Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai

TÓM TẮT

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta. Góp phần vào thắng

lợi của Cách mạng tháng Tám có vai trò quan trọng của các căn cứ địa cách mạng. Bắc Sơn - Võ

Nhai là căn cứ địa đầu tiên được hình thành trong thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939-1945

dựa trên cơ sở về yếu tố địa lí, lịch sử, con người. Trong đó, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng

9/1940) đã đặt tiền đề cho sự hình thành và phát triển của căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Bài viết

tập trung làm rõ mối liên hệ giữa cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn với sự hình thành căn cứ địa Bắc Sơn -

Võ Nhai.

pdf 8 trang yennguyen 1020
Bạn đang xem tài liệu "Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai

Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 135 
TỪ KHỞI NGHĨA BẮC SƠN ĐẾN CĂN CỨ ĐỊA BẮC SƠN - VÕ NHAI 
Bùi Thị Thu Thủy 
Học viện Cảnh sát Nhân dân 
TÓM TẮT 
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta. Góp phần vào thắng 
lợi của Cách mạng tháng Tám có vai trò quan trọng của các căn cứ địa cách mạng. Bắc Sơn - Võ 
Nhai là căn cứ địa đầu tiên được hình thành trong thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939-1945 
dựa trên cơ sở về yếu tố địa lí, lịch sử, con người... Trong đó, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 
9/1940) đã đặt tiền đề cho sự hình thành và phát triển của căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Bài viết 
tập trung làm rõ mối liên hệ giữa cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn với sự hình thành căn cứ địa Bắc Sơn - 
Võ Nhai. 
Từ khóa: Khởi nghĩa; Bắc Sơn; du kích Bắc Sơn; căn cứ địa; Bắc Sơn - Võ Nhai... 
Ngày nhận bài: 07/5/2019; Ngày hoàn thiện: 22/5/2019; Ngày duyệt đăng: 06/6/2019 
FROM THE BACSON UPRISING TO THE BACSON – VONHAI 
REVOLUTIONARY BASE 
Bui Thi Thu Thuy 
The People’s Police Academy Portal 
ABSTRACT 
The Vietnamese August Revolution in 1945 was a great milestone in Vietnamese history. The 
revolutionary bases played an important role in contributing to the victory of the Revolution. The 
first Bacson-Vonhai revolutionary base was established during the period of national liberation 
campaign between 1939 and 1945 based on geographical, historical and human factors... In 
particular, the Bac Son uprising (in September, 1940) set the premise for the formation and 
development of Bac Son - Vo Nhai base. This article focuses on clarifying the connection between 
the Bacson uprising and the establishment of the Bacson-Vonhai revolution base. 
Keywords: Uprising; Bacson; Bacson guerrilla; revolutionary base; Bacson - Vonhai... 
Received: 07/5/2019; Revised: 22/5/2019; Approved: 06/6/2019 
Email: vanduyvc@gmail.com
Bùi Thị Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 136 
1. Mở đầu 
Căn cứ địa cách mạng là khu vực lãnh thổ có 
đầy đủ các yếu tố “địa lợi, nhân hòa”, “tiến 
khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, có cơ sở vững 
chắc về chính trị và quân sự, được dùng làm 
nơi xây dựng lực lượng cách mạng (bao gồm 
lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang) để từ 
đó phát triển rộng ra các nơi khác; là nơi cung 
cấp sức mạnh về vật chất, quân sự, nguồn cổ 
vũ về tinh thần, chính trị trong cách mạng [1, 
tr. 77]. Nhận thức được vai trò quan trọng của 
căn cứ địa với cuộc cách mạng giải phóng dân 
tộc, ngay từ năm 1940, Đảng Cộng sản Đông 
Dương đã chủ trương xây dựng vùng Bắc Sơn 
- Võ Nhai thành căn cứ địa. 
2. Nội dung 
2.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn và những cơ sở để 
hình thành căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai 
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai 
bùng nổ. Sự kiện này đã chấm dứt thời kỳ vận 
động dân chủ 1936 - 1939 do Đảng lãnh đạo 
và mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt 
Nam - thời kỳ vận động giải phóng dân tộc. 
Ngày 22/9/1940, quân Nhật tràn qua biên giới 
Việt - Trung tiến đánh Lạng Sơn, Hải Phòng. 
Chỉ trong vài ngày, quân Pháp đã thất bại, 
chính quyền địch ở vùng này đã hoàn toàn tan 
rã, một số đầu hàng, còn lại rút chạy theo 
đường Điềm He - Bình Gia - Bắc Sơn về Thái 
Nguyên. Trước tình hình đó, nhân dân ở 
nhiều địa phương đã tự động thu nhặt súng 
đạn, có nơi còn đón đường tước vũ khí của 
tàn binh Pháp, trừng trị những tên tri châu, tri 
phủ ác ôn. Chính quyền tay sai của địch ở một 
số địa phương hoang mang, tan rã. 
Không bỏ lỡ cơ hội trên, rạng sáng ngày 
25/9/1940, một số đảng viên vừa thoát khỏi 
nhà tù Lạng Sơn trở về địa phương như: Nông 
Văn Cún (tức Thái Long), Hoàng Đình Ruệ 
đã họp với các đồng chí trong chi bộ Hưng 
Vũ, Bắc Sơn (Dương Công Bình, Hoàng Văn 
Hán) tại làng Nông Lục (xã Hưng Vũ) để 
trao đổi tình hình và thảo luận phương hướng 
hành động. Cuộc họp quyết định đề ra chủ 
trương chỉ đạo quần chúng, sử dụng tất cả các 
lực lượng của quần chúng tiến hành khởi 
nghĩa, đánh đồn Mỏ Nhài, giành chính quyền 
ở Bắc Sơn. Ngay sau đó, một số đồng chí đã 
đi về các xã Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, 
Trấn Yên, vận động quần chúng, chuẩn bị 
vũ khí để tiến hành khởi nghĩa. 
Sáng 27/9/1940, một hội nghị quan trọng giữa 
các tổ đảng Bắc Sơn và các chiến sĩ cộng sản 
từ Lạng Sơn về đã được triệu tập. Hội nghị 
trao đổi tình hình, thông qua chủ trương khởi 
nghĩa và quyết định đấu tranh vũ trang ngay 
trong ngày hôm ấy. Giờ khởi nghĩa được chọn 
vào lúc chập tối, từ 7 giờ 30 phút đến 8 giờ. 
Kế hoạch khởi nghĩa cụ thể như sau: 
“1. Thành lập ban chỉ huy khởi nghĩa gồm các 
đồng chí Hoàng Văn Hán, Dương Công Bình, 
Hoàng Đình Duệ, Đường Văn Thức và Thái Long. 
2. Chỉ định ban phụ trách đánh đồn Mỏ Nhài 
gồm các đồng chí Hoàng Văn Hán, Hoàng 
Đình Ruệ và Dương Công Bình. 
3. Cử cán bộ đi báo cáo quyết định khởi nghĩa 
với các đồng chí trong ban cán sự Tỉnh ủy. 
4. Cử một số đồng chí về các tổ Đảng phổ 
biến quyết định khởi nghĩa và trao trách 
nhiệm cho các tổ Đảng huy động đảng viên 
và quần chúng nơi mình tham gia khởi nghĩa. 
5. Cử người đi điều tra tình hình chính quyền 
thực dân ở Bình Gia, để biết rõ lực lượng 
địch ở đấy. 
6. Lực lượng vũ trang đi đánh chiếm đồn Mỏ 
Nhài là các đảng viên có vũ khí ở các tổ đảng, 
các tổng đoàn, xã đoàn, lính dõng, tức là lực 
lượng vũ trang của chính quyền địa phương 
mà các tổ đảng đã nắm được từ trước. 
7. Cử một số đồng chí cùng quần chúng cách 
mạng có vũ trang tiếp tục chặn đánh đám tàn 
binh Pháp” [2, tr. 66-67]. 
Tối 27/9/1940, khoảng 600 quần chúng với 
súng trường, súng kíp, giáo mác... chia làm ba 
mũi tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Khởi nghĩa Bắc 
Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa vừa bắn vừa 
kêu gọi địch đầu hàng. Trước khí thế sục sôi 
và sức tấn công mạnh mẽ của quần chúng, 
Bùi Thị Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 137 
quân địch càng thêm hoang mang và nhanh 
chóng đầu hàng. Quân khởi nghĩa chiếm đồn, 
làm chủ được châu lị. Ngay hôm sau, những 
người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã tổ chức 
mít tinh ngay tại châu lị và tuyên bố chính 
quyền địch không còn. Cùng thời điểm đó, 
một số quần chúng nhân dân ở xã Nam Nhi, 
Tràng Sơn phục kích tàn binh Pháp ở đèo 
Canh Tiến, Thâm Thông. Nhân dân ở Chiêu 
Vũ, Hưng Vũ cũng tổ chức đánh đuổi bọn 
lính Pháp bại trận ở Dập Dị và Nà Ti. 
Lo sợ trước sự tấn công và khí thế của khởi 
nghĩa Bắc Sơn, thực dân Pháp hèn nhát thỏa 
hiệp cùng quân Nhật để quay lại đàn áp 
phong trào cách mạng. Thực dân Pháp tập 
trung lực lượng tiến vào Bắc Sơn theo hai 
hướng: hướng thứ nhất từ Đình Cả - Võ Nhai 
lên, hướng thứ hai từ Bình Gia xuống. Do 
chênh lệch về lực lượng và vũ khí nên thực 
dân Pháp đã chiếm lại được châu lị, tiến hành 
đốt phá các làng bản, bắt bớ, tàn sát, khủng bố 
quần chúng nhân dân, nhằm trả thù quân cách 
mạng, dập tắt cuộc khởi nghĩa. Trước tình thế 
đó, các chiến sĩ Bắc Sơn phải rút vào trong 
rừng sâu hoạt động bí mật. Cuộc khởi nghĩa 
tạm thời lắng xuống. 
Khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại nhưng đã để lại 
những cơ sở quan trọng cho việc hình thành 
căn cứ địa Bắc Sơn -Võ Nhai về sau: 
Một là, khởi nghĩa Bắc Sơn tạo cơ sở chính trị 
để hình thành căn cứ địa. Đồng thời, thổi 
bùng lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng và tạo 
ra bước ngoặt trong hình thức đấu tranh của 
nhân dân nơi đây. Sau khởi nghĩa, phong trào 
đấu tranh của nhân dân tiếp tục diễn ra mạnh 
mẽ dưới nhiều hình thức, tổ chức cơ sở Đảng 
không ngừng lớn mạnh, lực lượng chính trị 
dần được hình thành và phát triển. Đây là cơ 
sở để Trung ương Đảng chủ trương xây dựng 
căn cứ địa cách mạng lấy Bắc Sơn, Võ Nhai 
làm trung tâm. “Nó có tác dụng thức tỉnh quần 
chúng, động viên phong trào cách mạng toàn 
quốc và mở ra thời kì đấu tranh mới cho cách 
mạng Việt Nam” [3, tr. 26]. 
Hai là, khởi nghĩa Bắc Sơn là điều kiện để các 
cán bộ cách mạng được rèn luyện và tập dượt 
đấu tranh, từ xây dựng lực lượng để hình thành 
căn cứ đến chỉ đạo và trực tiếp đấu tranh trên 
căn cứ địa. Trước và sau khởi nghĩa Bắc Sơn, 
nhiều cán bộ như: Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng 
Ninh, Lê Xuân Thụ... đã được đưa lên đây để 
lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Trong quá 
trình tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, nhiều 
thanh niên ưu tú của địa phương đã được giác 
ngộ và hăng hái tham gia phong trào cách 
mạng, sau này đã trở thành cán bộ nòng cốt 
của khu căn cứ địa. Khởi nghĩa Bắc Sơn là 
điều kiện để cán bộ cách mạng trưởng thành 
hơn trong thực tiễn đấu tranh, tạo ra yếu tố 
“nhân hòa” cho sự ra đời của khu căn cứ địa 
sau này. 
Ba là, khởi nghĩa Bắc Sơn để lại cho cách 
mạng những bài học kinh nghiệm quý báu: 
Bài học về chớp thời cơ, chiến tranh du kích... 
Nhận định về khởi nghĩa Bắc Sơn, đồng chí 
Trường Chinh đã đánh giá:“Ưu điểm lớn nhất 
của nhân dân Bắc Sơn là đã kịp thời nổi dậy 
giành chính quyền khi quân đội phát xít Nhật 
xâm lược Lạng Sơn và hàng ngũ quân Pháp 
cùng hàng ngũ tay sai đã hoang mang dao 
động đến cực điểm. Khuyết điểm của khởi 
nghĩa Bắc Sơn là đã không sớm dùng chiến 
tranh du kích để châm ngọn lửa cách mạng ra 
các địa phương khác trong tỉnh Lạng Sơn và 
các tỉnh lân cận” [4, tr. 48]. 
Bốn là, khởi nghĩa Bắc Sơn cho ra đời lực 
lượng vũ trang để làm cơ sở hình thành căn cứ 
địa. Thành quả quan trọng nhất của cuộc khởi 
nghĩa Bắc Sơn mà sau này có ảnh hưởng trực 
tiếp đến sự hình thành căn cứ Bắc Sơn - Võ 
Nhai là khai sinh ra đội du kích Bắc Sơn - một 
trong những tổ chức vũ trang đầu tiên của 
Đảng. Sự lớn mạnh và hoạt động của Đội là cơ 
sở quan trọng nhất để hình thành nên căn cứ địa 
Bắc Sơn - Võ Nhai. 
2.2. Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến căn cứ địa 
Bắc Sơn - Võ Nhai 
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra đã thúc đẩy 
phong trào cách mạng ở nơi đây phát triển 
Bùi Thị Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 138 
phát triển. Trước sự phát triển ngày càng 
mạnh của phong trào cách mạng Bắc Sơn, 
Trung ương Đảng đã quyết định tăng cường 
cán bộ lên Bắc Sơn tham gia lãnh đạo phong 
trào. Đầu tháng 10/1940, Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử 
đồng chí Trần Đăng Ninh lên Bắc Sơn cùng 
đảng bộ địa phương trực tiếp lãnh đạo và xây 
dựng phong trào cách mạng. Ngay sau khi lên 
Bắc Sơn, đồng chí Trần Đăng Ninh đã kiểm 
tra, nắm bắt tình hình và triệu tập một cuộc 
họp với các đảng viên tại Sa Khao - Vũ Lăng 
để trao đổi về phương hướng hoạt động. Qua 
thảo luận, các đồng chí tham dự cuộc họp 
quyết định: Tập trung đảng viên và một số 
quần chúng tích cực, vận động nhân dân thu 
thập vũ khí để thành lập đội du kích Bắc Sơn. 
Xây dựng khu vực Nà Tấu (xã Ngư Viễn), Sa 
Khao, Mỏ Tát, Bản Me, Nam Nhi (xã Vũ 
Lăng) thành căn cứ của đội du kích... Thành 
lập ban chỉ huy đội du kích gồm có các đồng 
chí: Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn... 
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Sa Khao, 
ngày 16/10/1940, Ban chỉ đạo khu du kích Bắc 
Sơn đã tổ chức một cuộc mít tinh diễn thuyết 
tại làng Đon Úy (xã Vũ Lăng) với hơn 100 
người tham gia gồm đảng viên và các quần 
chúng cách mạng. Thay mặt Ban chỉ đạo, đồng 
chí Trần Đăng Ninh tuyên bố: thành lập “Đội 
du kích Bắc Sơn” và kêu gọi nhân dân tích cực 
ủng hộ đội du kích và phong trào cách mạng. 
Đồng chí Trần Đăng Ninh còn giải thích rõ 
đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật của Đảng và 
nêu nhiệm vụ cấp thiết của đảng viên và nhân 
dân địa phương là phải tổ chức bộ đội vũ trang, 
xây dựng căn cứ địa và đánh du kích chống 
khủng bố trắng của giặc. 
Có phương hướng hoạt động cụ thể và được 
sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ, nhân 
dân Bắc Sơn một lòng ủng hộ và đứng lên 
cầm vũ khí đánh giặc. Chỉ trong một thời gian 
ngắn lực lượng du kích đã tăng lên nhanh 
chóng. Khi mới thành lập, đội du kích Bắc 
Sơn có 20 chiến sĩ, được biên chế thành 5 đội, 
đến cuối tháng 10/1940, quân số du kích đã 
tăng tới gần 200 người, biên chế thành từng 
tiểu đội, mỗi tiểu đội là 10 người. 
Trên cơ sở đội du kích Bắc Sơn, khu du kích 
Bắc Sơn cũng dần được hình thành và ngày 
càng mở rộng. Khu du kích được xây dựng 
trên các xã Ngư Viễn, Vũ Lăng, Sa Khao, Mỏ 
Tát, Bản Me. Đây là những xã có cơ sở cách 
mạng trong quần chúng phát triển từ rất sớm. 
Tại khu du kích, các hoạt động tuyên truyền đã 
diễn ra, hoạt động sản xuất được đẩy mạnh để 
đảm bảo nhu cầu tự cung tự cấp. Công tác bảo 
vệ khu du kích cũng được chú trọng, mọi 
người trong khu du kích đều có tinh thần cảnh 
giác cao độ. Khu du kích là chỗ dựa cho du 
kích Bắc Sơn hoạt động. Đội du kích và khu 
du kích Bắc Sơn ra đời nhận sự hưởng ứng và 
ủng hộ của nhân dân địa phương. Từ đây, căn 
cứ địa cách mạng dần được mở rộng sang Thái 
Nguyên. Sự ra đời của đội du kích Bắc Sơn có 
ý nghĩa vô cùng quan trọng, là đơn vị đầu tiên 
của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do 
Đảng ta thành lập và trực tiếp chỉ đạo. 
Chỉ sau một thời gian, đội du kích Bắc Sơn đã 
phát huy được sức mạnh, tác dụng của mình 
trong việc bảo vệ quần chúng, tiễu trừ bọn 
phản động. Đội đã lập được nhiều công lớn: 
Ngày 15/10/1940, du kích đã giết tên xã đoàn 
Niên ở Nà Tấu. Ngày 23/10/1940, một tiểu 
đội du kích đột nhập vào nhà tên Chánh 
hương ở Vũ Lăng, tịch thu tài sản đem chia 
cho dân nghèo. Ngày 24/10/1940, Đội tiến 
công toán lính dõng do Châu đoàn Trịnh Văn 
Nghiêm chỉ huy và chiếm được trường Vũ 
Lăng. Những hoạt động của Đội du kích Bắc 
Sơn đã cổ vũ, động viên tinh thần cho quần 
chúng nhân dân, khiến họ càng thêm tin và tự 
nguyện đi theo cách mạng, giúp cho lực 
lượng của Đội tiếp tục lớn mạnh. Trên thực 
tế, cho đến cuối tháng 10/1940, lực lượng 
quân du kích đã lên đến hai, ba trăm người, 
uy thế rất mạnh. 
Trước sự hình thành, lớn mạnh của đội du 
kích Bắc Sơn và khu du kích Bắc Sơn, Hội 
nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng (diễn ra từ ngày 6 đến ngày 
9/11/1940 tại Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc 
Bùi Thị Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 139 
Ninh) đã có những chủ trương chỉ đạo đối với 
phong trào đấu tranh cách mạng ở Bắc Sơn, 
Võ Nhai. Hội nghị đã quyết định: “Duy trì và 
phát triển đội du kích Bắc Sơn và căn cứ của 
đội du kích để tiến tới xây dựng căn cứ địa 
cách mạng lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm 
trung tâm” [5, tr. 28], đồng thời cũng quyết 
định duy trì và bồi dưỡng lực lượng du kích 
Bắc Sơn để làm “vốn” quân sự đầu tiên cho 
quân khởi nghĩa sau này. Từ đó, công tác xây 
dựng căn cứ địa cách mạng được chú ý quan 
tâm, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung 
tâm. Hội nghị cũng nêu rõ hoạt động của đội 
du kích là dùng hình thức võ trang công tác, 
khi cần thì chiến đấu chống địch khủng bố để 
bảo vệ tài sản và tính mạng của nhân dân, 
phát triển thật sâu rộng các cơ sở cách mạng 
để mở rộng căn cứ du kích. 
Như vậy, sau khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích 
và khu du kích Bắc Sơn đã được hình thành 
và phát triển. Quá trình hoạt động của Đội 
cùng với sự lớn mạnh không ngừng của khu 
du kích là cơ sở thực tiễn để Đảng quyết định 
xây dựng căn cứ địa cách mạng lấy vùng Bắc 
Sơn, Võ Nhai làm trung tâm. 
Sau Hội nghị Trung ương lần 7, Trung ương 
Đảng đã ra “Thông báo khẩn cấp”, chỉ thị các 
địa phương phải có những biện pháp cụ thể để 
ủng hộ khởi nghĩa Bắc Sơn. Xứ ủy Bắc Kỳ 
cũng cấp tốc mở hai lớp huấn luyện quân sự 
ngắn ngày ở Đức Thắng (Bắc Giang). Sau đó, 
các lớp huấn luyện quân sự như vậy được 
chuyển lên Bắc Sơn (Lạng Sơn). Trong lúc 
phong trào cách mạng ở Bắc Sơn gặp nhiều 
khó khăn thì nhận được sự ủng hộ tích cực 
của phong trào cách mạng ở Võ Nhai. Từ đầu 
năm 1941, Trung ương Đảng đã cử một số 
đồng chí lên chi viện, chỉ đạo phong trào cách 
mạng Bắc Sơn: Lương Văn Chi, Nguyễn Cao 
Đàm, Hoàng Văn Thái, 
Đồng chí Lương Văn Chi (tức Giáo hay Huy 
Còm, Ủy viên Thường vụ xứ ủy Bắc Kỳ) 
được Đảng giao nhiệm vụ trực tiếp phụ trách 
mở các lớp huấn luyện quân sự cho đội du 
kích. Ở Võ Nhai, từ đầu tháng 11/1940, đồng 
chí Chu Văn Tấn đã tổ chức đưa một số đảng 
viên và quần chúng tích cực ở các xã Lâu 
Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá lên Bắc Sơn 
bổ sung lực lượng cho đội du kích. Nhờ vậy, 
phong trào cách mạng Bắc Sơn được củng cố, 
từng bước vượt qua những khó khăn kể từ sau 
khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bị đàn áp. 
Phong trào cách mạng Bắc Sơn - Võ Nhai đã 
bắt đầu có những mối liên hệ chặt chẽ hỗ trợ 
lẫn nhau. Đến tháng 12/1940, đội du kích Bắc 
Sơn đã được củng cố lại với khoảng 20 đội 
viên mỗi tiểu đội, được trang bị đầy đủ vũ 
khí: súng trường, súng kíp 
Cuối tháng 2/1941, đoàn đại biểu đi dự Hội 
nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương 
Đảng ở Pác Bó (tỉnh Cao Bằng), đã lên đến 
Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ - Bắc Sơn). Trong thời 
gian dừng chân ở Bắc Sơn, các đồng chí họp 
với Ban chỉ huy đội du kích để nắm tình hình 
và đề ra một số chủ trương, công tác cần kíp. 
Tại cuộc họp ở Khuổi Nọi vào ngày 
23/2/1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt 
Trung ương đưa ra chủ trương là phát triển 
đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân 
làm lực lượng nòng cốt xây dựng và bảo vệ 
khu căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Tích cực 
dùng hình thức vũ trang công tác, củng cố và 
mở rộng căn cứ của đội du kích Bắc Sơn, 
nhanh chóng phát triển lực lượng của mình về 
mọi mặt để kịp khi thời cơ đến thì tiến hành 
khởi nghĩa giành chính quyền. Tại cuộc họp, 
đồng chí đã trao cho đội lá cờ đỏ sao vàng 5 
cánh do Hội phụ nữ phản đế Hà Nội tặng. 
Đồng chí Lương Văn Chi thay mặt đội Cứu 
quốc quân hứa với Trung ương Đảng quyết 
tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng, và 
đọc năm lời thề của đội là: Không phản Đảng; 
tuyệt đối trung thành với Đảng; kiên quyết 
phấn đấu và trả thù cho những đồng chí đã hy 
sinh; không hàng giặc; không hại dân. 
Trong cuộc họp, Trung ương chỉ định đồng 
chí Lương Văn Chi làm chỉ huy trưởng Cứu 
quốc quân, đồng chí Chu Văn Tấn làm chỉ 
Bùi Thị Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 140 
huy phó. Đồng chí Hoàng Văn Thụ còn trực 
tiếp giao cho Ban chỉ huy đội nhiệm vụ tổ 
chức, chỉ huy một tổ Cứu quốc quân dẫn 
đường và bảo vệ đoàn cán bộ đi dự Hội nghị 
Trung ương Đảng lần thứ 8 ở Pác Bó (Hà 
Quảng - Cao Bằng) và nhiệm vụ phát triển 
các tổ chức của quần chúng, lực lượng tự vệ, 
mở rộng địa bàn hoạt động, chuẩn bị điều 
kiện để đến ngày 1/5/1941, khi Trung ương 
trở về sẽ làm lễ ra mắt chính thức trung đội 
Cứu quốc quân. 
Từ sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích 
Bắc Sơn đã ra đời, căn cứ của đội du kích 
không ngừng lớn mạnh. Trên cơ sở đội du kích 
Bắc Sơn được rèn luyện, thử thách trong đấu 
tranh, Trung ương Đảng đã quyết định phát 
triển thành trung đội Cứu quốc quân để làm 
vốn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng 
của Đảng và làm lực lượng nòng cốt xây dựng 
căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Đây là thành 
quả tất yếu của một phong trào cách mạng sôi 
nổi, được hình thành dưới sự lãnh đạo của 
Đảng: “Được Trung ương Đảng chỉ đạo, du 
kích Bắc Sơn sau đó đã phát triển thành Cứu 
quốc quân. Địa bàn hoạt động của đội du kích 
không ngừng mở rộng trên nhiều xã ở Bắc Sơn 
như Hữu Vĩnh, Vũ Lễ và lan xuống Lâu 
Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá, La Hiên (Võ 
Nhai), Cây Thị (Đồng Hỷ, Thái Nguyên). Đó 
cũng chính là những cơ sở đầu tiên của căn cứ 
địa Bắc Sơn - Võ Nhai” [6, tr. 239]. 
Ngay sau khi cuộc họp ở Khuổi Nọi, đồng chí 
Lương Văn Chi đã chỉ huy Cứu quốc quân ra 
sức thực hiện những công tác cấp bách mà 
Trung ương giao phó. Cứu quốc quân tích cực 
hoạt động mở rộng cơ sở, tiến hành trừ gian, 
giết bọn phản động, đẩy mạnh công tác tuyên 
truyền, vận động và tổ chức quần chúng, tích 
cực luyện tập quân sự. Mặt khác, Cứu quốc 
quân còn tổ chức giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ 
căn cứ. Các lớp huấn luyện quân sự và chính trị 
do Xứ ủy Bắc Kỳ tổ chức ở Khuổi Nọi không 
chỉ đào tạo được nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc 
Sơn - Võ Nhai, mà còn đào tạo được một số cán 
bộ cho các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc 
Giang. Hơn nữa, các cuộc mít tinh lớn, hội họp, 
các đoàn thể quần chúng được tổ chức công 
khai. Trong căn cứ địa, sinh hoạt diễn ra rất sôi 
nổi, các cuộc mít tinh liên tiếp được tổ chức. 
Trên diễn đàn, đại biểu của các dân tộc Tày, 
Dao, Nùng, Kinh đã phát biểu nêu rõ niềm tin 
tưởng của mình và hứa sẵn sàng ủng hộ mọi thứ 
khi cách mạng cần. Những cuộc biểu tình, thị 
uy rầm rộ xuống đường từ trong căn cứ ra ngoài 
được nhân dân các dân tộc tham gia ngày càng 
đông, có lực lượng tự vệ bảo vệ. Nhân dân các 
dân tộc ở đây được hưởng một cuộc sống mới, 
bình đẳng, tự do, mọi người đều nguyện gắn bó 
mật thiết cách mạng. 
Ngoài ra, các đồng chí trong Ban chỉ huy Cứu 
quốc quân cũng quyết định mở rộng khu căn 
cứ. Trung đội đã phiên chế lại đội ngũ, phân 
công cụ thể cho từng người, từng đơn vị đi 
mở rộng địa bàn, gây dựng phong trào: Tổ 
của đồng chí Hà Khai Lạc và Khơi Hoàng 
phụ trách Hữu Vĩnh; Dương Thần Tần, Quốc 
Vinh phụ trách Bắc Sơn; Hoàng Văn Hán, 
Hoàng Đình Duệ đi Hưng Vũ; Dương Công 
Bình ở Chiêu Vũ. Đến tháng 4/1941, nhiều 
vùng núi rừng hiểm trở thuộc các xã: Lâu 
Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá (Võ Nhai) 
nối liền với các xã: Vũ Lễ, Vũ Lăng, Hữu 
Vĩnh, Ngư Viễn (Bắc Sơn) đã trở thành khu 
trung tâm của căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. 
Ngày 1/5/1941, các đồng chí lãnh đạo quân du 
kích quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn 
nhân ngày Quốc tế Lao động, đồng thời làm lễ 
ra mắt đội Cứu quốc quân theo chỉ thị của 
Trung ương. Cuộc mít tinh được tổ chức trọng 
thể ở Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn) và 
được đông đảo quần chúng nhân dân Bắc Sơn, 
Võ Nhai hưởng ứng. Thay mặt Ban lãnh đạo 
Cứu quốc quân, chỉ huy trưởng Lương Văn 
Chi đã phát biểu trước cuộc mít tinh, tuyên bố 
quyết định thành lập đội Cứu quốc quân của 
Trung ương Đảng, đọc Năm lời thề danh dự 
của Cứu quốc quân, hứa quyết tâm hoàn thành 
mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao cho. 
Quần chúng cách mạng dự mít tinh hân hoan 
chào đón sự ra đời của đội Cứu quốc quân vì 
Bùi Thị Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 135 - 141 
 Email: jst@tnu.edu.vn 141 
đây là đội quân cách mạng của Đảng và nhân 
dân, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, 
Kinh, ra đời và chiến đấu ngay ở quê hương 
của mình. Hơn nữa, quần chúng nhân dân còn 
bày tỏ niềm tin thiết tha, niềm tự hào lớn lao 
vào con em của chính mình, vào sự lớn mạnh 
của căn cứ địa cách mạng và thành công của 
sự nghiệp giải phóng dân tộc. 
Đầu năm 1941, một tổ Cứu quốc quân đã 
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dẫn đường bảo 
vệ đoàn đại biểu đi họp Hội nghị Trung ương 
Đảng lần thứ 8. Từ Khuổi Nọi đoàn đi qua 
Bình Gia, Văn Mịch, Tràng Định ra Long 
Châu (Quảng Tây, Trung Quốc), tháng 
4/1941 đã vào đến Pác Bó (Hà Quảng - Cao 
Bằng) an toàn. Sau Hội nghị, tổ Cứu quốc 
quân này lại tiếp tục đưa đường và bảo vệ các 
đồng chí Trung ương Đảng trở về căn cứ Bắc 
Sơn - Võ Nhai an toàn vào đầu tháng 7/1941. 
Như vậy, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, 
phát huy tinh thần cách mạng, Cứu quốc quân 
đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị lớn mà 
Trung ương giao phó. Đây là một thành tích 
to lớn của Cứu quốc quân ngay từ những 
ngày đầu thành lập. 
Trên cơ sở đội du kích và khu du kích Bắc Sơn, 
theo chủ trương của Trung ương Đảng về xây 
dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai trong Hội 
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 
11/1940, quân và dân Bắc Sơn - Võ Nhai đã 
cùng nhau đoàn kết, tích cực xây dựng khu căn 
cứ. “Chỉ trong vòng hơn một năm từ ngày có 
chủ trương trên, đến đầu năm 1942, một khu 
căn cứ địa cách mạng rộng lớn đã được hình 
thành và ngày một phát triển. Khu căn cứ này 
lấy Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm bao gồm 
nhiều địa phương thuộc các tỉnh: Thái Nguyên, 
Lạng Sơn, Bắc Giang, Tuyên Quang. Trong quá 
trình xây dựng khu căn cứ, Cứu quốc quân 
đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Những 
cán bộ chiến sĩ cứu quốc quân đã không quản 
ngại khó khăn, trong hoàn cảnh bị địch bao 
vây, cô lập, họ không chỉ cùng với quân và dân 
Bắc Sơn - Võ Nhai xây dựng một trung tâm căn 
cứ mạnh mà họ còn vượt vòng vây quân thù tiến 
sang các địa bàn ngoài trung tâm để xây dựng 
các cơ sở cách mạng nhằm mở rộng địa bàn 
khu căn cứ” [7, tr. 316]. 
3. Kết luận 
Sự ra đời, phát triển của căn cứ địa Bắc Sơn - 
Võ Nhai có vai trò quan trọng trong quá trình 
chuẩn bị lực lượng cho cách mạng tháng Tám 
năm 1945. Trước hết căn cứ Bắc Sơn - Võ 
Nhai mở rộng giúp cho quân du kích có thêm 
địa bàn để hoạt động đấu tranh du kích, xây 
dựng phát triển các cơ sở cách mạng. Căn cứ 
địa này có vị trí rất quan trọng, nó nối liền với 
căn cứ địa Cao Bằng và là bàn đạp để phát 
triển phong trào cách mạng từ Bắc xuống 
Nam, từ miền núi xuống đồng bằng, “một 
hành lang chính trị được đánh thông nối liền 
hai căn cứ địa lớn nhất ở miền Bắc nước ta: 
căn cứ địa Cao Bằng và căn cứ địa Bắc Sơn - 
Võ Nhai, tạo điều kiện cho việc ra đời khu 
giải phóng Việt Bắc sau này” [8, tr. 49]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Từ điển thuật ngữ 
lịch sử phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia, Hà 
Nội, 2010. 
[2]. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Lạng Sơn, 
Lịch Sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và 
Nhân dân huyện Bắc Sơn (1930 - 1954), Xí 
nghiệp in 1 - Thông tấn xã Việt Nam - Hà 
Nội, 1990. 
[3]. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng khu tự trị Bắc Thái, 
Lịch sử Cứu quốc quân, Nxb Việt Bắc, 1975. 
[4]. Trường Chinh, Diễn văn đọc trong lễ kỉ niệm 
lần thứ 40 ngày khởi nghĩa Bắc Sơn, Báo 
Nhân dân ngày 30/9/1980. 
[5]. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đảng 
1939 - 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963. 
[6]. Trần Bá Đệ (chủ biên), Một số chuyên đề lịch sử 
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
[7]. Vũ Quang Hiển (chủ biên), Cách mạng tháng 
Tám năm 1945 (Một số chuyên khảo), Nxb 
Đại học Thái Nguyên, 2013. 
[8]. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, 
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nxb Sự 
Thật, Hà Nội, 1963. 
  Email: jst@tnu.edu.vn 142 

File đính kèm:

  • pdftu_khoi_nghia_bac_son_den_can_cu_dia_bac_son_vo_nhai.pdf