Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á: Một số hệ lụy

Biến đổi khí hậu, một trong những hệ

quả nghiêm trọng của quá trình công

nghiệp hóa, đã và đang gây ra những tác

động tiêu cực hết sức nghiêm trọng đe dọa

sự tồn vong của sự sống trên trái đất. Sự

gia tăng nhanh chóng nồng độ các loại khí

nhà kính, đặc biệt là Co2, trong bầu khí

quyển do sử dụng nhiên liệu hóa thạch

trong quá trình công nghiệp hóa của các

nước trong mấy thập kỷ gần đây, được coi

là nguyên nhân chủ yếu của biến đổi khí

hậu hiện nay. Theo Báo cáo đánh giá số 4

(AR4) của Tổ chức liên chính phủ về biến

đổi khí hậu (IPCC), trong thế kỷ XXI con

người sẽ phải đối mặt với những ảnh

hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu,

như: giảm nguồn nước ngọt, sự tuyệt

chủng của một số loài, bão lũ và ngập lụt

do ảnh hưởng của mực nước biển dâng,

khủng hoảng lương thực và sức khỏe. Bốn

khu vực được xác định đặc biệt dễ bị tổn

thương với biến đổi khí hậu là Bắc Cực;

Châu Phi; các quốc gia đảo nhỏ; và các khu

vực đồng bằng châu thổ lớn ở Châu Á, nơi

có nguy cơ cao về nước biển dâng, bão và

lũ sông.

pdf 7 trang yennguyen 1980
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á: Một số hệ lụy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á: Một số hệ lụy

Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á: Một số hệ lụy
 BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở ĐÔNG BẮC Á: MỘT SỐ HỆ LỤY 
TRẦN QUANG MINH* 
Biến đổi khí hậu, một trong những hệ 
quả nghiêm trọng của quá trình công 
nghiệp hóa, đã và đang gây ra những tác 
động tiêu cực hết sức nghiêm trọng đe dọa 
sự tồn vong của sự sống trên trái đất. Sự 
gia tăng nhanh chóng nồng độ các loại khí 
nhà kính, đặc biệt là Co2, trong bầu khí 
quyển do sử dụng nhiên liệu hóa thạch 
trong quá trình công nghiệp hóa của các 
nước trong mấy thập kỷ gần đây, được coi 
là nguyên nhân chủ yếu của biến đổi khí 
hậu hiện nay. Theo Báo cáo đánh giá số 4 
(AR4) của Tổ chức liên chính phủ về biến 
đổi khí hậu (IPCC), trong thế kỷ XXI con 
người sẽ phải đối mặt với những ảnh 
hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, 
như: giảm nguồn nước ngọt, sự tuyệt 
chủng của một số loài, bão lũ và ngập lụt 
do ảnh hưởng của mực nước biển dâng, 
khủng hoảng lương thực và sức khỏe. Bốn 
khu vực được xác định đặc biệt dễ bị tổn 
thương với biến đổi khí hậu là Bắc Cực; 
Châu Phi; các quốc gia đảo nhỏ; và các khu 
vực đồng bằng châu thổ lớn ở Châu Á, nơi 
có nguy cơ cao về nước biển dâng, bão và 
lũ sông. Tại Đông Bắc Á, biến đổi khí hậu 
được dự báo sẽ tiếp tục gây ra những hệ lụy 
nghiêm trọng trong nhiều thập kỷ tới, với 
một số biểu hiện chủ yếu dưới đây:* 
Thứ nhất, gây ra các hiện tượng thời tiết 
cực đoan. Theo dự báo của IPCC, nhiệt độ 
trung bình hàng năm đối với toàn bộ khu 
vực Đông Bắc Á sẽ tăng khoảng 3°C vào 
* Tiến sỹ, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông 
Bắc Á. 
năm 2050 và 5°C vào năm 2080. Tỷ lệ 
nóng lên được dự báo thay đổi theo mùa và 
thời gian trong ngày, với sự ấm lên trong 
mùa đông tăng nhanh hơn trong mùa hè và 
sự ấm lên vào buổi đêm tăng nhanh hơn 
vào ban ngày. Tần suất, thời gian, cường 
độ của các đợt nóng và số lượng những 
ngày nóng vào mùa hè, cũng như lượng 
mưa, tần suất và cường độ của các trận 
mưa cũng được dự báo sẽ tăng lên. Lượng 
mưa trung bình tại Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Đài Loan được dự báo sẽ tăng hơn 10% 
trong thế kỷ XXI, đặc biệt là trong những 
mùa ấm áp. Sự khác biệt giữa các khu vực 
và các mùa về tần suất và cường độ mưa sẽ 
tiếp tục gia tăng. Lượng mưa trong mùa hè 
(từ tháng 6 đến tháng 9) ở Đông Bắc Á 
được dự báo sẽ tăng 17 đến 19%, trong khi 
lượng mưa trong mùa đông được dự báo 
hoặc không thay đổi hoặc giảm nhẹ. 
Đi liền với các hiện tượng thời tiết cực 
đoan là nước biển dâng. Dọc theo bờ biển 
của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, 
Hàn Quốc, mực nước biển đã tăng lên với 
tốc độ nhanh chóng 3,3 mm mỗi năm kể từ 
giữa những năm 1980 và với tốc độ 5,0 
mm mỗi năm từ năm 1993. Tốc độ mực 
nước biển dâng tối đa đã được ghi nhận tại 
Kushiro, Hokkaido, tăng 9,3 mm mỗi năm 
từ 1970 đến năm 2003. Theo các dự báo về 
biến đổi khí hậu, mực nước biển toàn cầu 
sẽ tăng thêm từ 0,18 m đến 0,59 m vào 
năm 2100. Ở Đông Bắc Á, tốc độ mực 
nước biển dâng hàng năm được dự báo sẽ 
tăng lên 5 mm mỗi năm trong thế kỷ này. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 52
Sự gia tăng nhanh của mực nước biển như 
vậy đã và đang đe dọa nghiêm trọng khu 
vực bờ biển của các nước trong khu vực, 
nơi có một bộ phận lớn dân cư sinh sống 
và nhiều hoạt động kinh tế quan trọng, đặc 
biệt tại Nhật Bản. So với các nước khác, 
Nhật Bản có số lượng dân lớn thứ sáu (hơn 
30 triệu người) sống trong phạm vi 10 km 
tính từ bờ biển. Các thành phố ven biển 
của Nhật Bản chiếm khoảng 32% tổng diện 
tích, 46% tổng dân số, sản xuất khoảng 
47% sản lượng công nghiệp của cả nước. 
Nước biển dâng cũng làm trầm trọng thêm 
các cơn bão biển, sóng thần, xói mòn bờ 
biển... Đây chính là những mối đe dọa lớn 
đối với cộng đồng dân cư ven biển và các 
hoạt động kinh tế. Trận sóng thần kinh 
hoàng tàn phá gần như toàn bộ khu vực 
Đông Bắc của Nhật Bản ngày 11/3/2011 là 
một trong những ví dụ điển hình về tai họa 
thảm khốc do thiên nhiên gây ra. 
Tại Hàn Quốc, dấu hiệu rõ nhất của biến 
đổi khí hậu là rét đậm vào mùa đông, mưa 
kéo dài và số lượng những ngày nắng nóng 
gia tăng vào mùa hè. Tuyết dày gần 100 
cm đã xảy ra ở tỉnh Gangwon trong tháng 2 
năm 2010 (110 cm ở Samcheok và 100 cm 
ở Donghae). Tuyết dày nhất trong vòng 80 
năm qua cũng đã xảy ra Ulsan làm tê liệt 
thành phố này và buộc hãng Motors 
Hyundai phải ngừng sản xuất xe hơi (ngày 
4 tháng 2). Mật độ tuyết dày nhất 52 cm 
trong vòng 60 năm qua cũng đã xảy ra ở 
Pohang vào tháng 1 năm 2010. Tuyết dày 
25,8 cm đã xảy ra ở Seoul. Đây là trận mưa 
tuyết dày nhất kể từ năm 1937. Tháng 2 
năm 2010, tại Hàn Quốc đã xảy ra một đợt 
rét lạnh kỷ lục nhất (nhiệt độ thấp nhất 
xuống dưới âm 20 độ C) đã gây thiệt hại 
lớn chưa từng có đối với Thủ đô Seoul 
trong vòng 10 năm và thành phố Busan 
trong vòng 96 năm. Mưa lớn bất thường 
cũng đã xảy ra ở Hàn Quốc trong mùa mưa 
năm 2010. Tại Thủ đô Seoul, mưa đã kéo 
dài trong suốt 24 ngày trong tháng 8/2010, 
dài nhất kể từ khi hệ thống dự báo thời tiết 
hiện đại lần đầu tiên được giới thiệu ở đây 
vào năm 1908. 
Tại Trung Quốc, mùa đông khắc nghiệt 
năm 2010 (từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 
2 năm 2011) đã gây tổn thất lớn chưa từng 
thấy cho các tỉnh phía Đông của vùng Sơn 
Đông trong vòng 60 năm qua (240.000 cư 
dân phải gánh chịu việc thiếu nước và 4 
triệu hecta đất có nhu cầu cấp nước). Hạn 
hán cũng làm xáo trộn cuộc sống của 
người dân và gây thiệt hại cho nhiều ngành 
công nghiệp do tình trạng thiếu nước. 
Theo các chuyên gia thời tiết, thời tiết 
gần đây ở các nước và vùng lãnh thổ Đông 
Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan 
đã chịu ảnh hưởng của sự nóng lên toàn 
cầu. Mưa kéo dài hàng tuần, nhiệt độ mùa 
hè nóng bỏng và tuyết rơi kỷ lục trong mùa 
đông đều liên quan đến hiện tượng này và 
sự ấm lên hơn mức bình thường của Thái 
Bình Dương. Trong những năm gần đây, 
các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã trải 
qua những trận mưa cực lớn. Dường như 
có những thời kỳ trong năm cả một khu 
vực rộng lớn đã bị chìm trong mưa lớn 
trong suốt cả tháng và những thiệt hại liên 
quan được báo cáo gia tăng hàng ngày. 
Thứ hai, đe doạ sức khỏe của con người. 
Sức khỏe con người là một trong những 
lĩnh vực bị tác động nhiều nhất của biến 
đổi khí hậu. Sự thay đổi của khí hậu sẽ kéo 
theo những dịch bệnh đối với con người: 
bệnh sốt rét, sốt xuất huyết tăng cao đột 
biến. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 
Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á 53
mỗi năm có khoảng 150.000 người tử vong 
do các bệnh như sốt rét, tiêu chảy..., đáng 
chú ý một nửa trong số này tập trung ở khu 
vực Châu Á - Thái Bình Dương. Biến đổi 
khí hậu cũng làm gia tăng nguy cơ mắc 
bệnh ở người già, trẻ em. Nhiều dịch bệnh 
nguy hiểm mới đã xuất hiện như SARS, 
H5N1... Trước sự thay đổi của khí hậu, 
việc tìm hiểu về các loại bệnh mới là rất 
cần thiết để có những cách phòng chống. 
Chết vì nóng, vì bệnh dịch, vì ô nhiễm 
không khí - trong tương lai sẽ có thêm 
nhiều nạn nhân của biến đổi khí hậu toàn 
cầu. Đó là kết luận của một nghiên cứu do 
Bộ Môi trường Mỹ thực hiện. Bản báo cáo 
này gồm 149 trang vừa được công bố tại 
Washington là một trong nhiều phân tích 
khoa học mới đây tìm giải đáp cho câu hỏi 
sự ấm nóng toàn cầu sẽ tác động đến sức 
khỏe của người dân như thế nào. Các nhà 
khoa học đã khẳng định rằng những nguy 
hại cho sức khỏe con người sẽ tăng lên 
cùng với quy mô và tiến độ của biến đổi 
khí hậu. Sẽ có thêm nhiều người bị dị 
ứng vì mùa đông ấm áp hơn sẽ càng làm 
cho phấn hoa bay sớm hơn và lâu hơn. Ô 
nhiễm không khí, nguyên nhân chính cho 
những bệnh phổi và đường hô hấp, sẽ 
tăng thêm. 
Biến đổi khí hậu còn tác động đến con 
người bằng nhiều cách khác, từ trực tiếp 
như nắng nóng, giá rét, lũ lụt và bão đến 
gián tiếp như thay đổi chất lượng không 
khí, chất lượng nước, mất cân bằng hệ sinh 
thái và phá vỡ hệ thống kinh tế xã hội. 
Sóng nhiệt và đêm đen nhiệt đới cũng là 
nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh cho 
con người, nhất là các bệnh truyền nhiễm. 
Tại Nhật Bản, theo các mô hình khí 
hậu khu vực được dự báo, cường độ các 
đợt nắng nóng đối với Nhật Bản sẽ gia 
tăng, và nhiệt độ tăng có thể làm cho tình 
trạng già hóa dân số diễn ra nhanh hơn do 
sự gia tăng căng thẳng do nóng bức. Nhiệt 
độ tăng cũng có thể khuyến khích sự lây 
lan của một số bệnh truyền qua vật chủ 
trung gian và qua đường nước. Theo một 
khảo sát của Viện nghiên cứu bệnh truyền 
nhiễm quốc gia Nhật Bản, môi trường sống 
của các loại muỗi ở Nhật Bản đang được 
mở rộng. Chúng có thể mang theo bệnh sốt 
xuất huyết đến tận Hokkaido. Nhiệt độ 
tăng cũng có thể mang đến những điều 
kiện sinh trưởng tốt hơn cho các loại sinh 
vật và ký sinh trùng gây bệnh. Theo một 
nghiên cứu y tế quốc gia tập trung vào 
tác động của biến đổi khí hậu, Nhật 
Bản đã trải qua mức độ cao của các trường 
hợp khẩn cấp liên quan đến sự nóng bức. 
Các bệnh dị ứng gia tăng cũng như các 
bệnh liện quan đến dị ứng phấn hoa cây 
Tuyết tùng của Nhật Bản ngày càng trở 
nên phổ biến. 
Theo một nghiên cứu của Tổ chức Hợp 
tác và Phát triển Kinh tế (OECD), những 
thay đổi khí hậu đã không những làm tăng 
xác xuất của các trường hợp lũ lụt, đặc biệt 
là ngập lụt ở đô thị, mà còn làm tăng tính 
chất dễ bị tổn thương từ lũ lụt do mật độ 
dân số tăng và tập trung tài sản kinh tế ở 
Đông Bắc Á. Kết quả là, xác suất các 
trường hợp lũ lụt phát triển thành thảm 
họa đã tăng lên và các quốc gia trong khu 
vực này sẽ phải đối mặt với chi phí cuộc 
sống gia tăng và sự cần thiết phải gia tăng 
chi phí bảo hiểm từ các thảm họa "tự nhiên". 
Theo ước tính của ABI, thiệt hại liên 
quan đến gió được bảo hiểm từ những 
cơn bão khắc nghiệt ở Nhật Bản có thể 
tăng thua lỗ hàng ngày hiện tại từ 10-14 tỷ 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 54
USD lên 15-20 tỷ USD, tăng 67-70%, nhiều 
hơn gấp hai lần các chi phí của mùa bão năm 
2004, chi phí đắt đỏ nhất trong vòng 100 năm 
qua. Bão là một trong những thảm họa 
thiên nhiên chủ yếu ảnh hưởng đến thị 
trường bảo hiểm ở Nhật Bản, thị trường 
lớn thứ ba trên thế giới. Tính trung 
bình, tổng thiệt hại trong ngành công 
nghiệp do những cơn bão được bảo hiểm 
gây ra ở Nhật Bản lên tới 4 tỷ USD. Tại 
Hàn Quốc, số ngày sóng nhiệt (hơn 330C) 
trong những năm gần đây là trên 10 
ngày/năm, tăng hơn 2 ngày so với mức 
trung bình trước đó. Nhu cầu điện lớn nhất 
trong mùa hè năm 2010 đã tăng 11,8% lên 
70,7 triệu kw so với mức trung bình năm. 
Giá rau, thực phẩm đã tăng mạnh do sóng 
nhiệt, nóng cháy và mưa lớn trong mùa 
thu xảy ra ở các khu vực canh tác nông 
nghiệp vùng cao ở Daegwallyeong trong 
năm 2010. Giá rau Baechu (hay bắp cải 
Trung Quốc) tăng tới hơn 15.000 won 
mỗi cái. 
Thứ ba, tác động tiêu cực đến sản xuất 
nông nghiệp. Theo Chủ tịch Viện Chính 
sách Trái Đất, ông Lester Brown, nước dành 
cho việc sản xuất lương thực ở Trung Quốc 
và Ấn Độ có nguy cơ cạn kiệt khi hiện tượng 
ấm lên toàn cầu khiến cho các sông băng tan 
chảy. Đây là mối đe dọa khủng khiếp nhất 
đối với nông nghiệp toàn cầu. 
Sông Hằng ở Ấn Độ, sông Hoàng Hà và 
sông Dương Tử ở Trung Quốc được cung 
cấp nước bởi những cơn mưa trong mùa 
mưa, nhưng trong mùa khô nguồn cung 
cấp nước chủ yếu cho chúng là băng ở dãy 
Himalaya. Chỉ riêng sông băng Gangotri ở 
Himalaya đã cung cấp tới 70% lượng nước 
cho sông Hằng trong mùa khô. 
Mùa khô là giai đoạn mà nước trở nên 
cần thiết nhất đối với việc tưới tiêu các cánh 
đồng lúa gạo và lúa mì - hai loại ngũ cốc 
nuôi sống hàng tỷ người trên thế giới. Theo 
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu, 
nhiều sông băng ở dãy Himalaya có thể 
biến mất vào năm 2035. Các nhà khoa học 
Trung Quốc cũng ước tính khoảng hai phần 
ba sông băng ở vùng cao nguyên Tây Tạng 
- Thanh Hải có thể biến mất vào năm 2060. 
Sự suy giảm của lượng nước chảy ra từ 
sông băng có thể khiến dòng chảy của sông 
Hằng, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử 
thay đổi theo mùa. Trung Quốc và Ấn Độ 
sản xuất hơn một nửa sản lượng lúa mì và 
gạo của thế giới. Trong khi đó, lưu vực của 
ba con sông lớn cung cấp phần lớn lượng 
lương thực này. Hàng năm, sông Dương 
Tử tưới nước cho khoảng một nửa diện 
tích trồng lúa tại Trung Quốc. Trong khi 
đó, những cánh đồng còn lại của Trung 
Quốc và Ấn Độ được tưới bởi nguồn nước 
lấy từ các tầng nước ngầm nước dưới lòng 
đất. Do tác động của hoạt động bơm hút, 
quá trình mất nước ở đây diễn ra nhanh hơn 
quá trình thay thế. Lượng nước dưới lòng 
đất ở hai khu vực trồng ngũ cốc chính - cao 
nguyên phía bắc của Trung Quốc và khu 
vực Punjab của Ấn Độ, đang giảm nhanh. 
Nếu mất cả hai nguồn cung cấp nước 
chủ yếu cho các kênh thủy lợi, hai quốc gia 
này có thể đối mặt với tình trạng thiếu 
lương thực, nhất là khi nhu cầu lương thực 
ngày càng tăng theo tốc độ phát triển của dân 
số. Tại Ấn Độ, nơi mà chỉ hơn 40% trẻ em 
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, nạn đói sẽ gia 
tăng và tỷ lệ sống sót của trẻ em sẽ giảm. 
Hiểm họa lương thực từ hai nước sẽ 
nhanh chóng tác động tới thế giới. Lương 
thực được mua bán trên phạm vi toàn cầu 
Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á 55
và giá lương thực đang leo thang chóng 
mặt do nhu cầu đối với chúng tăng không 
ngừng. Cách duy nhất để tránh hiểm họa là 
loại bỏ những chính sách năng lượng kém 
hiệu quả và cắt giảm 80% lượng khí thải 
carbon vào năm 2020. Cần phải chấm dứt 
việc xây dựng những nhà máy nhiệt điện 
sử dụng than đá. Nhưng có một nghịch lý 
là Trung Quốc và Ấn Độ lại là hai nước 
đang xây dựng nhiều nhà máy nhiệt điện 
dùng than đá nhất thế giới. 
Ngoài Ấn Độ và Trung Quốc, Pakistan 
cũng là nước chịu ảnh hưởng của tình trạng 
băng tan. Theo ông Amir Mohammad, cựu 
bộ trưởng Nông nghiệp Pakistan, 60% 
lương thực của Pakistan phụ thuộc vào 
sông Indus. Các sông băng ở Himalaya 
cũng cung cấp nước cho dòng sông này. 
Tình trạng tan chảy của các sông băng đã 
bắt đầu tác động tới dòng chảy của nó. 
Tại Nhật Bản, Hàn Quốc, những thay 
đổi trong việc phân bố lượng mưa, 
lượng mưa và nhiệt độ gia tăng được dự 
báo sẽ có tác động đáng kể đến chất lượng 
nước và nguồn nước. Nhiệt độ ấm lên và 
sự giảm nguồn nước sẵn có cũng sẽ ảnh 
hưởng xấu đến một số hồ nước ngọt, đặc 
biệt chất lượng nước có thể sẽ xấu đi và 
việc gia tăng nồng độ các chất hóa học 
trong nước tăng đã ảnh hưởng tiêu cực đến 
sản xuất và thu hoạch cây trồng, ảnh hưởng 
đáng kể đến ngành nông nghiệp của các 
quốc gia này. 
Trong thực tế, nhiệt độ tăng cao đã ảnh 
hưởng tiêu cực đến một số loại cây ăn 
quả và các sự cố trái cây bất thường đã 
xuất hiện như quả Nho không chuyển màu 
đỏ, cùi quả đào chuyển màu nâu... Theo dự 
báo của IPCC, năng suất lúa sẽ giảm đến 
40% trong các khu vực đồng bằng được 
tưới tiêu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài 
Loan dưới bầu khí quyển có nồng độ CO2 
tăng gấp 2 lần mức bình thường. 
Thứ tư, tác động tiêu cực đến hệ sinh 
thái. Bức ảnh chú gấu Bắc cực cố bám lấy 
tảng băng chìm đã trở nên lỗi thời với hiện 
tượng trái đất ấm lên. Hiện nay đã xuất 
hiện rất nhiều dấu hiệu khác cho thấy hệ 
sinh thái của trái đất đang bị suy thoái bởi 
sự can thiệp của con người. Theo một báo 
cáo được công bố tại Hội nghị quốc tế về 
đa dạng sinh học lần thứ 9 do Liên Hợp 
Quốc chủ trì tại Đức, sự tuyệt chủng của 
các loài động thực vật hàng năm đã làm 
mất đi 6% GDP của thế giới, tương đương 
với khoảng 2.000 tỉ Euro. Theo đó, nhà 
nghiên cứu Pavan Sukhdev, một quan chức 
cao cấp của ngân hàng Deutsche Bank, đã 
khẳng định sự mất mát của đa dạng sinh 
học đang chiếm đến 50% tài nguyên về 
kinh tế của các nước nghèo. Trong đó nạn 
phá rừng đã dẫn đến sự tuyệt diệt của nhiều 
loài động thực vật và là nguyên nhân làm 
gia tăng của 20% lượng khí CO2 thải vào 
bầu khí quyển. 
Các tổ chức quốc tế cũng khẳng định, 
tính đến ngày 12/9/2007 đã có 1/4 loài 
động vật có vú, 1/8 loài chim, 1/3 loài 
lưỡng cư và 70% loài thực vật đang bị đe 
dọa xóa sổ. Tại Nhật Bản, mỗi năm người 
ta lại nhận thấy sự ra hoa và nở hoa sớm 
hơn của cây Anh đào. Đây là một trong 
những ví dụ tiêu biểu cho một xu hướng 
lớn hơn đang tác động tiêu cực đối với con 
người và thiên nhiên ở Nhật Bản. Từ 
những loài quý hiếm cho đến cả hệ sinh 
thái và từ các hoạt động riêng lẻ cho đến 
tổng thể nền kinh tế của đất nước hoa Anh 
đào này đều đang chịu sự tác động của 
biến đổi khí hậu. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 56
Biến đổi khí hậu đã có tác động lớn 
nhất đến các hệ sinh thái biển và ven biển, 
các khu vực miền núi và rừng. Trong thực 
tế, hơn 20% động vật có vú, động vật 
lưỡng cư, các loài cá nước lợ và cá nước 
ngọt, các thực vật có mạch (nhựa) đang 
sinh sống ở các nước và vùng lãnh thổ 
Đông Bắc Á phải đối mặt với nguy cơ 
tuyệt chủng, cùng với khoảng 20% các loài 
bò sát và hơn 10% các loài chim. Biến đổi 
khí hậu sẽ ngày càng làm trầm trọng thêm 
vấn đề này. 
Các loài di cư như những con Thiên nga 
và Đại bàng biển cũng bị ảnh hưởng bởi 
biến đổi khí hậu khi nhiệt độ ấm lên và các 
mô hình lượng mưa thay đổi. Một phần ba 
trong tổng số các loài chim này của thế 
giới di cư tới bờ biển phía Đông Bắc của 
Hokkaido. Hiện nay, Hokkaido là một trong 
những địa điểm trú đông cho các loài chim 
này. Loài ngỗng trắng gần như đang bị đe 
dọa xóa sổ tại đây. Các loài khác cũng có 
thể phải cạnh tranh cho các nhu cầu 
sống và đòi hỏi về thức ăn tương tự. Biến 
đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến sự sinh 
trưởng và vòng đời của một số loài động 
thực vật. Nhiều loài sẽ bị buộc phải di 
chuyển về phía các cực hoặc những nơi có 
độ cao lớn hơn (khi có thể) trong việc 
ứng phó với biến đổi khí hậu. Sự di cư của 
các loài này chắc chắn sẽ làm thay đổi 
thành phần của hệ sinh thái hiện tại và 
các khu vực hoang dã. 
Thiệt hại của các loài do biến đổi khí 
hậu gây ra và nguy cơ tuyệt chủng cũng đe 
dọa các loại cây trồng nông nghiệp (ví dụ 
như các loài thụ phấn), y dược và bản sắc 
văn hóa. Nhiệt độ tăng và lượng mưa biến 
động có ảnh hưởng đến sự phát triển của 
các loài thực vật riêng lẻ, chẳng hạn như 
nở hoa sớm hơn trong mùa xuân so 
với thập kỷ vừa qua. Số ngày đổ màu lá 
vàng mùa thu và số ngày lá rơi cũng đang 
thay đổi. 
Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến 
sản lượng cá nước ngọt, cá nước mặn tại 
các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông 
Bắc Á. Một trong những nghiên cứu đầu 
tiên đã cho thấy về sự thay đổi lớn trong 
sự phân bố và phong phú của các loài cá 
là ở phía Bắc biển Bering. Những kết quả 
nghiên cứu này cũng được áp dụng cho 
các vùng biển khác của Nhật Bản, Hàn 
Quốc và Đài Loan. 
Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình trao 
đổi chất, tăng trưởng và phân bố của các 
loài cá và có thể thay đổi các hiệu ứng 
mạng lưới thức ăn của cán cân động vật ăn 
thịt - con mồi, thay đổi mức độ các chất 
dinh dưỡng trong nước. Do băng trôi tạo ra 
một môi trường đại dương giàu dinh dưỡng 
thúc đẩy tảo băng tăng trưởng và do đó 
hình thành nên các liên kết chính trong 
trong chuối thức ăn đại dương. Sự thay đổi 
trong thời gian trôi của các dải băng sẽ ảnh 
hưởng đến sản lượng cá và tiếp đó là 
ngành công nghiệp đánh bắt cá của Nhật 
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trong khi 
vùng biển ngoài khơi phía Đông Nhật 
Bản, hiện có một số loài thủy sản được 
xem là nhiều nhất thế giới, song các nghiên 
cứu đã cho thấy các quốc gia trong khu 
vực có thể sẽ phải đối mặt với sự suy giảm 
đáng kể về một loại cá đánh bắt trong thế 
kỷ XXI. 
Nghiên cứu phân tích về sự phân bố của 
các loài tảo trên các bãi triều ở vịnh 
Hampton cho thấy tỷ lệ loài tảo đỏ đang 
gia tăng. Sau khi nhiệt độ bề mặt nước biển 
tăng lên, hệ thực vật tảo ở vịnh Hampyong 
Biến đổi khí hậu ở Đông Bắc Á 57
quay về dạng cận nhiệt đới. Do nhiệt độ 
tăng lên, cây sồi có xu hướng mở rộng tán 
và phát triển lá sớm hơn so với bình 
thường. Động vật lưỡng cư và bò sát cũng 
khá nhạy cảm với những thay đổi về lượng 
mưa và biến đổi khí hậu. 
Biến đổi khí hậu cũng làm thay đổi địa 
hình của nhiều vùng đồng bằng ven biển 
của Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan với 
sự gia tăng hoặc giảm mực nước thủy triều, 
bùn lầy và nồng độ muối. Theo dự báo, 
bùn lầy ở khu vực ngập nước sẽ biến mất 
trong khi muối ở các vùng ngập nước ngày 
càng tăng lên nhanh chóng. Cửa sông Hàn: 
bùn lầy ở khu vực ngập nước được dự báo 
sẽ dần dần biến mất bắt đầu từ năm 2075 
trong khi muối ở các vùng ngập nước sẽ 
phát triển dọc theo cửa sông Hàn. Vịnh 
Hampyung: bùn lầy ở khu vực ngập nước 
được dự báo sẽ tăng lên vào năm 2050 và 
sau đó bị nước nhấn chìm. Vịnh Suncheon: 
khu vực đất ngập nước được dự báo sẽ bị 
nhấn chìm bắt đầu từ năm 2050, vùng đất 
nội địa sẽ hẹp lại và muối ở các vùng ngập 
nước sẽ tăng lên. Cửa sông Nakdong: bùn 
lầy ở khu vực ngập nước sẽ gia tăng bắt 
đầu từ năm 2050, các vùng đất ngập nước 
được dự báo sẽ mở rộng làm nhấn chìm 
nhiều vùng đồng bằng. 
___________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. ABI (Association of British Insurers) 2005. 
Financial Risks of Climate Change: Summary 
Report. Association of British Insurers, London. 
ncial_Risks_of_Climate_Change.pdf 
2. China’s National Climate Change Programme 
ile/File188.pdf 
3. Climate Change and Its Impacts in Japan 
4. Climate change hits Korea 
11/04/117_72958.html 
5. Climate Change in China’s 12 th Five Year Plan 
rnational/global-action-facts-and-
fiction/~/media/government/international/global-
action-facts-and-fiction/GOV-China12YearPlan-
20110314-PDF.pdf 
6. Climate Change in Korea. 
change-in-korea.html 
7. Climate impacts threatening Japan today and 
tomorrow 
vironment/WWF_NipponChanges_lores.pdf 
8. IIED (International Institute for Environment 
and Development) (2007, 28 March). Climate 
Change: Study Maps Those At Greatest Risk From 
Cyclones and Rising Seas. Science Daily. 
328093605.htm 
9. IPCC, Climate Change 2007: The Physical 
Science Basis. Contribution of Working Group I to 
the Fourth Assessment Report of the 
Intergovernmental Panel on Climate Change 
[Solomon, S., D. Qin, M. Manning, Z. Chen, M. 
Marquis, K.B. Averyt, M.Tignor and H.L. Miller 
(eds.)]. Cambridge University Press, Cambridge, 
United Kingdom and New 
10. JMA, 2007b. Long-term trends of phonological 
events in Japan: Summary of “Report on Climate 
Change 2005”. 
ventsJapan.pdf. 

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_khi_hau_o_dong_bac_a_mot_so_he_luy.pdf