu số iệt Nam (quyển 3), Nxb Khoa học xã 
hội, Hà Nội, 2014. 

File đính kèm:

  • pdfban_chat_cua_luat_tuc.pdf