Bàn thêm về sự du nhập của Islam giáo ở Champa

Tóm tắt: Bài viết này điểm lại các quan điểm chủ yếu liên quan

đến vấn đề thời điểm và nguồn gốc du nhập của Islam giáo ở

Champa trước đây và của người Chăm ở Việt Nam ngày nay.

Trong đó, chúng tôi xem xét và đánh giá về cơ sở khoa học và tính

xác đáng của các quan điểm trên, từ đó đưa ra quan điểm nhìn

nhận của tác giả và đóng góp thêm các thông tin nhằm làm rõ vấn

đề sự du nhập của Islam giáo ở Champa.

pdf 14 trang yennguyen 2340
Bạn đang xem tài liệu "Bàn thêm về sự du nhập của Islam giáo ở Champa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn thêm về sự du nhập của Islam giáo ở Champa

Bàn thêm về sự du nhập của Islam giáo ở Champa
80 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
ĐỔNG THÀNH DANH* 
BÀN THÊM VỀ SỰ DU NHẬP CỦA ISLAM GIÁO Ở CHAMPA 
Tóm tắt: Bài viết này điểm lại các quan điểm chủ yếu liên quan 
đến vấn đề thời điểm và nguồn gốc du nhập của Islam giáo ở 
Champa trước đây và của người Chăm ở Việt Nam ngày nay. 
Trong đó, chúng tôi xem xét và đánh giá về cơ sở khoa học và tính 
xác đáng của các quan điểm trên, từ đó đưa ra quan điểm nhìn 
nhận của tác giả và đóng góp thêm các thông tin nhằm làm rõ vấn 
đề sự du nhập của Islam giáo ở Champa. 
Từ khóa: Islam giáo, du nhập, Đông Nam Á, Champa, người Chăm. 
1. Đặt vấn đề 
Do một số các yếu tố lịch sử, ngày nay cộng đồng Islam giáo ở Việt 
Nam hiện nay chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Chăm ở Miền 
Trung và Nam Bộ, tương ứng với hai vùng định cư này, người Chăm 
theo Islam giáo cũng được phân chia ra làm hai nhóm rõ rệt: Chăm Awal1 
(hay thường gọi là Chăm Bàni) tập trung chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và 
tỉnh Bình Thuận; Chăm Islam ở vùng Nam Bộ (tập trung chủ yếu ở An 
Giang và một bộ phận nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh2... Sự 
phân loại hai nhóm Islam giáo này không đơn thuần chỉ dựa trên yếu tố 
địa lý mà còn dựa trên bối cảnh hình thành, mức độ tiếp thu, ảnh hưởng 
và cách thức thực hành tôn giáo ở hai cộng đồng. 
Trong khi, cộng đồng người Chăm Islam ở Nam Bộ là cộng đồng theo 
Islam giáo chính thống dòng Suni, tuân thủ theo các quy định, giáo luật 
của Islam giáo như các cộng đồng Islam giáo toàn thế giới thì cộng đồng 
Chăm Awal lại có một cách thực hành tôn giáo theo một cách riêng, mất 
đi tính chính thống và chứa đựng nhiều dấu ấn tâm linh bản địa như 
không tôn sùng Allah như là một Thượng đế duy nhất, duy trì phong tục 
thờ cúng thần linh, thờ cúng tổ tiên, trong thực hành niềm tin tôn giáo họ 
không phải cầu nguyện 5 lần/ngày, không nhịn ăn vào tháng chay niệm 
Ramadan, mà phó thác nhiệm vụ đó cho giới tu sĩ... Do đó, giới nghiên 
cứu còn nhấn mạnh rằng đây là cộng đồng ảnh hưởng Islam giáo chứ 
không phải Islam giáo hay là một dạng thức Islam giáo bản địa. 
* Nghiên cứu độc lập, Tp. Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận. 
Đổng Thành Danh. Bàn thêm về sự du nhập... 81 
Islam giáo được du nhập vào cộng đồng người Chăm ở Việt Nam từ 
thời người Chăm còn là thần dân của vương quốc Champa. Hậu duệ của 
cộng đồng Islam giáo ấy là người Chăm Awal ngày nay. Theo những 
biến cố lịch sử, một bộ phận người Chăm di cư đến Campuchia và Nam 
Bộ, bắt đầu tiếp thu và chuyển hóa theo Islam giáo chính thống mà ngày 
nay chính là cộng đồng Chăm Islam3. Trong bài viết này chúng tôi tập 
trung nghiên cứu về cộng đồng Chăm Awal chứ không phải là Chăm 
Islam (Nam Bộ). 
Cho đến nay, vẫn có hai xu hướng khác nhau nhận định về thời điểm 
du nhập của Islam giáo vào cộng đồng Chăm thời kỳ Champa cổ: một 
xu hướng cho rằng Islam giáo hình thành ở Champa từ khoảng giai 
đoạn thế kỷ X - XIII, thông qua các hoạt động giao thương và buôn bán 
với các thương nhân Islam giáo Trung Đông đến từ Arab hay Ba Tư4... 
Một xu hướng khác khẳng định Islam giáo có mặt muộn hơn (khoảng 
thế kỷ XV - XVII) và thiên về xu hướng cho rằng Islam giáo hình thành 
thông qua hoạt động buôn bán với các tiểu quốc hải đảo trong khu vực 
như Mã Lai, Java5... Ngoài ra, cũng có những xu hướng nghiêng về cả 
hai giả thuyết này6. 
Những xu hướng trái chiều này đã tạo nên những bất đồng, mà hệ lụy 
là những nhận định không rõ ràng hoặc thậm chí ngộ nhận về nguồn gốc, 
thời điểm du nhập của Islam giáo. Trong bài viết này chúng tôi sẽ điểm 
qua và đánh giá lại tính khoa học của hai xu hướng về sự du nhập của 
Islam giáo, đồng thời cung cấp thêm những nguồn tư liệu mới, nhất là tư 
liệu dân tộc học, để củng cố cho quan điểm của chúng tôi về nguồn gốc 
và thời điểm du nhập của Islam giáo ở Champa. 
2. Hai xu hướng nhận định về sự du nhập Islam giáo vào Champa 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, nhóm các nhà 
nghiên cứu ủng hộ giả thuyết thứ nhất gồm Ed. Huber, P. Ravaisse, G. 
Maspero Trước hết, theo Aymonier, từ khoảng thế kỷ IX - X, đã có 
một bộ phận đông đảo người Islam giáo xuất hiện ở Champa, sau này do 
các biến cố lịch sử người Chăm Islam giáo lần lượt di cư sang 
Campuchia, Xiêm (Thái Lan)7... Có thể những nhận định này bắt nguồn 
từ sự xuất hiện của một nhân vật trong Biên niên sử Chăm mà Aymonier 
đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, đó là Po Awloah (tức Allah - 
Thượng đế của Islam giáo), vị vua mở đầu danh sách các vị vua của 
người Chăm, trị vì Champa trong thế kỷ XI8. 
82 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
Tiếp đến, E. Huber khẳng định vào đời Tống (Trung Hoa), khoảng thế 
kỷ X - XII, ở Champa đã có những người Chàm theo Islam giáo. Bằng 
chứng mà ông viện dẫn là một chi tiết trong Tống sử có đề cập đến một 
tục lệ tế trâu của người Chăm, mà trong đó có một đoạn khấn lễ nhắc đến 
từ: “Allah akhar”, mà ông tin chắc rằng đó là một nghi lễ liên quan đến 
Islam giáo9. Khoảng năm 1922, P. Ravaisse công bố hai bia ký chữ Arab, 
được một sĩ quan Pháp phát hiện ở Miền Trung. Bản thứ nhất là bia mộ 
của một người tên Abu Kamil có niên đại 1039. Tấm bia thứ hai, có niên 
đại khoảng 1025 - 1035, là một thông báo cho cộng đồng Islam giáo ở 
đây phải đối xử như thế nào với dân bản xứ khi tiếp xúc với họ. Từ kết 
quả này tác giả cũng nhận định, khoảng thế kỷ XI, đã có một cộng đồng 
Islam giáo ở Champa10. 
Cho đến nay, hai nguồn tư liệu của Huber và Ravaisse được các nhà 
nghiên cứu thuộc nhóm thứ nhất xem như là chi tiết quan trọng, thường 
được dẫn ra để chứng minh Islam giáo đã có mặt ở Champa từ thế kỷ X - 
XIII. Trước hết, hai nguồn tư liệu này được dẫn lại trong tác phẩm Le 
Royaume de Champa (Vương quốc Champa) của G. Maspero, để rồi ông 
cho rằng Islam giáo đã du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ X11. Lương 
Ninh cũng cho rằng, trong giai đoạn này có một số tài liệu cho thấy Islam 
giáo đã phổ biến trong một số người ở hoàng tộc rồi mới truyền sang Java, 
nhưng ông không nêu hay trích dẫn các nguồn gốc của các tài liệu ấy (?)12. 
Gần đây, Bá Trung Phụ cũng dẫn lại hai nguồn tư liệu này để đưa ra nhận 
định rằng Islam giáo đã có mặt ở Champa từ thế kỷ IX13. 
Nhưng sau đó, lại xuất hiện một nhóm ý kiến khác cho rằng, chỉ từ thế 
kỷ XV - XVII, Islam giáo mới du nhập mạnh mẽ vào Champa, và nó là 
kết quả của sự giao lưu tiếp xúc giữa người Champa với thế giới Mã Lai, 
chứ không phải từ Trung Đông như trước đây. 
Đầu tiên năm 1979, P. Y. Manguin đã dành riêng một bài viết để đánh 
giá lại các thông tin của Ravaisse. Theo đó, ông chứng minh hai bia ký 
liên quan đến Islam giáo xuất hiện ở Champa, thế kỷ XI, do một cộng 
đồng Islam giáo ngoại quốc hoặc một đoàn sứ giả Trung Đông đến và để 
lại ở Champa. Nhưng cũng trong bài viết này, Manguin lập luận rằng sự 
có mặt của cộng đồng Islam giáo ngoại quốc ở Champa không có nghĩa 
là Islam giáo đã ảnh hưởng đến Champa, để có thể hình thành một cộng 
đồng tín đồ Islam giáo gốc Chăm. Ngược lại, ông đưa ra nhiều tư liệu 
khác nhằm chứng minh rằng một cộng đồng gồm các tín đồ Islam giáo 
Đổng Thành Danh. Bàn thêm về sự du nhập... 83 
bản xứ chỉ được hình thành từ thế kỷ XV - XVII, và đó là hệ quả của sự 
giao lưu với các quốc gia Islam giáo trong khu vực14. 
Sau đó, Po Dharma, trong luận án tiến sĩ năm 1987, được dịch sang 
tiếng Việt năm 2012, cho rằng Islam giáo chỉ chính thức du nhập vào 
Champa ở thế kỷ XVI15. Lafont cũng đưa ra quan điểm tương tự về thời 
gian du nhập của Islam giáo ở Champa. Ông cũng cho rằng Islam giáo có 
mặt ở Champa là hệ quả của mối giao thương với Mã Lai và kết quả là sự 
hình thành cộng đồng Chăm Awal (Bàni)16. Trong một hội thảo về bia ký 
Đông Nam Á do Viện Viễn Đông Pháp và Hội Khảo cổ học Malaysia tổ 
chức tại Kuala Lumpur (11/2011), Ludvik Kalus lại góp thêm những tư 
liệu và lập luận mới phát triển, làm rõ thêm ý tưởng nghiên cứu của P. Y. 
Manguin trước đó về hai tấm bia ký Islam giáo ở Champa, từ đó các nhà 
khoa học thống nhất rằng Islam giáo chỉ được du nhập vào Champa và 
Đông Nam Á từ thế kỷ XVI. 
2.1. Nhìn nhận và đánh giá về xu hướng thứ nhất 
Về phía chúng tôi, trong quá trình nghiên cứu, nhận thấy một số điểm 
sau: theo xu hướng nhận định thứ nhất thì từ thế kỷ X - XIII, Islam giáo 
đã bắt đầu du nhập vào Champa, và đó là kết quả của cuộc tiếp xúc với 
các thương thuyền buôn bán của người Arab từ Trung Đông. Nhưng 
những cứ liệu đó rất tản mạn, không có nhiều căn cứ và chưa cho thấy 
trong thời kỳ này đã hình thành một cộng đồng Islam giáo bản địa ở 
Champa, chưa đủ để tạo nên một cộng đồng người Chăm Awal/ Bani như 
ngày nay. 
Trước hết, sự xuất hiện Po Awloah trong biên niên sử hoàng gia 
Champa là một yếu tố quan trọng cho thấy sự liên hệ với Islam giáo. Vì 
ai cũng biết rằng Po Awloah cũng là tên một vị thần quan trọng trong 
tôn giáo của người Chăm, nhất là Chăm Awal, bên cạnh đó Po Awloah 
chính là cách gọi Allah của người Chăm, mà Allah lại là Thượng đế của 
Islam giáo. Rất có thể từ chi tiết này mà E. Aymonier cho rằng Islam 
giáo xuất hiện ở Champa vào khoảng thể kỷ IX - X17, nhưng việc dẫn 
chứng này có lẽ không thuyết phục cho lắm. Vì rằng biên niên sử Chăm 
chỉ ra đời vào thời cận đại (tức là khoảng thế kỷ XV - XVII), bởi nó 
được viết bằng chữ Chăm hiện đại, một văn tự chỉ xuất hiện ở Champa 
từ sau thế kỷ XV18, do đó rất có thể sự xuất hiện của Po Awloah trong 
biên niên sử chỉ là một yếu tố được thêm vào sau này, khi mà Champa 
đã tiếp nhận Islam giáo. 
84 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
Tiếp đến, hai văn bia được tìm thấy vào năm 1922, có niên đại khoảng 
thế kỷ XI, chỉ cho thấy sự tồn tại nhỏ lẻ của một cộng đồng Islam giáo 
ngoại quốc đến từ Trung Đông và tạm dừng ở Champa, mà Manguin chỉ 
rõ đây là những phái đoàn ngoại giao trên đường đến Trung Quốc ghé lại 
ở Champa19. Mặt khác, gần đây, dựa vào nội dung và văn phong, Ludvik 
Kalus đã chứng minh hai tấm bia này không xuất phát từ Champa mà từ 
thị trấn Kairouan thuộc Tunisia, một quốc gia ở Bắc Phi20. Sự hiện diện 
của những người Islam giáo vùng Trung Đông và Bắc Phi ở Champa thế 
kỷ XI là một chỉ dấu cho thấy mối quan hệ giao thương với các quốc gia 
ở khu vực trên của Champa, nhưng không phải là một bằng chứng để lập 
luận rằng người Champa đã theo Islam giáo từ thế kỷ XI. 
Giả thuyết của Huber về một nghi lễ tế trâu kèm với lời khấn “Allah 
akbar”, mà ông tin rằng nó có liên quan đến Islam giáo cũng chưa đủ để 
kết luận có Islam giáo ở Champa thời Tống. Trước hết, Huber chỉ dẫn lại 
chi tiết này từ Tống sử, bản thân tài liệu này chỉ viết rất sơ lược về 
Champa. Người viết văn bản sử này là người Trung Hoa không am hiểu 
nhiều về phong tục và rất có thể họ chỉ được nghe kể về nghi lễ tế, mà 
không trực tiếp chứng kiến và nghe lời khấn. Mặt khác, ngày nay các tộc 
người thiểu số ở Tây Nguyên và người Chăm ảnh hưởng Bàlamôn cũng 
tổ chức các nghi lễ tế trâu kèm với các lời khấn mang ý nghĩa tương tự 
nhưng hoàn toàn không liên quan đến nghi lễ tế trâu của Islam giáo. Do 
đó, việc sử dụng chi tiết này hầu chứng minh Islam giáo đã xuất hiện vào 
thời Tống là chưa đầy đủ và thuyết phục. 
Trong thực tế, những chi tiết trên vẫn còn gây nhiều tranh cãi và hàm 
chứa nhiều mâu thuẫn, một số nhà nghiên cứu như Maspero, Nguyễn Văn 
Luận dù trích dẫn các chi tiết này nhưng luôn đặt nghi vấn với nó. G. 
Maspero viết rằng: “... dù sao mặc lòng..., cũng khó tin rằng đạo của 
Mohamet đã được người Chàm theo trước năm 1470...”21. Trong khi 
Nguyễn Văn Luận, cũng dẫn ra 3 chi tiết trên nhưng lại đặt câu hỏi: “... 
việc tìm được dấu tích Islam giáo và vấn đề người Chàm cải đạo theo tôn 
giáo mới là hai sự việc khác hẳn nhau...”22. Sau này, khi đánh giá về 
những cứ liệu này, các tác giả của cuốn Văn hóa Chăm cũng có cùng 
quan điểm như vậy. Theo nhóm tác giả trên, “... thoạt đầu Hồi giáo đến 
với người Chăm bằng sự hiện diện của một cộng đồng Hồi giáo gốc 
Trung Đông ngay trên đất Champa... Nhưng bởi vì cộng đồng Hồi giáo 
ấy do những điều kiện không thuận lợi ở Champa lúc bấy giờ... mà họ 
không truyền bá đức tin Hồi giáo một cách tích cực được...”23. 
Đổng Thành Danh. Bàn thêm về sự du nhập... 85 
Tóm lại, tính thuyết phục của các bằng chứng trên vẫn còn để ngỏ, 
những chi tiết này chưa đủ để cấu thành các yếu tố khẳng định Islam giáo 
đã du nhập vào Champa trong khoảng thế kỷ X - XIII. Bởi vì, chỉ khi nào 
ở Champa xuất hiện người bản xứ theo niềm tin Islam giáo hay ít ra ảnh 
hưởng Islam giáo, thì khi ấy mới có thể kết luận Islam giáo đã chính thức 
du nhập vào Champa. 
2.2. Đánh giá và góp thêm tư liệu cho hướng nhận định thứ hai 
Ngược lại, những quan điểm nhận định của P. Y. Manguin, Po 
Dharma và Lafont lại có nhiều cơ sở thuyết phục hơn, nhất là khi đa số 
các nhà khoa học tán đồng rằng Islam giáo chỉ du nhập chính thức từ thế 
kỷ XVI. Trong thực tế, cho đến tận thế kỷ XIII, các vua, chúa, quý tộc 
Champa vẫn tôn sùng Hindu giáo và thờ thần Shiva mà hầu hết các bia 
ký Champa đều thể hiện điều đó, cho dù từ sau thế kỷ XIII, niềm tin vào 
tôn giáo này đang trên đà suy thoái. Nhưng sự suy thoái của Champa 
Hindu giáo không đồng nghĩa là Islam giáo đã du nhập vào Champa. Cho 
đến tận thế kỷ XV, người ta không tìm được thêm một bằng chứng nào 
cho thấy ở Champa đã có người theo Islam giáo, ngoài chi tiết về một 
cuộc hôn nhân giữa vua Champa Sinhavarman III (Chế Mân) với một 
công chúa đến từ Mã Lai là Bia Tapasi và thế kỷ XIII24. Tuy nhiên, chi 
tiết này không chứng minh người Champa (nhất là hoàng tộc) theo Islam 
giáo, mà chỉ cho thấy lúc này Champa đã bắt đầu thiết lập mối bang giao 
thân thiện với các tiểu quốc Mã Lai. 
Người ta cũng không có một bằng chứng nào cho thấy hoàng tộc 
Champa đã có người theo Islam giáo trước đó, vua Sinhavarman III dù 
lấy vợ gốc Jawa, nhưng vẫn xây tháp thờ Shiva và khi mất vẫn làm lễ hỏa 
thiêu như một tín đồ Hindu giáo thuần thành25. Sau ngày sụp đổ của 
Vijaya, một số quý tộc Champa đến lánh nạn ở vùng Melaka và Pasai 
Islam giáo vẫn là những người theo Ấn Độ giáo26. Cuối thế kỷ XV, vua 
Champa là Po Kabrah, dù đã kết hôn với một phụ nữ Islam giáo tên là Po 
Batlija, nhưng sau đó việc cả ông và vợ đều được hỏa thiêu khi chết cho 
thấy vua vẫn theo Ấn giáo và vợ ông bỏ Islam giáo theo đạo chồng27. 
Cho đến tận năm 1607, một đô đốc người Hòa Lan vẫn xác nhận rằng 
vua Champa lúc ấy vẫn theo Islam giáo28, trong khi đó, các văn bản 
Chăm cho thấy Po Soat (1660 - 1692) là quốc vương Champa đầu tiên 
chấp nhận Islam giáo là một đức tin, mặc dù ngài vẫn tiếp tục thực thi 
những nghi lễ truyền thống của Bàlamôn giáo29. 
86 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
Các quan điểm này cũng trùng với quan điểm của các nhà khoa học về 
sự du nhập của Islam giáo ở Đông Nam Á nói chung. Theo J-P. Roux, 
Islam giáo được du nhập vào Ấn Độ từ thế kỷ VIII, nhưng mãi đến thế kỷ 
XII mới giữ vai trò quan trọng. Từ đây, Islam giáo được truyền vào Mã Lai 
và Jawa, nhưng sự du nhập này cũng rất hạn chế, mãi đến thế kỷ XIV mới 
xuất hiện một vương triều Islam giáo đầu tiên trong khu vực rồi từ đó mới 
truyền đi các nơi khác30. Các tư liệu khác cho biết Islam giáo chỉ du nhập 
mạnh mẽ ở Mã Lai từ thế kỷ XIII31, sau đó mới truyền sang Brunei, 
Indone ... như Coran, Hadith, 
mà sử dụng các văn bản chép lại từ Mã Lai mà họ cho là akhar Jawa; 
ngoài ra, người Chăm Awal vẫn thường gọi mình là Chăm amal adat 
Jawa hay amal ilmu Jawa (tức là người Chăm theo phong tục, văn hóa 
Mã Lai)42. Cũng đối với người Chăm, thuật ngữ Makah, thường xuất hiện 
trong văn chương, tức là nơi mà người Chăm cho rằng là thánh địa linh 
thiêng của Islam giáo (nơi mà nhiều nhà truyền giáo đã đến Champa và 
người Chăm đến đấy để học đạo) là ở Kelantan (Mã Lai) chứ không phải 
là Mecca (Arab) như người Islam giáo chính thống quan niệm43. 
Giai đoạn thế kỷ XV - XVII, cũng là một giai đoạn xuất hiện biết bao 
nhiêu sự xung đột, mâu thuẫn tôn giáo trong xã hội, mà các tác phẩm văn 
học sử Champa không ngừng nhắc đến44. Hai tác phẩm Um Marup (sử thi) 
và Nai Mai Mang Makah (thơ ca), mà chắc rằng chỉ có niên đại từ sau thế 
kỷ XVI, phản ánh cuộc xung đột giữa tôn giáo cũ và mới, ngay trong chính 
tầng lớp tinh hoa (hoàng gia, quý tộc) đang lãnh đạo đất nước lúc bấy giờ. 
88 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
Bản thân văn chương không hoàn toàn biểu đạt lịch sử, nhưng nó chứa 
đựng giá trị lịch sử, nó phản ánh cách nhìn của người viết với bối cảnh mà 
họ đang sống hay chứng kiến. Nội dung của các tác phẩm này, nhất là bài 
thơ Nai Mai Mang Makah, càng làm cho tôi tin rằng chúng diễn tả bối 
cảnh Champa trong thời kỳ mà người Mã Lai truyền giáo, và người Chăm 
đang tiếp nhận Islam giáo trong khoảng thế kỷ XV - XVII. 
Điều đó cũng giải thích tại sao Islam giáo ở Champa với Mã Lai có 
nhiều nét tương đồng trong thực hành tôn giáo. Ngày nay, các nghi lễ 
như Rija Proang, Palao Sah (lễ cúng ở cửa biển) của người Chăm là 
những nghi lễ mang ít nhiều dấu ấn Islam giáo có nhiều tương đồng với 
lễ Mak Yong và Puji Pantai của người Mã45. Mặt khác, trong các Rija, 
thầy chủ lễ (Maduen) thường đọc kinh hành lễ bằng tiếng Mã Lai, mà họ 
gọi là Jawa hoak46. Ngoài ra, người Chăm Awal và người Mã Lai vẫn 
cùng chia sẻ một Islam giáo thần bí (Sufi). Theo đó, hai dân tộc cùng lưu 
giữ niềm tin với linh hồn và ma quỷ, cho nên vẫn lưu trữ các văn chương, 
bùa chú cúng thần linh và đuổi tà ma, trong khi ở các xứ Islam giáo 
Trung Đông, ngoài Thượng đế thì họ không tôn thờ ai hết, việc thờ cúng 
thần linh hay người chết là tối kỵ47. 
Tất cả những dữ kiện lịch sử, văn chương và dân tộc học đó cho thấy 
Islam giáo chỉ bắt đầu xuất hiện sớm nhất ở Champa từ sau thế kỷ XV, 
chính thức du nhập khoảng thế kỷ XVI và phát triển mạnh mẽ nhất từ sau 
thế kỷ XVII. Như vậy, Islam giáo được du nhập vào Champa, có nguốn 
gốc từ Mã Lai và các vương quốc Islam giáo từ trong khu vực Đông Nam 
Á, chứ không phải từ Trung Đông, như một số nhà nghiên cứu thường 
hiểu lầm. Tuy nhiên, Islam giáo không được tiếp nhận một cách máy móc 
mà đã được tiếp biến, bản địa hóa đi rất nhiều, người Chăm Awal ở Miền 
Trung ngày nay chính là hậu duệ của cộng đồng Chăm bản địa ấy. 
3. Kết luận 
Cho đến gần đây, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm và 
nguồn gốc du nhập Islam giáo vào Champa. Tuy nhiên, theo thời gian, 
việc sử dụng các nguồn tư liệu ít ỏi và tản mạn để cho rằng Islam giáo du 
nhập ở Champa từ khoảng thế kỷ X - XIII từ Trung Đông ngày càng tỏ ra 
thiếu sức thuyết phục. Thay vào đó, hướng quan điểm cho rằng Islam 
giáo du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ XV - XVII, từ Mã Lai, ngày 
càng được nhiều nguồn tư liệu kiểm chứng, nhiều nhà khoa học tán đồng 
và tỏ ra là một giả thuyết đáng tin cậy, được ủng hộ rộng rãi. 
Đổng Thành Danh. Bàn thêm về sự du nhập... 89 
Tuy nhiên, những nguồn tư liệu và thông tin này vẫn ít được thừa 
nhận và tiếp cận, nhất là ở Việt Nam. Bởi vì hầu hết chúng được viết 
bằng tiếng Chăm, tiếng Mã Lai, những ngôn ngữ xa lạ với hầu hết người 
nghiên cứu. Chính vì thế, trong bài viết này, đồng thời với việc đánh giá 
lại hướng nhận định thứ nhất, chúng tôi cũng góp thêm một số chi tiết 
hầu chứng minh Champa chỉ xuất hiện một cộng đồng Islam giáo bản xứ 
từ sau thế kỷ XV, và có nguồn gốc từ Mã Lai, nơi mà người Chăm vẫn 
xem là thánh địa của Islam giáo. Bài viết này, hy vọng đóng góp thêm 
những ý kiến phê bình, phản biện và bổ sung thêm các thông tin về chủ 
đề lịch sử Islam giáo ở Champa trước đây và Việt Nam ngày nay./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Gần đây, một số nhà nghiên cứu thường có xu hướng chuyển đổi các 
thuật ngữ truyền thống thường được sủ dụng để chỉ các nhóm Chăm như 
Chăm Bàni, Chăm Bàlamôn thành Chăm Awal, Chăm Ahier, bởi vì các 
tác giả cho rằng các thuật ngữ Awal, Ahier được sử dụng phổ biến trong 
cộng đồng Chăm, trong khi các thuật ngữ Bàni, Bàlamôn không phản ánh 
đúng bản chất về tôn giáo của hai cộng đồng này vì người Chăm ngày 
nay dù tiếp thu Bàlamôn giáo và Islam giáo nhưng đã biến thể các tôn 
giáo đó đi rất nhiều để niềm tin tôn giáo của họ chỉ còn mang dấu ấn bản 
địa, nên việc sử dụng hai danh từ trên không thể hiện đúng bản chất của 
hai cộng đồng. Do đó, trong bài viết này chúng tôi sử dụng thuật ngữ 
Awal thay choo Bàni và Ahier thay cho Bàlamôn. Về thuật ngữ Awal và 
Ahier xem thêm: Sakaya (2010), Văn hóa Chăm nghiên cứu và phê bình, 
Nxb. Phụ nữ, Hà Nội: 213 - 220; Thành Phần (2011), “Một số vấn đề 
nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng - tôn giáo truyền thống của người 
Chăm hiện nay ở Việt Nam”, trong Hiện đại và động thái của truyền 
thống ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh: 217 - 219; 
Sakaya (2013), Tiếp cận một số vấn đề văn hóa Champa, Nxb. Tri thức, 
Hà Nội: 66 - 72. 
2 Về thống kê dân số và địa bàn định cư của người Chăm xem thêm: Thành 
Phần (2014), “Bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống qua lễ tục 
Ew Mukkei, Lễ hội Katé - Ramawan và lễ hội Rija Nagar”, trong Những 
vấn đề văn hóa - xã hội người Chăm ngày nay, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí 
Minh: 5. 
3 Nguyễn Văn Luận (1974), Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam Phần, 
Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Saigon: 30 - 37; Mak Phoeun 
(1988), “La communaté Cam au Cambodge du Xve au XIXe siècle”, 
trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de 
Copenhague, CHCPI (Trung tâm Lịch sử và nền Văn minh Bán đảo 
Đông Dương), Paris: 83 - 94. 
90 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
4 E. Aymonier (1890), “Légendes historiques des Chams”, in Excursions et 
Reconnaissances XIV-32 : 145 - 206; P. Ravaisse (1922), “Deux 
inscriptions çoufiques du Campa”, trong Journal Asiatique XX: 
247 - 289; G. Maspero (1928), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris: 
3; Bá Trung Phụ (2007), “Đạo Bàni của người Chăm ở Việt Nam”, 
Nghiên cứu Tôn giáo, số 12: 52 - 56. 
5 P-Y. Manguin (1979), “L’Introduction de l’Islam au Campa”, BEFEO 
(Tập san của Viện Viễn Đông Bác cổ) LXVI: 255 - 287; P-B. Lafont 
(2011), Vương quốc Champa: địa dư - dân cư - lịch sử, IOC Champa ấn 
hành, San Jose: 81 - 82; Po Dharma (2012), Vương quốc Champa: Lịch 
sử 33 năm cuối cùng, IOC Champa, San Jose: 68. 
6 Sakaya (2010), sđd: 249 - 250; Sakaya (2013), sđd: 100 - 101. 
7 E. Aymonier (1891), Les Tchampa et leurs religions, Ernest Leroux, Paris: 26. 
8 E. Aymonier (1890), sđd: 153. 
9 Dẫn theo: R-P. Durand (1903), “Les Cham Bani”, BEFEO III: 55. 
10 P. Ravaisse (1922), sđd: 287. 
11 G. Maspero (1928), sđd: 13 - 14. 
12 Lương Ninh (2003), “Tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm”, Nghiên cứu 
Tôn giáo, số 6: 44. 
13 Bá Trung Phụ (2007), sđd: 54. 
14 P-Y. Manguin (1979), sđd: 255 - 257. 
15 Po Dharma (2012), sđd: 68. 
16 P-B. Lafont (2011), sđd: 81. 
17 E. Aymonier (1891), sđd: 26. 
18 Po Dharma (2007), “Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử”, 
trong Kỷ yếu hội thảo về Ngôn ngữ và chữ viết Chăm (CD Rom), Kuala 
Lumpur: 11. 
19 P-Y. Manguin (1979), sđd: 255 - 257. 
20 Bá Trung Phụ (2014), “Hồi giáo Bàni của người Chăm ở Việt Nam”, 
trong Những vấn đề văn hóa - xã hội người Chăm ngày nay, sđd: 53. 
21 G. Maspero (1928), sđd: 14. 
22 Nguyễn Văn Luận (1974), sđd: 55. 
23 Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1992), Văn hóa Chăm, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội: 299. 
24 G. Maspero (1928), sđd: 189; P-B. Lafont (2011), sđd: 171 - 172. 
25 Như trên. 
26 Anthony Reid (2000), “Champa in the Southeast Asian Maritime 
System”, trong Charting the Shape of Early Modern Southeast Asian, 
O.S. Printing House, Bangkok: 41 - 42. 
27 Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse EPHE, Paris: 113. 
28 Anthoni Reid (2000), sđd: 41 - 43. 
29 Po Dharma (2000), “L'insulinde malaise et le Campa”, BEFEO 87 (1): 
185 - 186. 
Đổng Thành Danh. Bàn thêm về sự du nhập... 91 
30 Nguyễn Văn Luận (1974), sđd: 55. 
31 Nasr, Seyyed Hossein (2003), Islam: Religion, History and Civilization, 
Harper Collins Publishers, New York: 143. 
32 Spencer Tucker (2009), The Encyclopedia of the Spanish-American and 
Philippine-American Wars: A Political, Social, and Military History, tập 
1: 419. 
33 G. Maspero (1928), sđd: 189, 198. 
34 Po Dharma (1999), Quatre Lexiques malais - Cam anciens, EFEO, Paris: 5. 
35 Po Dharma (1978), sđd: 113. 
36 P-B. Lafont (1988), “On Relations between Champa and Southeast Asia”, 
trong Proceedings of the Seminar On Champa, Paris: 65 - 75. 
37 Dẫn theo Sakaya (2013), sđd: 592. 
38 Lombard, Denys (1981), “Campa Dipandang dari Selatan”, trong 
KerajaanCampa, EFEO, Jakarta: 286 - 297. 
39 Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003), “Historical and Cultural Relations 
between the Malay World and Indochina in Malay”, trong Pinisule 
Indochioise Et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur: 169. 
40 P-Y. Manguin (1979), sđd: 269 - 270. 
41 Po Dharma (2000), sđd: 185 - 186; Xem thêm: Po Dharma, G. Moussay, 
Abd. Karim (2000), Nai Mai Mang Makah - Tuan Puteri dari Kelantan - 
La princesse qui venait du Kelantan, EFEO, Kuala Lumpur. 
42 Po Dharma (2000), sđd: 187; Sakaya (2013), sđd: 98 - 99. 
43 Sakaya (2013), sđd: 411 - 413. 
44 Về các tác phẩm này xem: Po Dharma, G. Moussay, Abd. Karim (2000), 
sđd; Po Dharma, Nicolas Weber, Abdullah Zakaria Bin Ghazali (2007), 
Akayet Um Marup - Hikayat Um Marup - Epopée Um Marup, EFEO, 
Kuala Lumpur; Inrasara (2006), Ariya Chăm, Nxb. Văn nghệ, Tp. Hồ Chí 
Minh; Inrasara (2011), Văn học Chăm khái luận, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 
45 Po Dharma (2000), sđd: 188; Sakaya (2008), “Raja Praong Ritual: a 
Memory of the Sea in Cham- Malay Relations”, in Ocean and Earth 
Sciences, Institute of Ocean and Earth Sciences, University of Malaya, 
Monograph, Series 3: 97 - 111. 
46 Xem thêm Po Dharma (1999), sđd. 
47 Sakaya (2013), sđd: 99 - 100. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003), “Historical and Cultural Relations 
between the Malay World and Indochina in Malay”, trong Pinisule 
Indochioise et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur: 167 - 188. 
2. Aymonier. E (1890), “Légendes historiques des Chams”, in Excursions et 
Reconnaissances XIV-32: 145 - 206. 
3. Aymonier. E (1891), Les Tchampa et leurs religions, Ernest Leroux, Paris. 
92 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
4. Anthoni Reid (2000), “Champa in the Southeast Asian Maritime 
System”, in Charting the Shape of Early Modern Southeast Asian, O.S. 
Printing House, Bangkok: 39 - 45. 
5. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1992), Văn hóa Chăm, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
6. Durand. R-P (1903), “Les Cham Bani”, BEFEO III: 54 - 62. 
7. Inrasara (2006), Ariya Chăm, Nxb. Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
8. Inrasara (2011), Văn học Chăm khái luận, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 
9. Nguyễn Văn Luận (1974), Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam Phần, 
Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Saigon. 
10. Lombard, Denys (1981), “Campa Dipandang dari Selatan”, in Kerajaan 
Campa, EFEO, Jakarta: 286 - 297. 
11. Lafont. P-B (1988), “On Relations between Champa and Southeast Asia”, 
in Proceedings of the Seminar on Champa, Paris: 65 - 75. 
12. Lafont. P-B (2011), Vương quốc Champa: địa dư - dân cư - lịch sử, IOC 
Champa ấn hành, San Jose. 
13. Maspero. G (1928), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris. 
14. Manguin. P-Y (1979), “L’Introduction de l’Islam au Campa”, BEFEO 
LXVI: 255 - 287. 
15. Mak Phoeun (1988), “La communaté Cam au Cambodge du Xve au 
XIXe siècle”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à 
l’Université de Copenhague, CHCPI (Trung tâm Lịch sử và nền Văn 
minh Bán đảo Đông Dương), Paris: 83 - 94. 
16. Nasr, Seyyed Hossein (2003), Islam: Religion, History and Civilization, 
HarperCollins Publishers, New York. 
17. Lương Ninh (2003), “Tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm”, Nghiên cứu 
Tôn giáo, số 6: 42 - 45. 
18. Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse EPHE, Paris. 
19. Po Dharma (1999), Quatre Lexiques Malais-Cam anciens rédigés au 
Campa, EFEO, Paris. 
20. Po Dharma (2000), “L'insulinde malaise et le Campa”, BEFEO 87 (1): 
183 - 192. 
21. Po Dharma, G. Moussay , Abd. Karim (2000), Nai Mai Mang Makah - 
Tuan Puteri dari Kelantan - La princesse qui venait du Kelantan, EFEO, 
Kuala Lumpur. 
22. Po Dharma, Nicolas Weber, Abdullah Zakaria bin Ghazali (2007), Akayet 
Um Marup - Hikayat Um Marup - Epopée Um Marup, EFEO, Kuala 
Lumpur. 
23. Po Dharma (2007), “Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử”, 
Kỷ yếu hội thảo về Ngôn ngữ và chữ viết Chăm (CD Rom), Kuala 
Lumpur. 
24. Po Dharma (2012), Vương quốc Champa: Lịch sử 33 năm cuối cùng, IOC 
Champa, San Jose. 
Đổng Thành Danh. Bàn thêm về sự du nhập... 93 
25. Bá Trung Phụ (2007), “Đạo Bàni của người Chăm ở Việt Nam”, Nghiên 
cứu Tôn giáo, số 12: 52 - 56. 
26. Bá Trung Phụ (2014), “Hồi giáo Bàni của người Chăm ở Việt Nam”, 
trong Những vấn đề văn hóa - xã hội người Chăm ngày nay, Nxb. Trẻ, 
Tp. Hồ Chí Minh: 48 - 59. 
27. Thành Phần (2011), “Một số vấn đề nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng 
- tôn giáo truyền thống của người Chăm hiện nay ở Việt Nam”, trong 
Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc 
gia, Tp. Hồ Chí Minh: 217 - 227. 
28. Thành Phần (2014), “Bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống 
qua lễ tục Ew Mukkei, Lễ hội Katé - Ramawan và lễ hội Rija Nagar”, 
trong Những vấn đề văn hóa - xã hội người Chăm ngày nay, Nxb. Trẻ, 
Hồ Chí Minh: 05 - 31. 
29. Ravaisse.R (1922),“Deux inscriptions çoufiques du Campa”, in Journal 
Asiatique XX: 247 - 289. 
30. Sakaya (2008), “Raja Praong Ritual: a Memory of the Sea in Cham- 
Malay Relations”, in Ocean and Earth Sciences, Institute of Ocean and 
Earth Sciences, University of Malaya, Monograph, Series 3: 97 - 111. 
31. Sakaya (2010), Văn hóa Chăm nghiên cứu và phê bình, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội. 
32. Sakaya (2013), Tiếp cận một số vấn đề văn hóa Champa, Nxb. Tri thức, 
Hà Nội. 
33. Spencer Tucker (2009), The Encyclopedia of the Spanish-American and 
Philippine-American Wars: A Political, Social, and Military History, Vol 1. 
Abstract 
A FURTHER DISCUSSION ON INTRODUCTION OF ISLAM 
INTO CHAMPA 
This article reviews the main views concerning the time and the origin 
of Islam’s introduction into Champa in the past and of the Chăm in 
Vietnam at the present. The author examines and evaluates scientific 
foundations and the validity of these views so as to propose his own 
views and contributes to investigation into the process of Islam’s 
introduction into Champa. 
Keywords: Islam, introduction, Southeast Asia, Champa, the Chăm. 

File đính kèm:

  • pdfban_them_ve_su_du_nhap_cua_islam_giao_o_champa.pdf