Dấu tích danh nhân Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế

Nguyễn Văn Thành (1758-1817), quê gốc ở giáp Tây, xã Bác Vọng, tổng Phú

Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong (nay là làng Bác Vọng Tây, xã Quảng Phú,

huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế), tiên tổ ông nhiều lần thay đổi nơi sinh

sống.(1) Cha ông là Nguyễn Văn Hiền (? - 1775) khảng khái đảm lược, đã đem hương

dũng phò tá chúa Nguyễn Phúc Thuần, được trao chức Cai đội. Trong một trận đánh

với quân Tây Sơn tại hòn Tam Sơn, Nguyễn Văn Hiền đã dốc hết sức đánh địch, tử

trận, được tặng Cai cơ. Đến thời vua Gia Long, ông được truy tặng Đặc tiến Tráng

võ phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Chưởng vệ sự Chưởng doanh Hiền Đức

hầu,(2) liệt thờ ở đền Hiếu Trung và miếu Trung Tiết công thần. Mẹ ông là bà Trần Thị

Đàn (1740-1809), người ở thôn Bình Long, tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ

Bình Tân, trấn Phiên An (Gia Định).(3)

pdf 12 trang yennguyen 940
Bạn đang xem tài liệu "Dấu tích danh nhân Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu tích danh nhân Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế

Dấu tích danh nhân Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế
95Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
DẤU TÍCH DANH NHÂN NGUYỄN VĂN THÀNH
TRÊN ĐẤT THỪA THIÊN HUẾ
 Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được*
1. Vài nét về cuộc đời đầy vinh quang nhưng oan nghiệt của Nguyễn Văn Thành
Nguyễn Văn Thành (1758-1817), quê gốc ở giáp Tây, xã Bác Vọng, tổng Phú 
Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong (nay là làng Bác Vọng Tây, xã Quảng Phú, 
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế), tiên tổ ông nhiều lần thay đổi nơi sinh 
sống.(1) Cha ông là Nguyễn Văn Hiền (? - 1775) khảng khái đảm lược, đã đem hương 
dũng phò tá chúa Nguyễn Phúc Thuần, được trao chức Cai đội. Trong một trận đánh 
với quân Tây Sơn tại hòn Tam Sơn, Nguyễn Văn Hiền đã dốc hết sức đánh địch, tử 
trận, được tặng Cai cơ. Đến thời vua Gia Long, ông được truy tặng Đặc tiến Tráng 
võ phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Chưởng vệ sự Chưởng doanh Hiền Đức 
hầu,(2) liệt thờ ở đền Hiếu Trung và miếu Trung Tiết công thần. Mẹ ông là bà Trần Thị 
Đàn (1740-1809), người ở thôn Bình Long, tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ 
Bình Tân, trấn Phiên An (Gia Định).(3)
Nguyễn Văn Thành có trang mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ 
nghệ.(4) Mới 15 tuổi (1773), ông đã theo cha đánh quân Tây Sơn. Khi cha mất, ông 
tìm đến Nguyễn Ánh năm 1777, coi Nguyễn Ánh như một minh chúa và dốc lòng thờ 
phụng, lập được nhiều chiến công. Năm 1801, ông lãnh ấn Khâm sai Chưởng Tiền 
quân,(5) Bình Tây Đại Nguyên soái, tước quận công. Ông là một trong những vị tướng 
trung thành hầu cận, giúp Nguyễn vương khôi phục quyền lực họ Nguyễn, hoàn thành 
công cuộc thống nhất đất nước trên một lãnh thổ rộng lớn từ ải Nam Quan đến mũi 
Cà Mau.
Sau khi lấy được Bắc thành, tháng 9 năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long giao 
cho Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng trấn(6) với lời dụ rằng: “việc Bắc thành đều 
giao cho ngươi cả”.(7) Trên cương vị mới, với quyền lực “tiền trảm hậu tấu”, ông đã 
có nhiều đóng góp cho tiến trình lịch sử dân tộc. Việc đầu tiên, ông cho chiêu tập dân 
xiêu tán ở Bắc thành về quê cũ làm ăn sinh sống, ổn định sản xuất. Ông có chính sách 
chiêu dụ hào kiệt, đãi hậu lễ đối với sĩ phu Bắc Hà. Nhờ đó đã thu hút được nhiều nhân 
tài ra giúp sức xây dựng đất nước, tiêu biểu có: Nguyễn Huy Lượng (1759-1808) làm 
Tri phủ Xuân Trường (Nam Định), Vũ Trinh(8) (1759-1828) nhận chức Thị trung Học 
sĩ, Phạm Quý Thích (1760-1825) giữ chức Đốc học Bắc thành, Ngô Thì Vị(9) (1774-
1821) làm Thiêm sự Bộ Lại Ông còn ra sức chấn hưng việc học; chấn chỉnh bộ máy 
quản lý và phong tục làng xã Bắc thành; cho đắp đê và trị thủy ở vùng đồng bằng Bắc 
Bộ; bảo vệ vùng biên giới phía bắc của Tổ quốc; xây dựng các công trình nổi tiếng 
như Kỳ Đài, Khuê Văn Các (1803-1805) ở kinh thành Thăng Long.
* Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
ĐẤT NƯỚC - NHÂN VẬT
96 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Năm 1810, Nguyễn Văn Thành về Huế chịu tang mẹ, rồi lưu lại làm quan ở kinh 
đô. Năm sau, ông được sung làm Tổng tài biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ(10) và các bộ 
sử. Cùng năm đó, ông được giao làm Khâm sai Chưởng Trung quân. Ông dâng lên vua 
Gia Long sách Võ bị chí và sách Tứ di loại chí. Như vậy, Nguyễn Văn Thành chính là 
vị Tổng tài đầu tiên của cơ quan chép sử triều Nguyễn.(11)
Nguyễn Văn Thành là một người có tài năng, cho dù ở trên cương vị nào, nhiệm 
vụ nào ông cũng đều hoàn thành xuất sắc. Tuy vậy, cuộc đời ông lại rơi vào bi kịch. 
Cuối năm Ất Hợi (1815) xảy ra vụ án văn chương do con ông là Cử nhân, Phò mã 
Nguyễn Văn Thuyên gây ra khiến ông bị liên lụy. Nguyễn Văn Thuyên thích làm thơ, 
lấy thơ giao lưu bạn bè, nghe nói ở Thanh Hóa có Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức 
Nhuận có tiếng hay chữ nên làm thơ kết giao bằng hữu. Trong thơ Thuyên làm có hai 
câu bị cho là có ý phản nghịch: “Thử hồi nhược đắc sơn trung tể, Tá ngã kinh luân 
chuyển hóa cơ”. Nghĩa là hồi này nếu được chúa trong núi, giúp ta xếp đặt chuyển cơ 
tạo hóa.(12) Từ bài thơ đó, Nguyễn Văn Thành bị nghi kỵ, rơi vào vòng luẩn quẩn bởi 
nhà vua “bạc đức” và triều thần chỉ một mực muốn hạch tội ông. Cuối cùng ông chọn 
cái chết để trở thành “tôi trung”. Ngày 11 tháng 5 năm Đinh Sửu (1817), Nguyễn Văn 
Thành uống thuốc độc tự tử, lúc đó ông 60 tuổi.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt) nổi 
dậy chiếm giữ thành Phiên An. Con Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Hàm theo Lê 
Văn Khôi, làm Quản vệ năm khuông. Do đó, vua Minh Mạng “sai bắt cả thân thuộc lũ 
con [Nguyễn Văn] Thành là Thần, Nhâm, Chuân, Huyền, Hân đều phải tội bị giết”.(13)
Hơn 30 năm sau cái chết oan khuất của Nguyễn Văn Thành, năm Tự Đức thứ 
nhất (1848), Đông Các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn “dâng phong sự xin truy xét công 
trạng của [Nguyễn Văn] Thành, vua liền cho cháu [Nguyễn Văn] Thành là Loại làm 
chủ quân Cai đội. Lại chiếu rửa tội trước cho [Nguyễn Văn] Thành để khuyến khích 
người có công”.(14) Mặc dù đã được rửa tội nhưng từ vụ án văn chương đến vụ án tham 
gia nổi loạn của con Nguyễn Văn Thành đã đẩy dòng họ Nguyễn Văn Thành rơi vào 
thất tán. Vì vậy mà những dấu tích của Nguyễn Văn Thành còn lại trên đất Thừa Thiên 
Huế không nhiều và ít người biết đến. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn làm 
rõ những dấu tích còn lại của ông trên chính mảnh đất quê hương như là một sự tri ân 
đối với một danh nhân, một người có công với dân với nước.
2. Những dấu tích liên quan đến Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế
2.1. Ở làng Dã Lê Thượng
Lúc sinh tiền, Nguyễn Văn Thành là một người nặng lòng với dân. Điều này 
không chỉ thể hiện qua tư tưởng “nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu” mà còn 
qua những việc làm cụ thể và bình dị của ông. Ở làng Dã Lê Thượng hiện nay vẫn 
còn câu chuyện truyền tụng về tấm lòng thương dân của ông. Các bậc cao niên trong 
làng kể lại rằng: “Khi Dã Lê tách xã thành Dã Lê Chánh và Dã Lê Thượng, làng Dã 
Lê Chánh chịu tách đinh chứ không chịu tách điền. Biết chuyện như vậy, Nguyễn Văn 
Thành mới chỉ cho dân làng Dã Lê Thượng biết sắp tới vua Gia Long sẽ đi ngang 
qua, dân làng hãy ra quỳ xin, ông sẽ tâu giúp. Dân làng nghe theo. Cuối cùng, vua 
cũng chấp nhận lời thỉnh cầu tách điền của dân làng Dã Lê Thượng. Đặc biệt, trong 
việc chia ruộng đất cho dân làng Dã Lê, Nguyễn Văn Thành có phần ưu ái làng Dã 
97Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Lê Thượng hơn, chia cho làng Dã Lê Thượng ruộng cạn dễ canh tác, còn phần ruộng 
sâu chia cho làng Dã Lê Chánh. Do đó, dân làng Dã Lê Thượng mang ơn của ông”.(15)
Chính công ơn đó mà sau khi Nguyễn Văn Thành chết, người dân làng Dã Lê 
Thượng đã tâu xin được mang xác ông về chôn trong làng, tại đồi xứ Khê Lương (hiện 
nay là tổ 12, phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy) để báo ân. Theo hậu duệ của 
Nguyễn Văn Thành thì trên ngọn đồi này còn có mộ của ông Nguyễn Văn Thuyên và 
cháu là Nguyễn Văn Chơn (tức Loại). Sau năm 1945, khu vực này trở thành khu đồn 
trú quân sự của Pháp và sau năm 1954 là của quân lính Việt Nam Cộng Hòa nên các 
phần mộ của hai ông này đã bị san phẳng.(16)
Năm 2003, khu vực mộ của Nguyễn Văn Thành phải giải tỏa để làm trường dạy 
lái xe ô tô của Trường Nghiệp vụ Giao thông vận tải Thừa Thiên Huế. Do đó, làng Dã 
Lê Thượng cùng với hậu duệ của Nguyễn Văn Thành đã tiến hành cải táng tại xứ Cây 
Bòng(17) vào ngày 25 tháng 10 năm Quý Mùi (18/11/2003). Đến năm 2005 thì con cháu 
đóng góp tiền để xây mộ và Hội đồng làng Dã Lê Thượng đứng ra lo liệu việc xây dựng.
Miếu khai khẩn làng Dã Lê Thượng. Án tả thờ Nguyễn V n Thành trong ình làng
Dã Lê Thượng.
ă đ
L ng mộ Nguyễn V n Thành.ă ă Bia hậu ở mộ Nguyễn V n Thành.ă
98 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Hiện nay, tại vị trí mộ Nguyễn Văn Thành vẫn còn hai tấm bia được khắc vào 
thời điểm năm 1817. Hai tấm bia được làm bằng đá Thanh, kiểu nhún vai, không trang 
trí, có kích thước tương đương nhau, cao 1,2m, rộng 0,4m.
Bia tiền, nguyên văn chữ Hán: 越故欽差掌中軍平西大將軍誠郡公之墓 - Việt 
cố Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân Thành quận công chi mộ.
Bia hậu, nguyên văn: 
越南故欽差掌中軍平西大將軍郡公姓阮諱榮字誠先考贈明義功臣特進輔國上
將軍錦衣衛掌術事掌营諱賢謚忠勇阮公先妣依夫正室陳氏諱檀謚莊懿夫人公先世
原居順化處肇豊府廣田縣富屋總博望社西甲後從居嘉定城潘安鎮新平府新隆縣新
豊總平隆村以戊寅年十一月十三日生仕本朝扈從望閣至復嘉定受步道先鋒兼管烏
艚唐兵次陞掌前軍郡公調撥諸道步兵次受北城總鎮後改遷是秩于丁丑年仲夏月十
一日申時卒塟于富春京野梨上社山峒
公原配故鄭氏𦒹生女媛继室武氏和生男荧(18)女青側室武氏利生男諝語鄭氏月
生女論阮氏花生男謐訓故丁氏春生男諄故武氏富生男原諴女嬌妾張氏清生男訢乃
阮氏仁生男任故鄭氏安生男党阮氏勤生男惠阮氏從生女婉阮氏遠生男宁該男諝荧
謐語訓原諄諴訢党惠任乃宁十四女媛論青嬌婉五女
歲在丁丑 年九月二十六日
嫡子荧謹誌
Phiên âm: 
Việt Nam cố Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân quận công, 
tính Nguyễn, huý Vinh, tự Thành. Tiên khảo tặng Minh Nghĩa công thần, Đặc tiến phụ 
quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Chưởng thuật sự Chưởng doanh, húy Hiền thụy 
Trung Dũng Nguyễn công. Tiên tỷ y phu chánh thất Trần thị, húy Đàn thụy Trang Ý 
phu nhân. Công tiên thế nguyên cư Thuận Hoá xứ, Triệu Phong phủ, Quảng Điền 
huyện, Phú Ốc tổng, Bác Vọng xã, Tây giáp. Hậu tòng cư Gia Định thành, Phiên An 
trấn, Tân Bình phủ, Tân Long huyện, Tân Phong tổng, Bình Long thôn. Dĩ Mậu Dần 
niên, thập nhất nguyệt, thập tam nhật sinh. Sĩ bổn triều hỗ tòng Vọng Các, chí phục 
Gia Định, thụ bộ đạo tiên phong kiêm quản Ô Tào Đường binh, thứ thăng Chưởng 
Tiền quân quận công, điều bát chư đạo bộ binh, thứ thụ Bắc thành Tổng trấn, hậu cải 
thiên thị trật. Vu Đinh Sửu niên, trọng hạ nguyệt, thập nhất nhật, Thân thời tốt, táng 
vu Phú Xuân kinh, Dã Lê Thượng xã sơn đồng.
Công nguyên phối cố Trịnh Thị Sáu, sinh nữ Viên; kế thất Võ Thị Hòa, sinh 
nam Huỳnh, nữ Thanh; trắc thất Võ Thị Lợi, sinh nam Tư, Ngữ; Trịnh Thị Nguyệt, 
sinh nữ Luận; Nguyễn Thị Hoa, sinh nam Mật, Huấn. Cố Đinh Thị Xuân, sinh nam 
Truân. Cố Võ Thị Phú, sinh nam Nguyên, Hàm, nữ Kiều. Thiếp Trương Thị Thanh, 
sinh nam Hân, Nãi; Nguyễn Thị Nhơn sinh nam Nhậm. Cố Trịnh Thị An sinh nam 
Đảng; Nguyễn Thị Cần, sinh nam Huệ; Nguyễn Thị Tòng, sinh nữ Uyển; Nguyễn Thị 
Viễn, sinh nam Trữ. Cai nam Tư, Huỳnh, Mật, Ngữ, Huấn, Nguyên, Truân, Hàm, Hân, 
Đảng, Huệ, Nhậm, Nãi, Trữ thập tứ. Nữ Viên, Luận, Thanh, Kiều, Uyển ngũ nữ.
 Tuế tại Đinh Sửu niên, cửu nguyệt, nhị thập lục nhật.
 Đích tử Huỳnh cẩn chí.
99Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Dịch nghĩa:
Việt Nam cố Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân quận 
công, họ Nguyễn, tên húy Vinh, tên tự Thành, thân phụ là Nguyễn công được tặng 
Minh Nghĩa công thần Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Chưởng thuật 
sự Chưởng doanh, tên húy là Hiền, thụy là Trung Dũng. Thân mẫu là y phu chánh thất 
Trần thị, tên húy là Đàn, thụy là Trang Ý phu nhân. Đời trước ngài vốn định cư ở giáp 
Tây, xã Bác Vọng, tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. 
Về sau cư trú tại thôn Bình Long, tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, 
trấn Phiên An, thành Gia Định. Ngài sinh ngày13 tháng 11 năm Mậu Dần. Làm quan 
bổn triều, theo hầu sang Vọng Các, đến khi thu phục Gia Định, được giữ chức bộ đạo 
tiên phong, kiêm quản Ô Tào Đường binh(19), rồi thăng Chưởng Tiền quân quận công, 
điều bát chư đạo bộ binh, sau giữ chức Tổng trấn Bắc thành, rồi đổi sang trật này. Ngài 
mất vào giờ Thân ngày 11 tháng Năm năm Đinh Sửu, táng tại gò đồi xã Dã Lê Thượng 
ở kinh đô Phú Xuân.
Bà chánh thất của ngài là cố Trịnh Thị Sáu, sinh nữ là Viên. Bà kế thất là Võ Thị 
Hòa, sinh nam là Huỳnh, sinh nữ là Thanh. Bà trắc thất Võ Thị Lợi sinh nam là Tư, 
Ngữ; bà (trắc thất) Trịnh Thị Nguyệt sinh nữ là Luận; bà (trắc thất) Nguyễn Thị Hoa 
sinh nam là Mật, Huấn; cố Đinh Thị Xuân sinh nam là Truân; cố Võ Thị Phú sinh nam 
Nguyên, Hàm, nữ Kiều. Thiếp Trương Thị Thanh, sinh nam Hân, Nãi; (thiếp) Nguyễn 
Thị Nhơn sinh nam Nhậm; cố Trịnh Thị An sinh nam Đảng; Nguyễn Thị Cần sinh nam 
Huệ; Nguyễn Thị Tòng sinh nữ Uyển; Nguyễn Thị Viễn, sinh nam Trữ. Nam gồm 14 
người: Tư, Huỳnh, Mật, Ngữ, Huấn, Nguyên, Truân, Hàm, Hân, Đảng, Huệ, Nhậm, 
Nãi, Trữ. Nữ 5 người: Viên, Luận, Thanh, Kiều, Uyển.
 Năm Đinh Sửu (1817) ngày 26 tháng 9.
 Con đích là Huỳnh kính ghi.
Cùng với việc nhận thi hài Nguyễn Văn Thành về chôn, dân làng Dã Lê Thượng 
lúc bấy giờ rước ông vào thờ ở miếu Khai khẩn, nằm cạnh đình làng (cách khoảng 
100m). Nguyên miếu thờ 13 vị Khai khẩn của làng thuộc các họ Nguyễn Đình (4 vị 
họ Nguyễn Đình), Nguyễn Viết, Nguyễn Duy, Nguyễn Văn (4 vị họ Nguyễn Văn), 
Nguyễn Thanh, Nguyễn Tất, Nguyễn Công. Đến năm 1995, khi trùng tu xong đình 
làng, làng Dã Lê Thượng đã rước ông từ miếu Khai khẩn vào thờ ở gian tả trong đình. 
Giữa án tả thờ ông có ghi chữ: 中軍視事 - Trung quân thị sự.
Với việc đưa Nguyễn Văn Thành vào thờ tại miếu Khai khẩn, sau đó là đình làng 
đã cho thấy sự thừa nhận và biết ơn đối với công lao của ông, dân làng Dã Lê Thượng 
đã xem Nguyễn Văn Thành là một vị Tiên hiền, góp công vào việc tạo dựng cuộc sống 
mới của người dân nơi đây. Điều này cũng là một minh chứng cho truyền thống uống 
nước nhớ nguồn của dân tộc ta từ bao đời nay.
2.2. Từ đường Nguyễn quận công từ
Sau những biến động của gia đình, các con cháu Nguyễn Văn Thành người bị 
triều đình bắt xử trảm, người chạy trốn khắp nơi. Sau khi vua Tự Đức rửa tội cho và 
ban sắc gia ân cho Nguyễn Văn Thành thì việc thờ cúng ông ở trong dòng họ mới được 
công khai. Người nhận sắc gia ân của vua Tự Đức là Nguyễn Văn Loại (Chơn), cháu 
100 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
nội của Nguyễn Văn Thành. Chính dòng này đã phụng dựng từ đường thờ tự Nguyễn 
Văn Thành.(20)
Từ đường thờ Nguyễn Văn 
Thành tại Huế(21) mang tên 
Nguyễn quận công từ, được 
dựng trên thửa đất của trưởng 
nữ Nguyễn Văn Thành là bà 
Nguyễn Thị Viên.(22) Thời gian 
ra đời của ngôi từ đường này 
không rõ, nhưng theo trí nhớ 
của các con cháu trong họ thì 
nguyên từ đường ở làng Bác 
Vọng, sau dời vào Huế xây kiểu 
nhà rường một căn hai chái, mái 
lợp tranh, xung quanh được làm 
bằng phên tre và nền đất.(23) Sau 
đó nó được trùng tu hai lần vào 
các năm 1956 và 1993.(24)
Ngôi từ đường không lớn, có quy mô một gian hai chái, bên trong chia thành 
hai phần “tiền Phật, hậu linh”. Phần trước thờ Phật, án giữa thờ Tam thế Phật, án tả 
thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, án hữu thờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Phần sau, án 
giữa thờ Nguyễn Văn Thành và bà Võ Thị Hòa, hai án tả hữu thờ các con cháu.
Hiện trong từ đường còn lưu giữ bản sắc phong gia ân của vua Tự Đức cho 
Nguyễn Văn Thành,(25) nguyên văn:
承天興運皇帝制曰
朕惟功臣國家之元氣黜步人主之大權威威而柢柢惡惡而善善功過相衡瑕瑜不
相掩周官八議左傳十宥皆爲有功設也
前望閣功臣誠郡公阮文誠故忠節功臣掌奇阮文賢之子也一門忠義奕世懃勞羈
靮多年橐鞬百戰身爲大將爵至上公功名於景鐘書券存乎盟府嘉隆年間因其子不肖
坐累而終遺表一上聖懷大慟明命紹治年間恩施曠蕩漸次從寬深意蓋有在也朕仰追
先志緬懷元動爰命廷臣再三確究議以追復爵銜秩之元祀檢言尢協禮則宜之加恩阮
文誠著追復望閣功臣掌中軍平西大將軍郡公原衔又準于中興功臣廟列祀錫之誥命
用妥幽潛於戲石碏純臣不以子厚而沒於衞英公偉烈不以敬業而亡於唐令之宥過錄
功廣聖恩也成美意昭厚道蓄將才爲國家將來之報也隔世有辭九原可作雖往之日如
存之年
欽哉
嗣德貳拾壹年肆月拾柒日
Phiên âm:
Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết.
Trẫm duy, công thần quốc gia chi nguyên khí, truất bộ nhân chủ chi đại quyền, 
uy uy nhi để để, ác ác nhi thiện thiện, công quá tương hành hà du bất tương yểm. Chu 
quan bát nghị Tả truyện thập hựu giai vi hữu công thiết dã.
Từ đường Nguyễn quận công từ.
101Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Tiền Vọng Các công thần Thành quận công Nguyễn Văn Thành cố Trung tiết 
công thần chưởng kỳ Nguyễn Văn Hiền chi tử dã, nhất môn trung nghĩa, dịch thế cần 
lao, ky đích đa niên, thác kiện bách chiến thân vi đại tướ ...  chi hựu quá lục công quảng Thánh ân. Dã thành mỹ 
ý chiêu hậu đạo súc tướng tài vị quốc gia tương lai chi báo dã. Cách thế hữu từ cửu 
nguyên khả tác, tuy vãng chi nhật như tồn chi niên.
Khâm tai.
 Tự Đức nhị thập nhất niên tứ nguyệt thập thất nhật.
Dịch nghĩa:
Nhân lúc trời đang hưng vượng, Hoàng đế phán rằng:
Trẫm nghĩ, công thần là khí tốt của nước nhà, là người có quyền lớn, những việc 
làm kỳ lạ đều bày ra tốt đẹp, có công và có tội cũng có khi xảy ra. Các quan nhà Chu 
đều đặt tám nghị (điều)(26) còn bên sách Tả truyện thì có mười điều là để khen chê 
những người có công hay có tội.
Trước đây, Vọng Các công thần là ông quận công Thành, Nguyễn Văn Thành 
là một người công thần cũ, là con của ông Nguyễn Văn Hiền, là một nhà trung nghĩa 
đời đời đều có công, đã từng đánh giặc nhiều phen, đánh trăm trận lên đến đại tướng, 
chức đến thượng công. Công danh còn lưu lại trong sử sách rõ ràng.
Dưới triều Gia Long, nhân vì người con có tội mà để lụy cho cha, có dâng biểu 
lên thì nhà vua cũng cảm động. Đến triều Minh Mạng, Thiệu Trị cũng đem ra xét và 
đã thi ân tha tội. Trẫm ngưỡng truy vì ta thấy chỗ đời trước cũng thương tiếc đến công 
Sắc phong gia ân của vua Tự Đức ban cho Nguyễn Văn Thành.
102 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
trạng, sắc cho đình thần phải hai ba lần xét lại cho rõ ràng, rồi cho lại chức tước đúng 
như nguyên hàm mà thờ tự. Như thế là đã thi ân nhiều cho ông Nguyễn Văn Thành 
được lên chức Vọng Các công thần, tước quận công, được thờ vào miếu Trung Hưng 
công thần và cho cáo mạng để an ủi linh hồn.
Than ôi! Công lao nặng như đá, không lẽ vì một đứa con mà phải bị mất hết, cho 
nên phải truy lục lại để tỏ rõ là ơn của nhà vua vậy. Như thế là đã đối xử một cách rất 
hậu đối với tướng tài, nhà vua không quên ơn của người có công, mặc dù đã qua đời 
lâu nhưng vẫn như còn sống vậy.
Hãy kính cẩn vâng mệnh.
 Ngày 17 tháng 4 năm Tự Đức thứ 21 (1868).
2.3. Ở làng Bác Vọng
Làng Bác Vọng trải dài theo 
Sông Bồ, đất đai màu mỡ tốt 
tươi, cảnh làng quê thanh bình 
yên tĩnh. Đây là quê hương 
của Nguyễn Văn Thành. Sau 
những biến cố trong gia đình 
Nguyễn Văn Thành, những 
người trong dòng họ sợ bị liên 
lụy nên không nhận cùng họ 
với Nguyễn Văn Thành. 
Theo lời kể của các vị cao 
niên trong họ, để tránh bị phát 
hiện, họ Nguyễn Văn có 5 
phái thì hết 3 phái đốt gia phả, 
con cháu cũng chạy loạn đi các nơi khác. Trong khoảng thời gian trước khi được minh 
oan, người trong họ cũng chỉ dùng họ Nguyễn, không lấy chữ “Văn” làm chữ lót.(27)
Sau khi vua Tự Đức minh oan cho Nguyễn Văn Thành thì con cháu trong họ 
quy tụ trở lại. Nhưng do gia phả đã đốt nên phái nào sinh ra dòng Nguyễn Văn Thành 
không còn ai biết.
Hiện nay, tại làng Bác Vọng còn ngôi từ đường họ Nguyễn Văn nằm cạnh chùa 
Thiện Khánh, bên phủ cũ Bác Vọng.(28) Cùng với ngôi từ đường, dấu tích liên quan 
đến Nguyễn Văn Thành ở đây chỉ còn lại địa danh “Tự điền” nằm phía bắc làng Bác 
Vọng Đông. Cũng theo các vị cao niên trong họ, sau khi minh oan cho Nguyễn Văn 
Thành, vua Tự Đức đã cấp 12 mẫu ruộng tự điền cho dòng họ để lấy đó hằng năm lo 
liệu việc thờ tự. Trước năm 1945, những người trông coi Từ đường Nguyễn quận công 
hằng năm đều ra làng Bác Vọng để lấy thóc ở “tự điền” về lo việc kỵ giỗ, thờ tự ông.
2.4. Miếu Thạch Thần Tướng Quân ở Huế
Miếu Thạch Thần Tướng Quân được xây dựng dưới thời vua Tự Đức, thờ 
Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt. Miếu tọa lạc phía sau Hoàng Thành, gần cửa 
Hòa Bình, nay ở số 2 đường Nhật Lệ.
Từ đường họ Nguyễn Văn, làng Bác Vọng.
103Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Nguyên trước khi dựng miếu, 
tại vị trí đó có hai bức tượng 
tạc Nguyễn Văn Thành và 
Lê Văn Duyệt. Do sự linh 
ứng nên ngôi miếu được các 
quan và binh lính trong Kinh 
thành xin xây dựng. Miếu rất 
linh ứng và đã trở thành chỗ 
dựa tinh thần của nhiều tầng 
lớp trong xã hội Huế thời bấy 
giờ, từ quan lại cho đến binh 
lính, sĩ tử và cả người dân. 
Các quan văn, võ, quân lính 
đều đến cầu nguyện; các thí 
sinh vào trường thi cũng đến 
khấn vái, các thương gia đến 
xin cho mua rẻ bán đắt.(29)
Năm Ất Sửu (1925), miếu được hai sở Cấm Mã và Ngự Xa do Lê Văn Thức(30) 
đứng ra trùng tu, sửa sang. Trong lần trùng tu này, hai bức tượng đá được sơn son thếp 
vàng. Bức hoành phi cũng được treo trong dịp này với nội dung ca ngợi công lao của 
Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành: 名髙千古 (Danh cao thiên cổ), dòng lạc khoản 
bên trái đề niên đại: 啓定十年仲夏 (Khải Định thập niên trọng hạ - tháng 5 năm Khải 
Định thứ 10 -1925), dòng lạc khoản bên phải ghi: 北圻河城住京德陳有德 (Bắc 
Kỳ Hà Thành trú kinh đức[khuyết 2 chữ không đọc được] Trần Hữu Đức[khuyết 
1 chữ không đọc được]). Cùng với đó, tấm bia nói về việc trùng tu miếu của sở Cấm 
Mã và Ngự Xa cũng được dựng trong miếu, nằm gần cửa bên phải. Bia cao 56cm, 
rộng 41cm. Nguyên văn chữ Hán:
啓定乙丑年孟夏
玆奉充禁馬御車二所五等侍衞黎文識仝所等原有等神古庙奉祀最灵名高千古
玆仝所廣發善心大崇修庙所並塗膝金箱等神二位
茲已事完奉刻石碑永留後世
禁馬所七品阮結八品陳脚范副甲底黎端阮忍阮福武淇阮儉刘边教养阮譎裴琨
給憑黎謁黎机阮願阮羿何楠黄珍黄佐阮悔阮直陳敬黎帯潘鳥阮懃御車所八品阮選
裴仲黎協黎當阮通奉修
Phiên âm:
Khải Định Ất Sửu niên mạnh hạ.
Tư phụng sung Cấm Mã, Ngự Xa nhị sở, Ngũ đẳng thị vệ Lê Văn Thức đồng sở 
đẳng nguyện hữu đẳng thần cổ miếu phụng tự tối linh danh cao thiên cổ. Tư đồng sở 
quảng phát thiện tâm đại sùng tu miếu sở tịnh đồ tất kim tương đẳng thần nhị vị.
Tư dĩ sự hoàn phụng khắc thạch bi vĩnh lưu hậu thế.
Cấm Mã Sở, thất phẩm Nguyễn Kết, bát phẩm Trần Cước, Phạm Phó, Giáp để 
Lê Đoan, Nguyễn Nhẫn, Nguyễn Phúc, Võ Kỳ, Nguyễn Kiệm, Lưu Biên, Giáo dưỡng 
Án thờ Tả quân Lê Văn Duyệt và Trung quân Nguyễn Văn 
Thành trong miếu Thạch Thần Tướng Quân.
104 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Nguyễn Quyệt, Bùi Côn, Cấp bằng Lê Yết, Lê Cơ, Nguyễn Nguyện, Nguyễn Nghệ, Hà 
Nam, Hoàng Trân, Hoàng Tá, Nguyễn Hối, Nguyễn Trực, Trần Kính, Lê Đới, Phan 
Điểu, Nguyễn Cần. Ngự Xa Sở, bát phẩm Nguyễn Tuyển, Bùi Trọng, Lê Hiệp, Lê 
Đương, Nguyễn Thông phụng tu.
Dịch nghĩa:
Tháng 4 năm Ất Sửu (1925) niên hiệu Khải Định.
Nay kính sung vào hai sở Cấm Mã và Ngự Xa, Ngũ đẳng thị vệ Lê Văn Thức 
cùng với những người trong sở nguyện kính phụng thờ đẳng thần ở miếu xưa rất linh 
thiêng, danh tiếng to lớn. Nay toàn thể người trong sở mở rộng thiện tâm đại sùng tu 
miếu sở và sơn son thếp vàng nhị vị đẳng thần.
Mọi việc xong xuôi kính khắc vào bia đá để lưu về sau.
Sở Cấm Mã: thất phẩm Nguyễn Kết, bát phẩm Trần Cước, Phạm Phó, Giáp để 
Lê Đoan, Nguyễn Nhẫn, Nguyễn Phúc, Võ Kỳ, Nguyễn Kiệm, Lưu Biên, Giáo dưỡng 
Nguyễn Quyệt, Bùi Côn, Cấp bằng Lê Yết, Lê Cơ, Nguyễn Nguyện, Nguyễn Nghệ, 
Hà Nam, Hoàng Trân, Hoàng Tá, Nguyễn Hối, Nguyễn Trực, Trần Kính, Lê Đới, Phan 
Điểu, Nguyễn Cần; Sở Ngự Xa: bát phẩm Nguyễn Tuyển, Bùi Trọng, Lê Hiệp, Lê 
Đương, Nguyễn Thông kính vâng mệnh sửa chữa.
Trải qua thời gian, rồi chiến tranh, miếu bị hư hỏng nhiều. Năm 1967, Tỉnh 
trưởng tỉnh Thừa Thiên, kiêm Thị trưởng thị xã Huế lúc đó là Trung tá Phan Văn Khoa 
đã cho tu sửa lại miếu với diện mạo như hiện thấy. Ngôi miếu có cấu trúc đơn giản, 
có một cửa giữa và một cửa bên phía phải. Trong miếu có 3 án thờ. Gian giữa thờ Tả 
quân Lê Văn Duyệt và Trung quân Nguyễn Văn Thành. Hai bức tượng đá trước đây 
nay không còn, thay vào đó là hai bức tượng bằng gỗ, tượng Tả quân Lê Văn Duyệt 
nằm bên trái và tượng Trung quân Nguyễn Văn Thành nằm bên phải.
3. Thay lời kết
Nguyễn Văn Thành là một vị tướng tài ba, một vị quan tài giỏi, yêu thương dân 
chúng. Nhưng cuộc đời oanh liệt của ông lại kết thúc với một kết cục bi thảm, bị án 
oan ông phải uống thuốc độc tự vẫn để gìn giữ cái gọi là tôi trung của mình; con cháu, 
dòng họ ông cũng theo đó mà ly tán. Tuy nhiên, danh thần Nguyễn Văn Thành vẫn 
chưa có một cuộc hội thảo nào tại Huế(31) bàn luận, đánh giá về công lao của ông, đặc 
biệt là công lao của ông trên đất cố đô. 
Những dấu tích còn lại của ông trên đất Huế không nhiều. Những di tích như 
chúng tôi đã đề cập ở trên là rất quý báu, cần được gìn giữ và phát huy vào việc phát 
triển du dịch. Đáng tiếc là trong khuôn viên miếu Thạch Thần Tướng Quân ở phường 
Thuận Thành đã bị biến thành trụ sở đội dân phòng khu vực, phía trước miếu cho thuê 
bán hàng ăn. Điều này gây nên sự phản cảm. Chúng tôi thiết nghĩ, miếu cần được trả 
lại những gì vốn có của nó. Việc trả lại không gian cho miếu là một việc làm rất thiết 
thực không chỉ thể hiện sự tôn trọng di sản của cha ông để lại, trả lại sự tôn nghiêm của 
một ngôi miếu cổ linh thiêng mà còn thể hiện sự kính trọng đối với những bậc danh 
thần, có công với nước, với dân.
 N V Đ - M V Đ
105Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
CHÚ THÍCH
(1) Ông cố là Nguyễn Văn Toán rời quê vào sinh sống ở Gia Định, sau đó ông nội là Nguyễn 
Văn Tánh đến ở Bình Hòa (Ninh Hòa, Khánh Hòa), cha ông là Nguyễn Văn Hiền lại chuyển 
về Gia Định.
(2) Theo Nguyễn tộc quận công bổn tôn thế phổ, huyền tôn Nguyễn Văn Phú phụng tu, năm 
Khải Định thứ 5 (1920).
(3) Theo Nguyễn tộc quận công bổn tôn thế phổ, tlđd.
(4) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 346.
(5) Bốn vị Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân thời điểm này là Nguyễn Văn Thành, Võ 
Tánh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức.
(6) Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành cai quản 11 trấn, gồm: 5 Nội trấn: Sơn Nam 
Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương và 6 Ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng 
Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên.
(7) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 363.
(8) Vũ Trinh là một trong hai người (thêm Trần Hựu) cùng với Nguyễn Văn Thành soạn bộ Hoàng 
Việt luật lệ; ông chính là thầy dạy học của Nguyễn Văn Thuyên (con của Nguyễn Văn Thành).
(9) Ngô Thì Vị là con của Ngô Thì Sĩ, em của Ngô Thì Nhậm.
(10) Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ luật Gia Long, hoàn thành vào tháng 7 năm Nhâm Thân 
(1812), được khắc in, ban hành và áp dụng vào năm 1813 trên phạm vi toàn quốc. Bộ luật 
này có 22 quyển với 398 điều.
(11) Dưới triều vua Gia Long, Quốc Sử Quán chưa được thiết lập; đến năm 1821, dưới triều vua 
Minh Mạng mới chính thức ra đời. Nhưng việc Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài biên soạn 
sử đã chứng minh rằng dưới thời vua Gia Long đã có cơ quan chuyên chép sử.
(12) Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 370.
(13) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 372.
(14) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 372.
(15) Theo lời kể của ông Nguyễn Viết Truyền (95 tuổi), nguyên trưởng làng Dã Lê Thượng, 
phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
(16) Nguyễn Duy Hưng (biên tập) (2013), Truyện kể về dòng họ Nguyễn quận công, bản lưu 
hành nội bộ dòng tộc, Hà Nội, tr. 68.
(17) Xứ Cây Bòng cách vị trí cũ khoảng 4km, nay là tổ 5, phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy.
(18) Tất cả tên con trai đều có bộ Ngôn (言), nhưng do bộ gõ không có mã chữ nên một số tên 
được thay bằng các chữ tương ứng. Tên con gái có bộ Nữ (女), trừ hai bà Thanh, Luận.
(19) Ô Tào (hay Tàu) là cơ quan chuyên trách kiểm soát ngoại thương đối với một bến cảng đón 
tàu thuyền nước ngoài. Thời chúa Nguyễn lập ra cơ quan Tào Vụ Ty do viên Cai tào phụ 
trách, các nhân viên cấp dưới là binh lính người Đường (người gốc Hoa).
(20) Dòng này theo thứ tự các đời là: Nguyễn Văn Thành (đời 1) - Nguyễn Văn Diệm (đời 2) - Nguyễn Văn 
Loại (Chơn) (đời 3) - Nguyễn Văn Lưu (đời 4) - Nguyễn Văn Túc (đời 5) - Nguyễn Văn Trai 
(đời 6) - Nguyễn Văn Thuận (đời 7).
(21) Nay tại địa chỉ 80/11 Nguyễn Lộ Trạch, phường Xuân Phú, thành phố Huế.
(22) Bà sinh năm 1793, được gả cho Tôn Thất Toại (1773 - 1822). Thửa đất được họ Tôn Thất 
cúng cho bên ngoại (dòng họ Nguyễn Văn Thành) để thờ phụng tổ tiên.
(23) Nguyễn Duy Hưng (biên tập) (2013), Truyện kể về dòng họ Nguyễn quận công, tlđd, tr. 65.
106 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
(24) Năm 1956, ngôi từ đường được trùng tu lại khang trang hơn, xây tường, mái lợp ngói. Sau 
nhiều năm, từ đường bị hư hỏng nặng nên được trùng tu lại năm 1993, lợp lại ngói, lát nền 
gạch men, thay các cột hư hỏng.
(25) Bản dịch này chúng tôi có tham khảo bản dịch của cụ Nghè Hoàng (Lê Văn Hoàng).
(26) Luật có bát nghị: nghị thân, nghị cổ, nghị công, nghị hiền, nghị năng, nghị quý, nghị cần, nghị tân.
(27) Theo ông Nguyễn Văn Hiên (70 tuổi), ở làng Bác Vọng Tây, xã Quảng Phú, huyện Quảng 
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
(28) Năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu bỏ Phú Xuân về lập phủ mới ở Bác Vọng. Đến năm 
1739, chúa Nguyễn Phúc Khoát lại dời phủ từ Bác Vọng lên Phú Xuân.
(29) Léopold Cadière (1916), “Đất Thần kinh” trong Những người bạn cố đô Huế, tập 3, Nxb 
Thuận Hóa, Huế, tr. 273.
(30) Lê Văn Thức, người họ Lê làng Hòa Duân, nay thuộc xã Phú Thuận, huyện Phú Vang, tỉnh 
Thừa Thiên Huế.
(31) Rất may mắn là gần đây, tháng 12/2013 đã có một cuộc Hội thảo tại Hà Nội mang tên Sự 
nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XIX do 
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Viện Sử học và dòng họ Nguyễn Văn Thành tổ 
chức nhưng chủ yếu là khẳng định đóng góp của ông khi làm Tổng trấn Bắc thành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Léopold Cadière (1916), “Đất Thần kinh” trong Những người bạn cố đô Huế, tập 3, Nxb 
Thuận Hóa, Huế.
2. Nguyễn Duy Hưng (biên tập) (2013), Truyện kể về dòng họ Nguyễn quận công, bản lưu 
hành nội bộ dòng tộc, Hà Nội.
3. Nguyễn tộc quận công bổn tôn thế phổ, huyền tôn Nguyễn Văn Phú phụng tu, năm Khải 
Định thứ 5 (1920).
4. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế.
TÓM TẮT
Đầu thế kỷ XIX, trong công cuộc hoàn thành thống nhất quốc gia của Nguyễn Ánh có một 
người có công lớn là Tiền quân Nguyễn Văn Thành. Năm 1802, với cương vị Tổng trấn Bắc 
thành, Tổng tài biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ và các bộ sử, ông không chỉ là một vị tướng tài 
ba mà còn là một vị quan tài giỏi, yêu thương dân chúng. Nhưng cuộc đời oanh liệt của ông lại 
kết thúc với một kết cục bi thảm, phải uống thuốc độc tự vẫn. Mặc dù đã được rửa tội nhưng vụ 
án “văn chương” với công thần Nguyễn Văn Thành đã đẩy dòng họ ông thất tán. Những dấu tích 
của Nguyễn Văn Thành còn lại trên quê hương Thừa Thiên Huế không nhiều và ít người biết đến. 
Bài viết muốn làm rõ những dấu tích đó như là một sự tri ân đối với một danh nhân, một người 
có công với dân với nước.
ABSTRACT
TRACES OF THE FAMOUS GENERAL NGUYỄN VĂN THÀNH IN THỪA THIÊN HUẾ
In the early 19th century, General Nguyễn Văn Thành achieved great merit in the cause of 
national unity of Nguyễn Ánh. In 1802, as the Governor-General of Bắc thành, and the head of a 
group of scholars compiling the Hoàng Việt luật lệ (Gia Long Code) and some history books. He 
was not only a talented general but also a generous ruler. But his glorious life ended in tragedy; 
he had to commit suicide by drinking poison. Although he was vindicated, the “literature” case of 
that meritorious official made his family disperse. The traces of Nguyễn Văn Thành in Thừa Thiên 
Huế, his homeland, almost disappear. The article aims to present these traces as a tribute to a 
celebrity who deserved well of his country.

File đính kèm:

  • pdfdau_tich_danh_nhan_nguyen_van_thanh_tren_dat_thua_thien_hue.pdf