Từ đèo Hải Vân đến sông An Cựu - Huế năm 1876

Jules Léon Dutreuil de Rhins (1846-1894) sinh tại Saint-Étienne, là một sĩ quan hải quân

Pháp, lại vừa là một nhà thám hiểm và nhà địa lý. Trong những năm 1876-1877, Dutreuil de Rhins

sang Việt Nam và đến Huế làm thuyền trưởng chỉ huy tàu hơi nước Scorpion của hải quân triều

Nguyễn, một trong năm chiếc tàu do Pháp trao tặng vua Tự Đức sau Hiệp ước Giáp Tuất (1874).

Sau ngày rời khỏi Huế, Dutreuil de Rhins đã viết về cuộc khảo sát địa lý tại miền Trung của

mình đăng trên Tập san Hội Địa dư Paris năm 1878, và đến năm 1879, ông đã cho xuất bản cuốn

Nhật ký hành trình về vương quốc An Nam và người An Nam, công bố những ghi chép về vùng

đất và công việc ông đã làm tại Việt Nam, với rất nhiều chi tiết bổ ích cho việc nghiên cứu, tham

khảo về địa lý, cảnh quan môi trường, văn hóa, xã hội và lịch sử Việt Nam thời cận đại.

Dưới đây, xin trích dịch đoạn khảo tả con đường bộ vượt đèo Hải Vân ra đến đầm Cầu Hai

và con đường thủy từ đầm Cầu Hai theo dòng sông An Cựu để đến Huế, từ trang 150 đến trang

175 trong sách của Dutreuil de Rhins, được Nhà xuất bản Librairie Plon tái bản lần thứ hai năm

1889 tại Paris, với nhan đề Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage, dày 375

trang, hiện lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Pháp, ký hiệu: 8-O2L-135 (A).

Trong bài, những đoạn đối thoại ít liên quan chủ đề chúng tôi lựa chọn sẽ không được trích

dịch. Bên cạnh đó, ngoài những chú thích và chú giải của chúng tôi để trong dấu móc [.] ở chính

văn hoặc ở phần chú thích cuối bài, còn có một vài chú thích của chính bản thân Dutreuil de Rhins

để trong ngoặc đơn (.) ở chính văn và cả ở phần chú thích [trường hợp này được chúng tôi ghi

rõ vào cuối mỗi chú thích là của Dutreuil de Rhins].

Nhan đề và các đề mục của phần được trích dịch do chúng tôi đặt

pdf 20 trang yennguyen 820
Bạn đang xem tài liệu "Từ đèo Hải Vân đến sông An Cựu - Huế năm 1876", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ đèo Hải Vân đến sông An Cựu - Huế năm 1876

Từ đèo Hải Vân đến sông An Cựu - Huế năm 1876
TỪ ĐÈO HẢI VÂN ĐẾN SÔNG AN CỰU - HUẾ NĂM 1876
 Nguyên tác: Dutreuil De Rhins 
 Dịch và chú giải: Nguyễn Quang Trung Tiến* 
Lời người dịch
Jules Léon Dutreuil de Rhins (1846-1894) sinh tại Saint-Étienne, là một sĩ quan hải quân 
Pháp, lại vừa là một nhà thám hiểm và nhà địa lý. Trong những năm 1876-1877, Dutreuil de Rhins 
sang Việt Nam và đến Huế làm thuyền trưởng chỉ huy tàu hơi nước Scorpion của hải quân triều 
Nguyễn, một trong năm chiếc tàu do Pháp trao tặng vua Tự Đức sau Hiệp ước Giáp Tuất (1874).
Sau ngày rời khỏi Huế, Dutreuil de Rhins đã viết về cuộc khảo sát địa lý tại miền Trung của 
mình đăng trên Tập san Hội Địa dư Paris năm 1878, và đến năm 1879, ông đã cho xuất bản cuốn 
Nhật ký hành trình về vương quốc An Nam và người An Nam, công bố những ghi chép về vùng 
đất và công việc ông đã làm tại Việt Nam, với rất nhiều chi tiết bổ ích cho việc nghiên cứu, tham 
khảo về địa lý, cảnh quan môi trường, văn hóa, xã hội và lịch sử Việt Nam thời cận đại.
Dưới đây, xin trích dịch đoạn khảo tả con đường bộ vượt đèo Hải Vân ra đến đầm Cầu Hai 
và con đường thủy từ đầm Cầu Hai theo dòng sông An Cựu để đến Huế, từ trang 150 đến trang 
175 trong sách của Dutreuil de Rhins, được Nhà xuất bản Librairie Plon tái bản lần thứ hai năm 
1889 tại Paris, với nhan đề Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage, dày 375 
trang, hiện lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Pháp, ký hiệu: 8-O2L-135 (A). 
Trong bài, những đoạn đối thoại ít liên quan chủ đề chúng tôi lựa chọn sẽ không được trích 
dịch. Bên cạnh đó, ngoài những chú thích và chú giải của chúng tôi để trong dấu móc [...] ở chính 
văn hoặc ở phần chú thích cuối bài, còn có một vài chú thích của chính bản thân Dutreuil de Rhins 
để trong ngoặc đơn (...) ở chính văn và cả ở phần chú thích [trường hợp này được chúng tôi ghi 
rõ vào cuối mỗi chú thích là của Dutreuil de Rhins]. 
Nhan đề và các đề mục của phần được trích dịch do chúng tôi đặt.
I. Từ công quán Đà Nẵng đến Hải Vân Quan 
Ngày 5/10/1876, các mệnh lệnh từ Huế đã đến. Tất cả chúng tôi được triệu 
tập bởi quan Thượng thư, và thời gian khởi hành của chúng tôi từ Đà Nẵng(1) được 
ấn định vào ngày 7, lúc 5 giờ sáng; những chiếc cáng(2) và phu khiêng cáng(3) sẽ 
được chính quyền cung cấp.(4)
Mỗi người trong chúng tôi đều mong muốn tận hưởng chuyến đi này theo 
cách riêng của mình, hoặc là đi săn, hoặc để thăm xứ sở; chuyến đi có vẻ không 
thích hợp để mang theo tất cả các đồ dùng cá nhân, nhưng để bảo đảm an toàn, một 
phần đồ đạc có thể mang theo trên những chiếc cáng.
* Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
148 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
149Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
Ngày 7 tháng 10 mà chúng tôi ngóng đợi đã tới!
Vào lúc 5 giờ sáng, chúng tôi đến một ngôi làng yên bình ở Đà Nẵng khiến 
tiếng chó cất lên inh ỏi. Tất cả mọi người đều đi bộ, và những lính canh có một 
chút bận rộn để ngăn chặn những người tò mò xâm nhập vào cái sân trước căn nhà 
lớn(5) mà chúng tôi vừa nhìn thấy. Cái bình phong che chắn sảnh tiếp tân đã được 
cất đi, ánh sáng của một vài ngọn đèn dùng để hút thuốc giữa hai hàng viên chức 
và lính canh tách cái bóng của những người điều hành, những vị quan lớn và những 
người cầm quyền Đà Nẵng đang trò chuyện thì thầm trước bàn thờ Đức Phật.(6) 
Trong sân, ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh bắt đầu, trái ngược với khung cảnh 
sinh động và nhộn nhịp: 12 chiếc cáng được các vị quan trưng dụng vào ngày hôm 
trước di chuyển xung quanh; mỗi thành viên trong đoàn thực hiện sự lựa chọn của 
mình, và với sự giúp sức của người hầu, anh ta đã xếp đặt hành lý lên giá treo cho 
nhẹ hơn. Sự chuẩn bị sơ bộ này rất quan trọng, vì chúng tôi đã để những người hầu 
của mình ở lại Đà Nẵng.
Mỗi người chúng tôi có 4 phu khiêng cáng, 10 người được cắt cử để mang 
vác đồ dùng, và kể cả một thông dịch viên, đoàn chúng tôi lên tới 65 hoặc 70 
người. Tiếng cười cười nói nói vang lên, và người thông dịch không may phải chạy 
Ảnh 1: Hành trình đi bộ từ Đà Nẵng đến Cầu Hai bằng cáng võng ghế (ký hiệu đường liền màu 
đen đậm ở ảnh góc phải trên) và đi thuyền tam bản từ Cầu Hai đến Huế qua ngả sông Phủ Cam 
(ký hiệu đường chấm màu đen đậm ở ảnh góc trái dưới) vào năm 1876 của Jules Leson Dutreuil 
de Rhins. (Nguồn: Indo - Chine française - Exposition de Hanoï, L’Excursion à Hué: la cour, le 
palais, les tombeaux, En dépôt l’Office colonial, Galerie d’ Orléans, Paris, 1902).
từ người này sang người khác, bất lực để trả lời tất cả các yêu cầu: “Người phu 
khiêng cáng của tôi đâu?”, “Chúng ta phải thay chiếc võng cáng này”, “Người phu 
này quá yếu”... Người cảm thấy xấu hổ nhất trong đoàn chúng tôi chắc chắn là ông 
P., thợ máy của chiếc tàu nhỏ, vì có thân hình đồ sộ nên không thể sắp xếp thích 
hợp với chiếc cáng nào!
Cuối cùng vào lúc 5 giờ rưỡi, sau khi dùng trà, đoàn chúng tôi bắt đầu di 
chuyển ra phía bờ biển phía nam của vịnh Đà Nẵng.
Vịnh Đà Nẵng đầy vẻ đẹp đối với chúng tôi khi rời khỏi làng! Phải thừa nhận 
rằng, nhờ thời tiết lý tưởng khiến chúng tôi tăng phần cảm hứng, và viễn cảnh của 
một chuyến đi thú vị như vậy khiến chúng tôi hạnh phúc hơn những người khác. 
Rời khỏi những chiếc cáng của mình, chúng tôi đi bộ thành một hàng dọc, tìm kiếm 
trong ký ức những bản hợp xướng dễ nhớ nhất, và ngân vang khúc hát trong lồng 
ngực, trước sự ngạc nhiên lớn của những người phu khiêng cáng đang nâng khuỷu 
tay và đẩy cổ tay ra phía trước, đi nước kiệu cùng những chiếc cáng bằng những 
nhịp lắc lư lên xuống trông rất kỳ quặc đối với những du khách không quen điều đó.
Cuộc đua tranh về tốc độ bị phá vỡ bởi những tiếng ồn râm ran huyên náo 
hơn. Chúng tôi cười đùa, nói chuyện; nhưng người ta phải đi bộ, đi bộ mãi, và vẻ 
vui tươi, nhiệt tình chỉ thể hiện được trong chốc lát. Không khí buổi sáng đánh thức 
dạ dày, cơn đói ập đến và sự mệt mỏi xâm chiếm khắp cơ thể. Chúng tôi tiếp tục di 
chuyển trong một khoảnh khắc im lặng: bên phải chúng tôi các xoáy nước nối tiếp 
nhau vỗ ầm ầm, cuộn sóng tràn vào bờ trải ra những tấm màn sủi bọt dưới bước 
chân của chúng tôi, và vẽ lên rìa bãi biển như những tấm tranh thêu đủ kiểu; bên 
trái, cát chất đống bởi gió và sóng tạo thành một loạt các gò nhỏ, và những lùm cây 
xanh che khuất đồng bằng, mà một vành đai núi cao đã thấp thoáng hiện ra. Chúng 
tôi trở lại trên cáng và thúc giục những người phu khiêng cáng đua nhau sải bước 
trên rìa bãi biển. Cát nhường chỗ cho những cánh đồng trồng trọt, những lùm bụi 
với những khối rừng rậm rạp, hai bên đường có một số khu dân cư.
Đến 9 giờ sáng, khi đã đi được khoảng 12 cây số, chúng tôi tiến vào một gian 
lều lớn được bao quanh bởi một lũy đất nhỏ. Gian lều này, bao gồm một căn phòng 
lớn duy nhất, được gọi là trạm,(7) một loại nhà dành cho khách qua đường tìm chỗ 
tá túc, và việc giao thông liên lạc của chính quyền luôn sẵn sàng.(8) Các trạm được 
thiết lập trong những khoảng cách vừa phải trên con đường Thiên lý(9) bắc nam 
của An Nam, lần lượt đi qua các tỉnh. Tổ chức đầu tiên của trạm dịch và công việc 
chuyển thư(10) của người An Nam xuất hiện từ thế kỷ XI, khi vùng đất này vẫn còn 
là một phần của vương quốc Champa.(11) Các trạm thứ cấp, chẳng hạn như trạm 
này, chỉ phục vụ như nơi tá túc; chúng được đặt ở khoảng cách trung bình 12 cây 
số(12) mỗi trạm.
150 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
151Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
Người ta dẫn chúng tôi vào gian phòng chính, những người phu khiêng cáng 
thở phào nhẹ nhõm, ít nhất là được nghỉ ngơi, vì họ đã giúp chúng tôi vượt qua hơn 
một nửa nỗi vất vả trong chặng đầu của cuộc hành trình; sau đó họ vui lòng giúp 
chúng tôi sửa soạn bữa ăn sáng với tất cả những gì có thể tìm thấy ở quanh đây: 
những tấm phản gỗ, chiếu... Bữa ăn khá đầy đủ, bao gồm trứng luộc, thịt nguội, 
thức ăn hun khói, với bánh mì, rượu vang và thậm chí cà phê cho những người 
không thích trà. Sự chuẩn bị thú vị cho một bữa ăn lắm khi cần thiết hơn cả cái 
đói cồn cào. Với khoảng một giờ nghỉ ngơi, vừa đủ để nghĩ đến việc tiếp tục lên 
đường. Đồng sự của tôi ở các tàu Estaing và Entrecasteaux – những người đang có 
kế hoạch đi săn – dẫn đầu, theo sát là các thuyền trưởng tàu Mayenne và tàu Biên 
Hòa.(13) Đối với tôi, biết rằng người An Nam không vội vàng khi đề cập những thứ 
mà họ không thích, và vì muốn nhìn ngắm non nước thoải mái, tôi vẫn lặng lẽ đi 
đoạn hậu với ông V.
Khoảng cách là 97 cây số giữa hai thành phố, 104 cây số nếu bắt đầu từ bãi 
neo đậu tàu ở vịnh Đà Nẵng; và trên tuyến đường này cảnh quan địa hình mang lại 
những khác biệt lớn đến nỗi khó có thể suy ra mức trung bình chính xác. Có 5 trạm 
chính giữa Đà Nẵng và Huế.
Một con đường rất dễ thương dẫn chúng tôi xuyên qua những cánh rừng 
tre đến rìa của một con sông, mà trước khi đổ vào cuối phía tây nam của vịnh Đà 
Nẵng, nó chia thành hai nhánh bao quanh một hòn đảo có cây cối rậm rạp.(14) Sông 
này dường như được chia thành nhiều nhánh để tưới cho vùng đồng bằng trải dài 
về phía nam. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu nhiều chi lưu của nó được cung cấp bởi 
các nguồn khe suối nằm trên sườn phía nam của núi Hải Vân,(15) hoặc trên phần 
trung tâm của dãy núi này, trải dài từ các ngọn núi Cầu Hai(16) đến các đỉnh núi ở 
Đà Nẵng, bởi vì tôi không thấy những nguồn nước này có thể có một lối chảy khác. 
Đây sẽ là một chuyến tham quan thú vị để nắm rõ. Ở phía nam của dãy núi Cầu 
Hai, chắc chắn có những con đường mòn (thường được những người thuộc bộ tộc 
hoang dã sử dụng, bởi họ đi lại nhanh nhẹn hơn người An Nam) dẫn đến nguồn 
phía đông của Sông Huế.(17) 
Có một chiếc đò ngang(18) chuyển chúng tôi sang bờ bên kia, một trong những 
điểm đẹp nhất và đồng thời cũng là nơi lý tưởng để ngắm vịnh Đà Nẵng, bởi ở đây 
người ta có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn để quan sát các địa điểm đẹp nhất và 
khác biệt nhất về ngoại cảnh. Những ngọn núi cao gối chập chùng lên nhau, để lại 
ở đây giữa chân dãy núi và biển là những thung lũng hẹp, và con đường không hơn 
một con đường mòn được tưới bởi những ngọn sóng biển sủi bọt.
Chúng tôi vượt qua hai con lạch nhỏ khác trên chiếc đò ngang và tiếp nhận 
những thợ máy của các tàu Estaing và Biên Hòa, cảm giác hào hứng giảm dần bởi 
chúng tôi đang thực hiện một cuộc du hành ở vùng núi vào buổi trưa. Cuối cùng, 
lúc 11 giờ 30, chúng tôi dừng lại trước một túp lều rất nhỏ, rất lộn xộn; nhưng vì 
trời không có một làn gió, và mặt trời rất nóng, nên chúng tôi quyết định phải nghỉ 
ngơi một lúc ở đó.
Những chiếc cáng được gác lên mấy cái chạc ba,(19) các manh chiếu rách được 
giăng ra trên những cây cọc để che nắng. Thượng đế biết làm thế nào trước tia nắng 
mặt trời! Chúng tôi bước vào trong lều, bị bao phủ bởi màn khói dày, là cách bảo 
vệ duy nhất chống lại muỗi. Chủ lều mời chúng tôi nằm trên những chiếc giường, 
vạt đan bằng cật tre, và đưa cho chúng tôi những miếng gỗ vuông thay cho gối.(20)
Nhưng thứ mà chúng tôi cần trên hết là chè, không phải chè của Trung Quốc, 
mà là loại chè tuyệt vời và có giá rẻ ở trong nước, chè của người bình dân An Nam, 
loại chè Huế này,(21) người ta uống sạch cả bát nóng hổi, đang sôi. Chè Huế, một 
loại cây khác với chè Trung Quốc, là thức uống tốt nhất ở địa phương này, với 
hương vị dễ chịu làm cho người ta nhớ mãi, tôi không khỏi bị cám dỗ rằng đó là 
thức uống tốt nhất mà người ta có thể uống được, bất cứ nơi nào, để làm dịu cơn 
khát. Ngoài chuyện chất lượng, loại chè này còn rất rẻ, một bát lớn chỉ vào khoảng 
mười đồng An Nam(22) [tương đương khoảng 2 xu tiền Pháp].(23)
Sau khi hút thuốc lá và giải khát bằng chè Huế, chống muỗi và ký sinh trùng, 
chúng tôi lên giường nghỉ cho đến ba giờ chiều.
Khi tiếp tục lên đường, hai người bạn đồng hành mới của chúng tôi nhận ra 
rằng các phu khiêng cáng của họ đã đi theo đội dẫn đầu. 
Ảnh 2: Một đoàn phu khiêng cáng võng từ làng Nam Ô lên đèo Hải Vân cuối thế kỷ XIX. 
(Nguồn: Gabriel Veyre, La route du Col des Nuages, Paris, 1899-1900).
152 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
153Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
Một khối những ngọn đồi hình thành ở đây một cái mũi nhỏ nhô ra biển; đoàn 
lữ hành của chúng tôi, giảm xuống còn 24 người, từ từ đi vào mũi đất: cảnh tượng 
rất đẹp, con đường lên cao rồi xuống thấp, xen lẫn là những vệt đường mòn của 
muôn thú, men theo những bụi cây dày và đến bãi biển đầy cát ở phía cuối, nơi có 
một khối đá khổng lồ cách chúng tôi vài trăm mét. Chúng tôi tiếp tục vượt qua và 
đến một cái thôn ở dưới cùng của vịnh vào lúc 4 giờ chiều.
Trong cuộc hành trình bằng đường bộ, chúng tôi ít nghe tên các làng hơn tên 
trạm, được ghi bằng những Hán tự lớn ở phía trên cổng. Không quan trọng cái tên, 
thôn này bao gồm khoảng 60 túp lều phân bố ven hai bên đường. Những toán trẻ 
em hùa nhau chạy đi thông báo sự xuất hiện của chúng tôi, tạo ra những đám bụi 
mịt mù trước mặt. Những thôn nữ trẻ thả chày vào cối giã gạo, tạm ngừng điệp 
khúc đang đệm và núp sau những vách ngăn chăm chú nhìn chúng tôi. Vào giờ này, 
nam giới vẫn còn ở trên cánh đồng, bởi vì chúng tôi chỉ thấy phụ nữ, hầu hết đều 
bế những đứa bé bên hông.
Người An Nam không lãng phí thời gian của họ, và dân số sẽ phát triển nhanh 
chóng nếu những sinh linh nhỏ bé nghèo nàn này được chăm sóc cẩn thận hơn. Đến 
giữa làng, những người phu khiêng cáng rẽ trái và đưa chúng tôi vào căn phòng 
lớn của trạm. Đã đến lúc ông P. bước qua võng lưới chiếc cáng của mình. Nam 
Chơn,(24) cách Đà Nẵng 20 cây số, là trạm chính đầu tiên trên đường đi Huế. Quan 
đứng đầu trạm, có vai vế đáng kể ở vùng này, đến gặp và mời chúng tôi nghỉ ngơi 
trên sàn nhà cao một tấc so với mặt đất và được trải chiếu. 
Vị quan tử tế này sau đó xem xét các vật dụng, nhăn mặt khi thấy cái võng 
lưới bị bục rách, càu nhàu các phu khiêng cáng, và nhìn tấm thân đồ sộ của ông P. 
rồi hiểu ra và mỉm cười; trong khi các vị chức dịch khác có ý tiếc nuối những chiếc 
cáng của họ và không mấy hài lòng với sự xuất hiện của chúng tôi.
“Chúng tôi sẽ không đi nếu không có một cái cáng khác, tôi nói với vị quan đứng 
đầu trạm, và chúng tôi muốn xuất phát trong nửa giờ nữa; nên yêu cầu nhanh lên”.
“Dạ, dạ”,(25) ông ta trả lời tôi, hai tay nắm chặt lại và cúi chào.
Hãy để chúng tôi lưu ý cảm nhận sâu sắc về những khác biệt xã hội giữa 
người An Nam. Không chỉ cách cư xử, cử chỉ, mà bản thân ngôn ngữ cũng nhắc 
nhở họ ở mọi lúc. Hai người bình dân thì nói với nhau là “có”,(26) những người 
giúp việc nói với nhau là “phải”,(27) người cấp dưới thì nói “dạ” với người cấp trên 
của mình. Vì vậy, đó không chỉ là một khó khăn nhỏ của ngôn ngữ An Nam khi sử 
dụng cách xưng hô này, nó thay đổi theo độ tuổi, thứ hạng và thậm chí là tùy sự 
phân biệt thân tình, thờ ơ hay tệ hơn của người đối thoại.
Quan đứng đầu trạm cuối cùng đã trả tiền cho những phu khiêng cáng và đưa 
thêm một khoản dự phòng cho người thay thế họ (một phu khiêng cáng kiếm được 
khoảng 300 đồng An Nam, hoặc 50 xu tiền Pháp cho một vòng như chúng tôi vừa 
thực hiện), chúng tôi rời trạm lúc 4 giờ chiều.
Hai đỉnh núi của Đà Nẵng dựng đứng phía trước chúng tôi, nhưng mỏm núi 
đầu tiên quá cao và dốc đến mức chúng tôi không thể phân biệt được đỉnh của 
chúng. Tôi rời khỏ ... ng lên nhau trông 
rất uy nghiêm, bởi vì những đỉnh núi này, dù không vượt quá 1.500 mét, vẫn có vẻ 
cao hơn nhiều vì chúng ở gần. Hướng về phía tây, ngược lại, khung cảnh trải rộng 
trên vùng đồng bằng lớn của Truồi,(48) bao quanh bởi một dãy đồi, lượn nhấp nhô 
vượt ra ngoài những ngọn núi chính ở đằng xa: Kim Phụng,(49) Đá Hàn(50) và Buồng 
Tằm(51) nằm ở phía nam kinh đô.
Chúng tôi đến cửa sông Phủ Cam(52) mà không nhận ra.(53) Ở một khoảng cách 
xa, làm sao người ta thực sự có thể phân biệt được vị trí bị bao phủ bởi bức màn cây 
163Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
xanh này, trên đó nổi lên nóc mái của một vài túp lều ở phía xa, hé mở một đoạn cửa 
sông dài khoảng mười mét? Ngay cả con sông đào(54) này cũng đang bị thu hẹp một 
nửa. (Sáu tháng sau, những người bạn tốt An Nam của chúng tôi, thấy đáy của cửa 
sông này quá rộng, đã thu hẹp cửa sông bớt vài ba mét cho các sà lúp máy hơi nước 
thuận tiện qua lại để đến Huế, chứ không chỉ dành riêng cho thuyền tam bản!).(55) 
Cách đó vài bước chân, dưới bóng râm xanh mát là một ngôi nhà khang trang, 
duyên dáng,(56) một điểm hẹn săn bắn thường xuyên của nhà vua chứ không phải 
của thần dân.(57) Dường như “Vị cứu tinh” của vương quốc sẽ bị tổn hại nếu ngài 
vượt quá giới hạn ở khu vực này. Nhà vua tản bộ nhiều hơn là săn bắn, được vây 
quanh bởi cung nữ và thái giám, tiếp theo là một số quan lại và binh sĩ, nhưng họ 
thường ngăn tất cả những ánh mắt tò mò với một khoảng cách rất xa. Thỉnh thoảng 
nhà vua hạ cố bắn vài con vịt trời, chim mỏ nhát, chim cút, công hoặc thỏ rừng, và 
dĩ nhiên nhà vua được tán dương là rất thiện xạ.
Ở phía bên trong cửa sông bị thắt hẹp mà tôi vừa mới đề cập, sông Phủ Cam 
đạt đến độ rộng chừng 50 mét, và nhanh chóng tăng lên 100, 150 rồi 200 mét ở 
những điểm giáp với những cái đầm. Tiếp tục ngược dòng, chúng tôi đến trước một 
nhánh sông lớn chảy về phía bắc, có lẽ là đầm [đầm Hà Trung - Thủy Tú]; ở đây 
con sông vẽ nên một hình chữ V,(58) tại phần phía nam nơi chúng tôi thấy một ngôi 
làng lớn.(59) Bên trái của chúng tôi, những ngọn đồi của thung lũng Truồi, chạy theo 
hướng từ nam đến bắc, nghiêng về phía tây, và mất dần tại phía nam đồng bằng 
Huế; ở đó chúng tôi nhận ra dáng vẻ núi Ngự Bình,(60) xuất hiện trước mắt như một 
hình tam giác với màu xanh đậm nổi trên những lùm cây xanh nhạt hơn của cánh 
đồng lúa và những cánh rừng.
Dòng sông đến đây khá hẹp, chừng 40 đến 30 mét, hẹp dần từ tây sang đông, 
chảy gần như theo một đường thẳng, giống như một con kênh dài với đôi bờ ngày 
càng sum suê cây cối và đông đúc dân cư; dường như chúng tôi đang gần đến Huế. 
Trời đã 3 giờ 30 chiều, cũng là khi chiếc thuyền tam bản của chúng tôi dừng lại ở 
cây cầu gỗ An Cựu;(61) thật ra chúng tôi đã không vội vàng, vì chúng tôi có thể dễ 
dàng thực hiện hành trình này trong mười giờ. An Cựu, nằm cách Huế hai cây số, 
là một ngôi làng xinh đẹp, với một ngôi chợ lớn, có các lều quán ở đằng trước cây 
cầu và ở hai bên con đường đi Huế mà chúng tôi tìm thấy ở đây. Chúng tôi băng 
qua đám đông buôn bán và khách hàng, sau đó đi trên một con đường xấu rải sỏi 
và gạch giữa những cánh đồng lúa, rồi tiếp tục đi dưới một mái gỗ của những túp 
lều, và đến khu sứ quán(62) lúc bốn giờ. 
Các đồng sự của tôi đã trú ngụ tại một trong những doanh trại đầu tiên, nằm 
trải dọc theo con đường song song với dòng sông.(63) 
 N Q T T 
 (Dịch và chú giải)
164 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
CHÚ THÍCH
(1) Nguyên văn: Tourane (phiên âm của người Pháp từ âm Việt là Đà Nẵng).
(2) Nguyên văn: palanquin.
(3) Nguyên văn: porteur.
(4) Đây là lần thứ hai Dutreuil de Rhins đi Huế, nhưng bằng đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế. Ông 
đã đến cửa Thuận An - Huế lần đầu vào tháng 9/1876 bằng đường biển, rồi dùng thuyền đi 
từ cửa Thuận An lên Huế.
(5) Có lẽ đây là Công quán Quảng Nam, nằm bên bờ tả ngạn Sông Hàn, gần cửa biển, nơi 
chính quyền tỉnh làm việc và đón tiếp khách nước ngoài đến Đà Nẵng. 
(6) Nguyên văn: l’autel de Bouddha.
(7) Nguyên văn: tram (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là trạm).
(8) Đây chính là trạm Nam Ô ở xã Cu Đê, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc ấy. Đầu triều 
Gia Long trạm này có tên là Cu Đê, đến năm 1822 triều Minh Mạng đổi thành Kim Hoa, từ 
năm 1841 triều Thiệu Trị trở đi mang tên Nam Ô. 
(9) Nguyên văn: grande route.
(10) Nguyên văn: service postal.
(11) Nguyên văn: Ciampa.
(12) Những trạm chính, nơi người ta thay thế phu khiêng cáng, đôi khi đặt cách nhau 22 cây số 
nếu ở khu vực đồng bằng; còn ở vùng núi, khoảng cách này giảm đi một nửa. Những quan 
sát này chỉ liên quan đến con đường từ Đà Nẵng đến Huế - Chú thích của Dutreuil de Rhins.
(13) Nguyên văn: Bien-hoa.
(14) Đây chính là sông Cu Đê.
(15) Nguyên văn: Aai-van (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Hải Vân).
(16) Nguyên văn: Cao-hai (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Cầu Hai).
(17) Ý nói Sông Hương ở Huế.
(18) Nguyên văn: bac.
(19) Nguyên văn: fourche.
(20) Thật ra đây chính là những cái gối kê bằng gỗ của người Việt xưa.
(21) Nguyên văn: tra-hué (cách gọi tên nước chè xanh phổ biến trong dân gian ở Huế của 
Dutreuil de Rhins).
(22) Nguyên văn: sapèque (đồng tiền đồng, đồng trinh, đồng điếu – đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của 
Việt Nam thời Nguyễn).
(23) Nguyên văn: centime (đồng tiền xu, xu – đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của Pháp).
(24) Nguyên văn: Nam-tung (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Nam Chơn). Trạm 
Nam Chơn thuộc xã Chơn Sảng, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc ấy. Đầu triều Gia 
Long tên trạm là Chơn Sảng, từ năm 1822 triều Minh Mạng đổi tên trạm thành Nam Chơn, 
nhưng tên làng thì vẫn là Chơn Sảng. 
(25) Nguyên văn: Ya, ya (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là dạ, dạ).
(26) Nguyên văn: co (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là có).
(27) Nguyên văn: faai (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là phải).
165Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
(28) Nguyên văn: Coulao-kiam (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Cù Lao Chàm).
(29) Nguyên văn: les rochers de marbre (những núi đá cẩm thạch - cách gọi của Dutreuil de 
Rhins về Ngũ Hành Sơn).
(30) Nguyên văn: la Porte des Nuages, tức Hải Vân Quan.
(31) Nguyên văn: Kouang-name (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Quảng Nam).
(32) Chỉ huy giữ Hải Vân Quan thường là một Phòng thủ úy do triều đình cắt cử.
(33) Nguyên văn: Fou-ya (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Phú Gia). Thật ra, đây 
là đầm An Cư, nhưng Dutreuil de Rhins căn cứ vào núi và con đèo Phú Gia nằm ở phía tây 
bắc trông như cái đáy của đầm để gọi là đầm Phú Gia.
(34) Nguyên văn: piastre (đồng bạc Đông Dương mới được Pháp phát hành từ năm 1875, nhằm 
thay thế đồng peso Mexico, thường được người Việt Nam gọi là đồng con cò, đồng hoa xòe 
hay đồng con ó và phổ biến trên thương trường Viễn Đông cũng như ở Việt Nam vào thời 
đó. 1 đồng piastre có giá trị tương đương 1 đồng peso Mexico và đều tương đương 600 
đồng điếu hay 1 quan tiền Việt Nam lúc ấy).
(35) Nguyên văn: feet (feet là số nhiều của foot, người Việt hay gọi là bộ, 1 foot tương đương 
0,3048 mét).
(36) Ý nói Hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5/6/1862 giữa Pháp và triều Nguyễn.
(37) Nguyên văn: Choumay (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Chân Mây, tiếng Hán-
Việt là Chu Mãi).
(38) Nguyên văn: Lang-keu (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là An Cư).
(39) Đây là trạm Thừa Phúc [Thừa Phước] ở làng An Cư, tức Lăng Cô hiện nay. Dutreuil de 
Rhins không biết tên trạm này nên chỉ nói là trạm chính thứ hai, kể từ sau trạm chính thứ 
nhất là Nam Chơn ở phía nam Hải Vân Quan. Trạm Thừa Phúc ở xã An Cư huyện Phú Lộc, 
vào đầu triều Gia Long gọi là trạm Phúc An, năm 1822 triều Minh Mạng đổi thành Đức Phúc, 
từ năm 1823 mang tên là trạm Thừa Phúc. 
(40) Nguyên văn: Océan.
(41) Nguyên văn: Teoua-léou (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Thừa Lưu). Trạm 
Thừa Lưu ở xã Trung Kiền huyện Phú Lộc, đầu triều Gia Long gọi là trạm Kiền Kiền, dưới 
triều Minh Mạng năm 1822 đổi tên thành Phúc Thọ, từ năm 1823 mang tên là trạm Thừa Lưu.
(42) Nguyên văn: lieue (dặm - đơn vị dặm đường bộ của Pháp và một số nước châu Âu, tương 
đương 4 cây số; khác với dặm ta ở Việt Nam ngày xưa, mỗi dặm ta là 1.080 thước mộc ta, 
tương đương 457,92m). 
(43) Các luồng nước mà tôi gọi là “lạch” rộng từ một đến bốn mét; chúng tôi luôn vượt qua những 
cây cầu nhỏ bằng đá. Các “con sông” thì vượt qua bằng đò ngang hoặc trên cây cầu gỗ - 
Chú thích của Dutreuil de Rhins.
(44) Người An Nam không đặt tên cho những ngọn núi, đã buộc tôi, sau này khi vẽ bản đồ của 
xứ sở, phải đặt tên cho những vùng chính. Khi cùng một lý do, tôi đặt tên một số điểm trên 
những đường đèo này, những đầm phá, một số dòng nước v.v., tôi đã cho tên của các địa 
phương lân cận. Điều đó, có vẻ như với tôi, là đủ - Chú thích của Dutreuil de Rhins.
(45) Sông Rui, còn gọi là Hói Rui, chảy xuyên qua địa bàn xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc hiện nay 
rồi đổ ra đầm Cầu Hai.
166 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
(46) Nguyên văn: Thoua-hoa (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Thừa Hóa). Trạm 
Thừa Hóa ở xã Cao Đôi [Cầu Hai] huyện Phú Lộc, đầu triều Gia Long gọi là trạm Cao Đôi, 
triều Minh Mạng năm 1822 đổi thành Đức Cao, từ năm 1823 mang tên trạm Thừa Hóa.
(47) Nguyên văn: Teu-aian (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Tư Hiền). Thật ra Tư 
Hiền là tên cửa biển, còn làng ở cửa biển Tư Hiền thì tên là Phú An, thuộc xã Vinh Hiền 
huyện Phú Lộc hiện nay - Xem thêm: Nguyễn Quang Trung Tiến, “Biến động địa lý cửa Tư 
Hiền trong lịch sử”, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ và 
Môi trường Thừa Thiên Huế, số 4 (22), 1998, trang 88-93.
(48) Nguyên văn: Troui (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Truồi).
(49) Nguyên văn: Hon-dun (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Hòn Đụn). Hòn Đụn 
hay Hòn Đốn là tên dân gian gọi núi Kim Phụng, cũng có tên khác là Núi Thương hoặc núi 
Thiên Dữu, ở địa phận làng Hải Cát, nay thuộc xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, cao 427 
mét, là một biểu tượng được khắc trên Chương đỉnh trong cửu đỉnh của triều Nguyễn.
(50) Nguyên văn: Da-han (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Đá Hàn, nay thuộc xã 
Hương Thọ, thị xã Hương Trà).
(51) Nguyên văn: Buong-tam (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Buồng Tằm, nay 
thuộc xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy).
(52) Nguyên văn: Fou-came (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Phủ Cam). Sông Phủ 
Cam được vua Minh Mạng đổi tên thành sông Lợi Nông vào năm 1821.
(53) Chúng tôi cho rằng con sông này là nhánh phía nam của sông Trường Tiền [nguyên văn: 
Truong-thien, phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Trường Tiền, tức Sông Hương], 
hoặc Sông Huế - Chú thích của Dutreuil de Rhins.
(54) Nguyên văn: canal. Trong hồi ký này, Dutreuil de Rhins dùng từ đan xen cả sông tự nhiên 
(rivière) và sông đào (canal) khi nói về sông Phủ Cam.
(55) Việc thu hẹp cửa sông này có lẽ để làm cho lưu lượng nước trong sông Phủ Cam chậm trút 
ra đầm phá hơn, nhằm đảm bảo mực nước trong sông duy trì ở mức cao hơn, cho phép 
thuyền máy hơi nước đủ độ sâu để đi lại.
(56) Ngôi nhà khang trang mà Dutreuil de Rhins mô tả ở đây chính là hành cung Thuận Trực 
được xây dựng từ triều vua Minh Mạng ở gần cửa sông Phủ Cam, trên đất xã Hà Trung, 
huyện Phú Lộc xưa, nay thuộc xã Vinh Hà huyện Phú Vang. Lúc đầu hành cung Thuận Trực 
được dựng bằng tranh tre để phục vụ các cuộc tuần du của vua, đến năm 1840 được xây 
bằng tường gạch, mái ngói, làm nơi vua nghỉ ngơi hoặc săn bắn.
(57) Nguyên văn: Theu-aian (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là thần dân).
(58) Sông Phủ Cam cắt doi đất giáp đầm Hà Trung - Thủy Tú thành hình chữ V (xem ảnh 1).
(59) Có lẽ đó là làng Truồi.
(60) Nguyên văn: Dia-bigne (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là Ngự Bình).
(61) Nguyên văn: Ane-keuou (phiên âm của Dutreuil de Rhins từ âm Việt là An Cựu).
(62) Khu sứ quán do triều Nguyễn dựng lên trên đất xã An Cựu, huyện Hương Thủy ở bờ nam 
Sông Hương từ năm 1862 để đón tiếp các sứ giả nước ngoài đến Huế giao thiệp, nằm ở vị 
trí dọc theo đường Lê Lợi hiện nay, trong khuôn viên Trường Đại học Sư phạm Huế. 
(63) Tức đường Lê Lợi dọc bờ nam Sông Hương hiện nay. 
167Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Eugène Lagrillière Beauclerc (1900), Voyages pittoresques à travers le monde: de Marseille 
aux frontières de Chine, C. Taillandier, Paris.
2. Ph. Eberhardt (1914), Guide de l’Annam, Augustin Challamel - Éditeur, Librairie Maritime et 
Coloniale, Paris.
3. Indo-Chine française - Exposition de Hanoï, L’Excursion à Hué: la cour, le palais, les 
tombeaux, En dépôt l’Office colonial, Galerie d’Orléans, Paris, 1902.
4. Camille Paris (1889), Voyage d’exploration de Hué en Cochinchine, par la route mandarine, 
Ernest Leroux, Paris.
5. Alfred Raquez (1902), Pages laotiennes, Le Haut-Laos, Le Moyen-Laos, Le Bas-Laos, F.H. 
Schneider Imprimeur - Éditeur, Hanoi.
6. Jules Léon Dutreuil de Rhins (1889), Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de 
voyage, 2e Édition, Librairie Plon, Paris.
7. Louis Salaun (1903), L’Indochine, Imprimerie Nationale, Paris.
8. Gabriel Veyre (1900), La route du Col des Nuages, Paris.
TÓM TẮT
Jules Léon Dutreuil de Rhins (1846-1894) là một sĩ quan hải quân Pháp, lại vừa là một nhà 
thám hiểm và nhà địa lý. Trong những năm 1876-1877, Dutreuil de Rhins sang Việt Nam và đến 
Huế làm thuyền trưởng chỉ huy tàu hơi nước Scorpion của hải quân triều Nguyễn, một trong năm 
chiếc tàu do Pháp trao tặng vua Tự Đức sau Hiệp ước Giáp Tuất (1874). Sau ngày rời khỏi Huế, 
Dutreuil de Rhins đã xuất bản cuốn Nhật ký hành trình về vương quốc An Nam và người An Nam 
(Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage), công bố những ghi chép về vùng đất 
và công việc ông đã làm tại Việt Nam, với rất nhiều chi tiết bổ ích cho việc nghiên cứu, tham khảo 
về địa lý, cảnh quan môi trường, văn hóa, xã hội và lịch sử Việt Nam thời cận đại. 
Bài viết này trích dịch và chú giải đoạn khảo tả con đường bộ từ Đà Nẵng vượt đèo Hải 
Vân ra đến đầm Cầu Hai và con đường thủy từ đầm Cầu Hai theo dòng sông An Cựu đến Huế 
trong tác phẩm nói trên để giới thiệu cùng độc giả.
ABSTRACT
FROM HAI VAN PASS TO AN CỰU RIVER - HUẾ IN 1876
Jules Léon Dutreuil de Rhins (1846-1894) was a French naval officer, an adventurer and a 
geographer. In 1876-1877, Dutreuil de Rhins went to Huế to command the Scorpion steamship, 
one of five ships offered to Emperor Tự Đức by the French after the Treaty of the Dog (1874). After 
leaving Huế, Dutreuil de Rhins published the book “The Kingdom of Annam and the Annamites: 
Journey Diary” (Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage) in which he recorded 
the land and the work he had done in Vietnam with useful details for the study or survey about 
contemporary Vietnam’s geography, environment, culture, society and history.
This article translates and annotates the section in the book describing the road from Đà 
Nẵng passing Hải Vân pass to Cầu Hai Lagoon and the waterway from Cầu Hai Lagoon following 
An Cựu River to Huế.

File đính kèm:

  • pdftu_deo_hai_van_den_song_an_cuu_hue_nam_1876.pdf