Quốc hiệu nhà Lý

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1054, sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh

Tông đặt ra quốc hiệu là Đại Việt ( “kiến quốc hiệu viết Đại Việt” 建國號曰大

),(1) và từ đó về sau được các triều đại Trần, Hậu Lê, Lê trung hưng, chúa Trịnh

- Nguyễn vẫn sử dụng lại quốc hiệu này (quốc hiệu Đại Việt chỉ bị gián đoạn khi

nhà Hồ cải quốc hiệu là Đại Ngu và chấm dứt vào thời nhà Nguyễn với quốc hiệu

mới là Việt Nam). Hầu như mọi sử gia, học giả trong và ngoài nước Việt Nam từ

xưa đến nay đều tin tưởng không chút hoài nghi là quốc hiệu Đại Việt do vua Lý

Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra. Tuy nhiên, trong bài viết “Nhận thức mới về quốc

hiệu nhà Đinh”,(2) chúng tôi đã gợi ý, nhận định như sau: “Sự xuất hiện quốc hiệu

Đại Việt trên viên gạch thời Đinh ở Hoa Lư đã là bằng chứng quan trọng để phủ

nhận định kiến xưa nay về quốc hiệu Đại Việt do Lý Thánh Tông đặt ra. Sự thật là

nhà Lý chỉ dùng lại tên nước cũ từ thời Đinh - Tiền Lê mà thôi”.

Bài viết này sẽ tiếp tục mở rộng và đi sâu hơn vào vấn đề này để xác định

một lần nữa về quốc hiệu Đại Việt không phải do Lý Thánh Tông đặt ra lần đầu

tiên trong lịch sử.

pdf 5 trang yennguyen 960
Bạn đang xem tài liệu "Quốc hiệu nhà Lý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quốc hiệu nhà Lý

Quốc hiệu nhà Lý
134 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
QUỐC HIỆU NHÀ LÝ
 Đinh Văn Tuấn*
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1054, sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh 
Tông đặt ra quốc hiệu là Đại Việt ( “kiến quốc hiệu viết Đại Việt” 建國號曰大
越),(1) và từ đó về sau được các triều đại Trần, Hậu Lê, Lê trung hưng, chúa Trịnh 
- Nguyễn vẫn sử dụng lại quốc hiệu này (quốc hiệu Đại Việt chỉ bị gián đoạn khi 
nhà Hồ cải quốc hiệu là Đại Ngu và chấm dứt vào thời nhà Nguyễn với quốc hiệu 
mới là Việt Nam). Hầu như mọi sử gia, học giả trong và ngoài nước Việt Nam từ 
xưa đến nay đều tin tưởng không chút hoài nghi là quốc hiệu Đại Việt do vua Lý 
Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra. Tuy nhiên, trong bài viết “Nhận thức mới về quốc 
hiệu nhà Đinh”,(2) chúng tôi đã gợi ý, nhận định như sau: “Sự xuất hiện quốc hiệu 
Đại Việt trên viên gạch thời Đinh ở Hoa Lư đã là bằng chứng quan trọng để phủ 
nhận định kiến xưa nay về quốc hiệu Đại Việt do Lý Thánh Tông đặt ra. Sự thật là 
nhà Lý chỉ dùng lại tên nước cũ từ thời Đinh - Tiền Lê mà thôi”.
Bài viết này sẽ tiếp tục mở rộng và đi sâu hơn vào vấn đề này để xác định 
một lần nữa về quốc hiệu Đại Việt không phải do Lý Thánh Tông đặt ra lần đầu 
tiên trong lịch sử.
Tài liệu khảo cổ, thư tịch liên quan đến quốc hiệu Đại Việt thời Lý
Hai tài liệu sử - địa thuộc hàng sớm nhất là Đại Việt sử lược(3) và An Nam chí 
lược(4) (khoảng đời Trần), thật đáng ngạc nhiên, lại không hề ghi chép gì về sự kiện 
trọng đại vào năm 1054, Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu Đại Việt. Quốc hiệu “Đại 
(Cù) Việt” của Đinh Tiên Hoàng cũng không thấy nhắc đến. Sẽ có người cho là do 
tính chất “sơ lược” của tác phẩm nên các soạn giả đã bỏ qua. Luận điểm này không 
thuyết phục vì sự kiện quan trọng là đặt quốc hiệu mới của nước nhà đối với sử 
gia là không thể xem thường rồi bỏ qua được và trong một tác phẩm sử - địa dù là 
sơ lược lại càng phải chú trọng nêu ra, bằng chứng là quốc hiệu “Vạn Xuân” của 
Lý Bí, Nam Việt Đế đã được Đại Việt sử lược ghi nhận. Ngay cả sách Việt điện u 
linh(5) chuyên chép các thần tích nhưng khi viết về Lý Nam Đế vẫn không quên ghi 
nhận quốc hiệu “Vạn Xuân”. Chỉ có thể giải thích hợp lý là thời Đinh và Lý thật 
sự không chính thức đặt ra quốc hiệu mới nên các soạn giả đã không ghi nhận. Sau 
đây là các bằng cứ chứng minh lý giải này: 
Trong văn khắc bia đá đời Lý có một tấm bia đã khắc quốc hiệu Đại Việt, đó 
là bia Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (大越國當
*	 Thành	phố	Biên	Hòa.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017 135
家第四帝崇善延齡塔碑)(6) do Nguyễn Công Bật soạn, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 
2 (1121), tuy nhiên cũng khoảng đời Lý, lại có tấm bia không khắc quốc hiệu Đại 
Việt mà lại là Cự Việt (鉅 越), đó là ở bia Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi 
minh tự (鉅越國太尉李公石碑銘序),(7) khuyết danh, niên đại khoảng năm 1159 và 
văn khắc chuông đồng Thiên Phúc tự hồng chung minh văn (天福寺洪鐘銘文), 
cũng viết tên nước là Cự Việt (巨越) ở đoạn văn: Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên 
trong nước Cự Việt (道行禪師緣化巨越國).(8) 
Quốc hiệu Cự Việt chưa từng được ghi nhận trong các tài liệu sử học xưa nay, 
vậy tại sao lại là Cự Việt? Chữ Hán cự 鉅 và 巨 là hai chữ đồng âm, đồng nghĩa: 
lớn. Chữ đại 大 cũng có nghĩa là lớn, nên có thể dùng 鉅 và 巨 (lớn) để viết thay. 
Nhưng, liệu Đại Việt, nếu đúng là một quốc hiệu chính thức được đặt ra và ban bố 
vào đời vua Lý Thánh Tông và các đời vua Lý sau vẫn sử dụng có được phép viết 
khác chữ, dù là chữ đồng nghĩa hoặc là biện pháp kỵ húy hay không? Chắc chắn 
là không vì đó là khi quân phạm thượng. Theo ý tôi, sự xuất hiện cách viết khác 
nhau về quốc hiệu như trên chỉ chứng tỏ, thật ra vào đời Lý, không có một quốc 
hiệu chính thức do vua ban bố thi hành. Vua Lý Thái Tổ trong Chiếu dời đô (遷都
詔)(9) đã gọi tên nước là VIỆT trong Việt bang (越邦) và theo Văn hiến thông khảo 
đời Nguyên do Mã Đoan Lâm biên soạn(10) đã dẫn tài liệu đời Tống là Quế Hải ngu 
hành chí (桂海虞衡志) do Phạm Thành Đại (1126 - 1193) biên soạn và sau đến 
Tục tư trị thông giám(11) cũng đã ghi nhận nhà Lý từng sử dụng ấn “Nam Việt quốc 
ấn” (南越國印) trên văn thư ngoại giao Tống - Việt. Tuy sử Việt không nói đến ấn 
này, nhưng nguồn tài liệu ở trên có thể tin cậy vì bằng chứng là An Nam chí lược 
từng xác nhận vua Tống đã truy phong cho Lý Công Uẩn là Nam Việt vương vào 
cuối đời Lý, bài “Chiếu nhường ngôi” (禪位詔) của Lý Chiêu Hoàng(12) cũng đã 
từng gọi nước ta là Nam Việt quốc (南越國). Những tên gọi nước vào đời Lý như 
Việt, Đại Việt, Cự Việt, Nam Việt đã cho thấy tên gọi nước phổ biến nhất chỉ là 
VIỆT và các chữ ở đầu như Đại, Cự, Nam chẳng qua là tiếng thậm xưng (lớn) hay 
từ chỉ vị trí (phương Nam) mà thôi. Không chỉ ở đời Lý, tên nước ta gọi là VIỆT 
mà trước đó vào đời Đinh - Tiền Lê cũng vậy, bằng chứng là những viên gạch thời 
Đinh - Tiền Lê ở Hoa Lư có dấu ấn nổi Đại Việt quốc quân thành chuyên (大越国
軍城塼)(13) và theo Đại Việt sử lược, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho thái tử Đinh 
Liễn là “Nam Việt vương”, vương hiệu này đã được Đinh Liễn cho khắc vào cột 
kinh Phật bằng đá ở Hoa Lư(14) và qua đời Tiền Lê(15) cũng thế, nhà Tống phong cho 
Lê Hoàn là “Nam Việt vương”.(16) Rõ ràng tên nước thời Đinh, Tiền Lê là VIỆT 
và chữ Đại hay Nam chỉ là phụ thêm. Sự xuất hiện hai chữ Đại Việt trên gạch thời 
Đinh,(17) trước hết là bằng chứng phủ nhận quốc hiệu “Đại (Cù) Việt” thời Đinh do 
Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép(18) và cũng phủ nhận luôn thông tin do Đại Việt sử 
ký toàn thư khẳng định về Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt.
136 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
Tóm lại, với các bằng chứng thư tịch, di vật khảo cổ thì từ đời Đinh, Tiền Lê 
đến đời Lý đã xác định một sự thật lịch sử: Chỉ có tên gọi nước phổ biến là VIỆT 
và đứng trước chữ VIỆT có thể tùy ý dùng các chữ như Đại, Cự, Nam. Thông tin 
từ Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra quốc 
hiệu Đại Việt là một ngộ nhận và sự ngộ nhận này có nhiều khả năng do tin tưởng 
vào thư tịch Trung Hoa. Tài liệu cổ Trung Hoa liên quan đến quốc hiệu Đại Việt 
đời vua Lý Thánh Tông, sớm nhất hiện biết là sách Mộng Khê bút đàm(19) do Thẩm 
Quát biên soạn khoảng 1088, đây là tài liệu cùng thời Lý Thánh Tông, sách có 
đoạn: Đến Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông), bèn tiếm xưng là “Pháp Thiên Ứng Vận 
Sùng Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh 
Thần Hoàng Đế”, tôn (Lý) Công Uẩn là “Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế”, quốc hiệu 
là Đại Việt. Sau đó đến bộ Tống sử,(20) sách này được Thoát Thoát vâng lệnh vua 
Nguyên biên soạn lại vào khoảng năm 1343 cũng ghi chép đại ý như vậy: Nhật Tôn 
(Lý Thánh Tông) tự xưng Đế ở nước này, tiếm xưng là Pháp Thiên Ứng Vận Sùng 
Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh Thần 
Hoàng Đế, tôn (Lý) Công Uẩn làm “Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế”, quốc hiệu là 
Đại Việt. Hai thông tin trên đã xác định dữ kiện lịch sử: Bắt đầu từ Lý Thánh Tông 
mới tự xưng đế chứ trước đó Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông không xưng đế và thời 
điểm này trong nước có hay đang dùng quốc hiệu là Đại Việt chứ không xác định 
quốc hiệu mới đặt ra. Các sử gia của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, chắc chắn đã tham 
khảo các tài liệu trên và tự suy diễn bằng đoạn văn: Đặt quốc hiệu là Đại Việt (建
國號曰大越), cách dùng chữ kiến (建) nghĩa là dựng lên, đặt ra như muốn khẳng 
định là Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra quốc hiệu Đại Việt. Nhưng, như trên đã 
luận chứng, trước Đại Việt sử ký toàn thư, sách Đại Việt sử lược và An Nam chí 
lược đều không nhắc đến sự kiện Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu Đại Việt và quan 
trọng nhất, sự phát hiện gạch Hoa Lư vào thế kỷ X có dấu ấn Đại Việt đã chứng 
minh đời Lý Thánh Tông thật ra cũng chỉ dùng lại tên gọi nước cũ là Đại Việt mà 
thôi và không thể có điều nghịch lý rằng, Lý Thánh Tông lấy tên nước cũ của nhà 
Đinh rồi ban bố thành một quốc hiệu mới! 
Kết luận
Kể từ khi Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định về sự kiện vua Lý Thánh Tông 
vào năm 1054 đã đặt ra quốc hiệu Đại Việt là từ đó về sau, mọi sử gia, học giả 
trong và ngoài nước cho đến nhà biên soạn sách giáo khoa, nhà giáo đều tin tưởng 
không chút hoài nghi rằng đó là một sự thật lịch sử và vẫn mặc nhiên lưu truyền, 
giảng dạy phổ biến cho các thế hệ sau. Thế nhưng, qua tìm hiểu và khảo chứng từ 
thư tịch cổ Việt-Hoa và các chứng tích khảo cổ, chúng tôi phát hiện ra một sự thật 
lịch sử khác, có giá trị khoa học đã chứng minh thông tin của Đại Việt sử ký toàn 
thư về quốc hiệu đời Lý là một sự ngộ nhận vì đã suy diễn lệch lạc từ thư tịch Trung 
Hoa: Vào khoảng đời Đinh, dù Đinh Bộ Lĩnh sau khi thống nhất đất nước, xưng đế 
nhưng vẫn không đặt ra quốc hiệu mới là Đại (Cù) Việt mà chỉ dùng tên gọi nước 
cũ, phổ biến (sớm nhất có thể bắt đầu từ Lý Bí với đế hiệu Nam Việt Đế) là Việt như 
Đại Việt và Nam Việt. Tiếp sau đến nhà Tiền Lê, tên nước cũng thường gọi là Đại 
Việt, Nam Việt. Khi nhà Lý khởi nghiệp, từ đời Lý Thái Tổ đến Lý Chiêu Hoàng, 
trong nước vẫn thường xưng tên nước là Việt, Đại Việt, Cự Việt, Nam Việt. Sự thật 
là vua Lý Thánh Tông chưa từng đặt quốc hiệu mới là Đại Việt vào năm 1054 như 
Đại Việt sử ký toàn thư đã từng ghi chép.
 Biên Hòa, Ngày 28 tháng 4 năm 2017
 Đ V T
CHÚ THÍCH
(1) Viện Khoa học Xã hội (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
(2) Đinh Văn Tuấn, “Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh”, tạp chí Xưa & Nay, số 368, 369.
(3) 越史略, nguồn: 
%E5%8F%B2%E7%95%A.
(4) Lê Tắc (2009), An Nam chí lược, Trần Kinh Hòa (dịch), Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa 
Ngôn ngữ Đông Tây. 
(5) Việt điện u linh (1994), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3b, Nxb KHXH, Hà Nội.
(6) Phạm Thị Thùy Vinh, “Về tư liệu văn khắc Hán Nôm thời Lý”, tạp chí Hán Nôm, số 6 (121).
(7) Trịnh Khắc Mạnh, “Bước đầu tìm hiểu những giá trị của văn bia Việt Nam đối với việc nghiên 
cứu tư tưởng chính trị xã hội nước ta thời phong kiến”, tạp chí Hán Nôm, số 2/1998.
(8) Nguyễn Hữu Vinh (dịch và giới thiệu), Thích Thiện Niệm (đính chính), “Thiền sư Từ Đạo 
Hạnh và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc”, nguồn: trangnhahoaihuong.com.
(9) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd.
(10) 文獻通考, nguồn: 
B6%8A%E5%9C%8B%E5%8D%B0.
(11) 續資治通鑑, nguồn: https://books.google.com.vn/books?id=XNBkBAAAQBAJ&pg=PT1859&l
pg=PT1859&dq=%22%E5%8D%97%E8%B6%8A%E5%9C%8B%E5%8D%B0%22&source
=bl&ots=TqgdS3BSQL&sig=WXlRFNCzFTNtLow0HEESUzprS-I&hl=vi&sa=X&redir_esc=y#
v=onepage&q=%22%E5%8D%97%E8%B6%8A%E5%9C%8B%E5%8D%B0%22&f=false.
(12) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd.
(13) Nguyễn Văn Đoàn, “Khai quật di tích cố đô Hoa Lư năm 2009 - 2010: Kết quả và vấn đề”, 
tạp chí Khảo cổ học, số 3/2010. 
(14) Hà Văn Tấn, “Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư”, tạp chí Nghiên cứu 
Lịch sử, số 76, 1965. Trong Theo dấu các văn hóa cổ (1997), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
(15) Ở truyện Sóc Thiên Vương (Tỳ Sa Môn Vương) trong sách Lĩnh Nam chích quái (tục biên) 
đã dẫn Thiền uyển tập anh để ghi nhận tên nước thời vua Lê Đại Hành gọi là “Cự Việt 
quốc” (巨越國) (theo Lĩnh Nam chích quái bình giải, nguồn: https://trandinhhoanh.wordpress.
com/2010/07/03/linh-nam-chich-quai-truy%E1%BB%87n-soc-thien-v%C6%B0%C6%A1ng/ 
do Nguyễn Hữu Vinh, Trần Đình Hoành biên soạn). Trong sách này có “Lời hậu bạt” (bạt 
137Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
cuối sách) - Lĩnh Nam chích quái liệt truyện quyển 3 (tục loại) của Đoàn Vĩnh Phúc, ghi năm 
hoàn thành là đầu năm Quang Bảo (1554), trong khi bản Thiền uyển tập anh xưa nhất còn 
lại là bản Vĩnh Thịnh thứ 11(1715) không có “Cự Việt quốc”, có lẽ đã được nhuận sắc lại. 
Vậy thời Tiền Lê đã từng gọi tên nước là “Cự Việt” có đúng hay không cần phải tìm thêm 
chứng cứ khác. 
(16) An Nam chí lược, sách đã dẫn.
(17) Cho đến nay chưa có nhà khảo cổ, sử học trong và ngoài nước nào đã phủ nhận một cách 
thuyết phục về xuất xứ, thời đại ra đời của gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên ở Hoa Lư. 
Cũng có người cho rằng gạch này xuất xứ từ nước Đại Việt của Lưu Nham. Dưới đời nhà 
Đường - Hậu Lương, Lưu Nham mưu đồ lập quốc, xưng đế ở Phiên Ngu (Quảng Châu) và 
đặt quốc hiệu là “Đại Việt” vào năm 917 nhưng vào năm 918, lại đổi quốc hiệu là Đại Hán, 
sử sách còn gọi là Nam Hán. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, có thể gạch Đại Việt 
quốc quân thành chuyên được sản xuất ở Quảng Châu nhưng sau đó nhà Đinh (khởi nghiệp 
từ năm 968) đã sử dụng (mua lại gạch cũ ở Quảng Châu hay dùng lại số gạch đã nhập từ 
trước) gạch Đại Việt này để xây thành Hoa Lư? Nhưng ý kiến này không thuyết phục vì cho 
đến nay giới khảo cổ học Quảng Châu, Trung Quốc chưa thấy phát hiện, công bố gạch Đại 
Việt quốc quân thành chuyên ở Quảng Châu, mà lẽ ra phải có rất nhiều từ lòng đất. Dĩ nhiên, 
gạch ĐVQQTC được sản xuất tại Hoa Lư nước Đại Việt thời nhà Đinh là hợp lý hơn.
(18) Xem "Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh", bđd.
(19) Nguyên văn: 至日尊, 乃僭稱 法天應運崇仁至道慶成龍祥英武睿文尊德聖神皇帝,尊公蘊為太祖
神武皇帝,國號大越. 夢溪筆談, Tứ khố toàn thư, nguồn: 
192&page=28#%E5%A4%A7%E8%B6%8A.
(20) Nguyên văn: 日尊自帝其國,僭稱法天應運崇仁至道慶成龍祥英武睿文尊德聖神皇帝,尊公蘊爲太
祖神武皇帝, 國號大越. 宋史, “Tứ khố toàn thư”, nguồn: 
6228&page=204#%E5%A4%A7%E8%B6%8A.
TÓM TẮT
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1054, vua Lý Thánh Tông đặt tên nước là Đại 
Việt. Sự kiện này được các nhà sử học mặc nhiên thừa nhận từ trước đến nay.
Thế nhưng, qua tìm hiểu và khảo chứng từ thư tịch cổ Việt - Hoa, tác giả bài viết này cho 
rằng, dưới thời Lý, trong nước vẫn thường xưng tên nước là Việt, Đại Việt, Cự Việt, Nam Việt, là 
những tên nước đã từng được sử dụng ở các triều đại trước. Sự thật là vua Lý Thánh Tông chưa 
từng đặt quốc hiệu mới là Đại Việt vào năm 1054 như Đại Việt sử ký toàn thư đã chép. 
ABSTRACT
VIETNAMESE COUNTRY NAME UNDER THE LÝ DYNASTY
According to Đại Việt sử ký toàn thư (Complete Annals of Đại Việt), in 1054, King Lý 
Thánh Tông named the country Đại Việt. This event has been implicitly acknowledged by 
historians. However, by checking evidence from ancient Vietnamese and Chinese bibliography, 
the author states that under the Lý Dynasty, our country was simply called Việt. The names of 
Đại Việt, Cự Việt or Nam Việt were used in previous dynasties. It is true that King Lý Thánh 
Tông never names our country Đại Việt in 1054 as recorded by Đại Việt sử ký toàn thư. 
138 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017

File đính kèm:

  • pdfquoc_hieu_nha_ly.pdf