Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

Tóm tắt. Xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện bản chất

của nền tư pháp quốc gia nên việc bảo vệ quyền con người được thể hiện tập trung nhất trong hoạt

động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở này, tác giả bài viết đã chỉ ra các giải pháp bảo đảm quyền con

người, quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

pdf 8 trang yennguyen 3980
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 
157 
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân 
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự 
Nguyễn Ngọc Chí** 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
 144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 22 tháng 3 năm 2011 
Tóm tắt. Xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện bản chất 
của nền tư pháp quốc gia nên việc bảo vệ quyền con người được thể hiện tập trung nhất trong hoạt 
động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở này, tác giả bài viết đã chỉ ra các giải pháp bảo đảm quyền con 
người, quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp 
và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. 
*Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) có vị trí 
quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người 
thông qua biện pháp trấn áp kịp thời, xử lý công 
minh theo đúng pháp luật đối với mọi hành vi 
phạm tội xâm hại tới các quyền của công dân 
đảm bảo tất cả mọi tội phạm đều bị phát hiện và 
xử lý. Đồng thời, pháp luật TTHS còn quy định 
chặt chẽ các trình tự, thủ tục trong quá trình giải 
quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng 
(CQTHTT), người tiến hành tố tụng hình sự 
(NTHTT) nhằm tôn trọng quyền con người, 
tránh sự lợi dụng của người và cơ quan có thẩm 
quyền khi tiến hành tố tụng. Đây là hai định 
hướng, hai lĩnh vực của pháp luật TTHS trong 
việc bảo vệ quyền con người bên cạnh nhiệm 
vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích của nhà nước 
và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN). 
Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án hình 
sự các CQTHTT hình sự được áp dụng biện 
pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập 
chứng cứ và các biện pháp cưỡng chế nhà nước 
______ 
* ĐT: 84-4-37547512. 
 E-mail: chinn1957@yahoo.com 
khác nhằm ngăn chặn, làm rõ và xử lý tội phạm. 
Việc qui định những biện pháp cưỡng chế này 
trong luật tố tụng hình sự (LTTHS) mang tính 
khách quan, là yêu cầu tất yếu của cuộc đấu tranh, 
phòng ngừa tội phạm ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, 
khi các CQTHTT sử dụng các biện pháp cưỡng 
chế sẽ tạo ra nguy cơ hạn chế các quyền tự do cơ 
bản của con người. Nói một cách khác, hoạt động 
TTHS với các biện pháp cưỡng chế dễ trở thành 
mối đe dọa thực tế với quyền con người nếu vi 
phạm các quy định của luật về điều kiện, trình tự, 
thủ tục, căn cứ áp dụng. 
Xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình 
giải quyết vụ án hình sự thể hiện bản chất của 
nền tư pháp quốc gia nên việc bảo vệ quyền con 
người được thể hiện tập trung nhất trong hoạt 
động xét xử của Tòa án. Quyền được xét xử 
công bằng là một trong những nội dung quan 
trọng của Luật nhân quyền quốc tế, theo Điều 
10 của Luật này thì mọi người đều bình đẳng về 
quyền được xét xử công bằng và công khai bởi 
một Tòa án độc lập và khách quan để xác định 
các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất 
cứ sự buộc tội nào đối với họ. Tòa án, trước hết 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 158 
phải được nhận thức là công cụ để bảo vệ 
quyền con người thông qua hoạt động xét xử 
độc lập, khách quan, công bằng bởi thủ tục tố 
tụng chặt chẽ, minh bạch tạo thuận lợi cho hoạt 
động bào chữa cũng như hạn chế việc lợi dụng 
việc tiến hành tố tụng xâm phạm quyền con 
người của các CQTHTT. Như vậy, khi đề cập 
đến những bảo đảm quyền con người trong hoạt 
động xét xử của tòa án phải xem xét cả khía 
cạnh lập pháp và thực thi pháp luật TTHS với 
tiêu chí hoạt động xét xử khách quan, công 
bằng, công khai và do một tòa án độc lập tiến 
hành. Với cách tiếp cận này, bài viết sẽ đề cập 
đến việc bảo đảm quyền con người trong hoạt 
động xét xử ở nước ta với các nội dung sau: 
1. Lựa chọn mô hình tố tụng hình sự hướng 
tới việc bảo vệ quyền con người phù hợp với 
điều kiện Việt Nam 
Thế giới hiện nay đang có hai mô hình tố 
tụng hình sự tiêu biểu đó là mô hình TTHS 
thẩm vấn (xét hỏi) và mô hình TTHS tranh tụng 
với những ưu điểm và hạn chế của chúng. Dưới 
góc độ bảo vệ quyền con người thì mô hình 
TTHS tranh tụng được coi là có ưu thế hơn so 
với các loại mô hình TTHS khác nên nhiều 
nước đã lựa chọn mô hình TTHS này hoặc tiếp 
thu những yếu tố tranh tụng phù hợp để đưa vào 
luật TTHS của quốc gia mình. Lựa chọn mô 
hình TTHS nào trong quá trình thực hiện cải 
cách tư pháp ở nước ta là một vấn đề quan 
trọng, cơ bản và được nhiều người quan tâm. 
Có ý kiến cho rằng để thực hiện yêu cầu về cải 
cách tư pháp mà Nghị quyết 08-NQ/TW và 
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra 
thì cần phải chuyển hoạt động tố tụng hiện hành 
sang kiểu tố tụng tranh tụng một cách triệt để. 
Ý kiến này dựa trên những ưu điểm của tố tụng 
tranh tụng và xu thế chuyển đổi sang mô hình 
TTHS tranh tụng của một số quốc gia trên thế 
giới. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng: 
Thứ nhất, mỗi mô hình tố tụng hình (thẩm 
vấn hay tranh tụng) đều có một cách thức tổ 
chức nhà nước tương ứng phù hợp, mô hình 
TTHS tranh tụng thường gắn liền với nhà nước 
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc 
phân quyền ở những quốc gia theo hệ thống 
pháp luật án lệ - Common law, còn mô hình tố 
tụng xét hỏi tồn tại trong những nước theo hệ 
thống Civil Law mà tiêu biểu là Pháp và Đức. 
Vì vậy, nếu thực hiện việc chuyển đổi hoạt 
động TTHS sang mô hình TTHS tranh tụng ở 
nước ta đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về tổ 
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về 
nguyên tắc và thủ tục tố tụng, về tổ chức các cơ 
quan điều tra, truy tố, xét xử Điều này không 
những phụ thuộc vào tính chất của nhà nước ta, 
mà còn đòi hỏi thời gian, công sức và cần có sự 
nghiên cứu sâu sắc, đồng bộ chứ không thể một 
sớm một chiều mà thực hiện ngay được; 
Thứ hai, bên cạnh ưu điểm thì mô hình tố 
tụng tranh tụng có hạn chế là tốn kém, kéo dài, 
dễ bỏ lọt tội phạm, việc đấu tranh phòng ngừa 
tội phạm ít có hiệu quả hơn so với mô hình tố 
tụng thẩm vấn, người nghèo ít có cơ hội hơn 
trong việc sử dụng công cụ pháp lý trước Tòa 
án... những hạn chế này tồn tại trong chính cách 
thức và sự vận hành của mô hình tố tụng tranh 
tụng. Vì thế, chúng ta không thể tiếp thu một cách 
máy móc cả những ưu điểm và hạn chế của mô 
hình tố tụng này mà không có sự chọn lọc; 
Thứ ba, thực tiễn giải quyết vụ án và thực 
trạng về đội ngũ điều tra viên, công tố viên, 
thẩm phán, luật sư chưa đáp ứng đòi hỏi của mô 
hình tố tụng tranh tụng. Những năm qua chúng 
ta đã có nhiều giải pháp nâng cao năng lực cho 
đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố 
tụng tuy nhiên so với yêu cầu thì số lượng và 
chất lượng chưa đáp ứng được đòi hỏi của công 
cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Đây là nhiệm 
vụ không thể hoàn thành trong thời gian ngắn 
mà phải có lộ trình trong nhiều năm đòi hỏi sự 
cố gắng của nhà nước và toàn xã hội với chiến 
lược tổng thể gắn liền với chiến lược phát triển 
đất nước. Với những phân tích trên thì chúng ta, 
trong điều kiện hiện nay không thể chọn cải 
cách tư pháp theo hướng chuyển đổi sang mô 
hình tố tụng tranh tụng một cách hoàn toàn. 
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể giữ 
nguyên mô hình tố tụng hình hiện tại. Trong số 
các nghiên cứu những năm gần đây ở Việt Nam 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 159 
về vấn đề này không một ai nêu ra quan điểm 
giữ nguyên mô hình TTHS hiện hành, dù trực 
tiếp hay gián tiếp các ý kiến đều cho rằng cần 
có sự đổi mới, bởi các lý do: 1/ Nền tư pháp của 
chúng ta hoạt động còn kém hiệu quả trong việc 
đấu tranh, xử lý và phòng ngừa tội phạm, quyền 
và lợi ích hợp pháp của công dân còn bị xâm 
phạm, tính công khai, minh bạch, dân chủ trong 
TTHS còn hạn chế, còn để lọt tội phạm và làm 
oan người vô tội; 2/ Do yêu cầu phát triển kinh 
tế xã hội đòi hỏi phải có nền tư pháp năng động, 
minh bạch, dân chủ đủ đảm bảo để pháp luật và 
công lý được tôn trọng; 3/ Do yêu cầu của công 
cuộc cải cách hành chính đòi hỏi. Cải cách tư 
pháp và cải cách hành chính là những cải cách 
thể chế xuất phát từ yêu cầu và hướng đến sự 
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời 
cải cách tư pháp phải phù hợp, hỗ trợ trong tiến 
trình cải cách hành chính nên cải cách tư pháp 
nói chung và việc lựa chọn mô hình TTHS nói 
riêng xuất phát từ nhu cầu của cải cách hành 
chính; 4/ Do yêu cầu hội nhập quốc tế, hợp tác 
quốc tế trong TTHS đòi hỏi có mô hình tố tụng 
phù hợp. Từ những phân tích nêu trên, chúng 
tôi cho rằng lựa chọn mô hình TTHS thẩm vấn 
tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp với điều 
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý nước ta 
của mô hình TTHS tranh tụng vào thời điểm 
hiện nay là hợp lý. Lựa chọn mô hình TTHS 
theo hướng này kế thừa, phát huy những ưu 
điểm của TTHS truyền thống của Việt Nam, 
tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp của mô 
hình tố tụng tranh tụng trong điều kiện Việt 
Nam, khắc phục được những hạn chế vốn có 
của cả hai mô hình TTHS. Mô hình TTHS này 
còn đảm bảo tính thống nhất của các nguyên tắc 
tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ 
nghĩa trong việc tổ chức hệ thống các cơ quan 
tiến hành tố tụng nói riêng cũng như hệ thống 
các cơ quan nhà nước khác và toàn bộ hệ thống 
chính trị trong xã hội ta. Đồng thời mô hình tố 
tụng này phù hợp với các điều kiện hiện có của 
Việt Nam về năng lực của đội ngũ trong các cơ 
quan tiến hành tố tụng, điều kiện về cơ sở vật 
chất, trang thiết bị của các cơ quan tiến hành tố 
tụng và trình độ pháp lý của xã hội ta cũng như 
sự hội nhập quốc tế [1]. 
2. Bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong hoạt 
động xét xử 
Độc lập xét xử của tòa án được coi là nền 
tảng cho sự bình đẳng, dân chủ, khách quan 
trong TTHS và nó tác động mạnh mẽ đến việc 
bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc độc lập 
xét xử của Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan 
xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp, 
theo J.Clifford Wallace - Thẩm phán Tòa án 
Tối cao Hoa kỳ thì độc lập tư pháp cần được 
nhận thức rộng rãi như việc bảo đảm nhân 
quyền “Mọi người đều có quyền tham gia phiên 
toà một cách công khai và được các Thẩm phán 
xét xử một cách độc lập và vô tư, khách 
quan”[2]. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là 
công thức pháp lý chứa đựng các giá trị được 
thừa nhận chung trong Nhà nước pháp quyền 
đối với không chỉ trong hoạt động xét xử của 
Thẩm phán và Hội thẩm mà cả trong hoạt động 
điều tra, truy tố của điều tra viên, kiểm sát viên 
[3]. Trên cơ sở những học thuyết, quan điểm về 
vị trí, chức năng của Tòa án trong nhà nước 
pháp quyền hiện đại đối chiếu với thực tiễn Việt 
Nam thì những bảo đảm để Tòa án xét xử độc 
lập là: a) Cải cách tổ chức hệ thống Tòa án. 
Trên cơ sở đánh giá mô hình tổ chức tòa án 
hiện hành, Nghị quyết quyết 49/NQ-TW của Bộ 
chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đã chỉ 
ra “Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, 
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”. Đây 
là định hướng đúng đắn đáp ứng được đòi hỏi 
trước mắt cũng như lâu dài đối với việc hoàn 
thiện hệ thống Tòa án ở nước ta. Thay đổi cách 
thức tổ chức Tòa án dựa trên tiêu chí địa giới 
hành chính sang tiêu chí chức năng, thẩm quyền 
xét xử là sự đổi mới có tính chất then chốt, đột 
phá trong cải cách tư pháp có ý nghĩa bảo đảm 
nguyên tắc độc lập của Tòa án, mặt khác bảo 
đảm được tính hiệu quả và hiệu lực của toàn bộ 
hệ thống Tòa án, khắc phục được những hạn 
chế của hệ thống Tòa án hiện nay. Trên cơ sở 
tiêu chí này thì hệ thống Tòa án theo Nghị 
quyết 49/NQ-TW sẽ bao gồm “Tòa án sơ thẩm 
khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị 
hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có 
nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử 
sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 160 
chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc 
thẩm; Tòa án nhân dân Tối cao có nhiệm vụ 
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp 
dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và 
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Định hướng 
đúng đắn này có trở thành hiện thực hay không 
phụ thuộc vào việc triển khai tích cực của các 
cơ quan hữu quan nhất là những cơ quan tư 
pháp, bởi “Tòa án độc lập là một trong những 
nguyên tắc cơ bản nhất đồng thời cũng là một 
nguyên tắc khó thực hiện nhất của các chế độ 
dân chủ, kể cả của nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa lẫn của cả nền dân chủ tư bản chủ nghĩa” 
[4]; b) Hoàn thiện BLTTHS 2003 theo hướng 
loại bỏ những qui định không thuộc chức năng 
xét xử của Tòa án như: Qui định của Điều 10 
BLTTHS 2003 về nguyên tắc “xác định sự thật 
của vụ án” trong đó có qui định trách nhiệm 
chứng minh tội phạm thuộc về Tòa án; Điều 13 
BLTTHS 2003 về trách nhiệm khởi tố vụ án 
hình sự của Tòa án; hoặc trách nhiệm đấu tranh 
phòng, chống tội phạm của Tòa án cũng cần 
phải được nhìn nhận trong một giới hạn ở việc 
trấn áp bằng hình phạt và các biện pháp cưỡng 
chế hình sự khác thông qua các bản án và bằng 
thuyết phục, giáo dục người phạm tội thông qua 
đó thực hiện việc phòng ngừa chung và phòng 
ngừa riêng đối với tội phạm. Với cách tiếp cận 
này thì việc Tòa án xét xử công minh, kịp thời, 
đúng pháp luật các vụ án hình sự đã đủ để công 
nhận tòa án hoạt động có hiệu quả, ngay cả khi 
số tội phạm tăng lên. Chỉ có như vậy Tòa án 
mới có thể tập trung vào chức năng xét xử và 
tính độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án 
mới được tôn trọng. c) Tăng cường những bảo 
đảm khác để Tòa án được độc lập trong hoạt 
động xét xử như: năng lực, trình độ, chế độ đãi 
ngộ với thẩm phán và cán bộ tòa án... 
3. Các nguyên tắc của luật TTHS phải bảo 
đảm để hoạt động xét xử khách quan, công 
bằng, công khai 
Điều 11 Luật nhân quyền quốc tế qui định: 
Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều 
được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh 
là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa xét 
xử công khai nơi người đó được bảo đảm 
những điều kiện cần thiết để bào chữa cho 
mình. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất 
kỳ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu 
thành tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia 
hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện 
hành vi hay sự tắc trách đó. Cũng không ai bị 
tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được qui 
định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực 
hiện. Tư tưởng này đã được thể hiện trong các 
nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 và nó là 
những phương châm định hướng được áp dụng 
ở tất cả các giai đoạn của TTHS, đặc biệt ở giai 
đoạn xét xử vụ án hình sự. Những nguyên tắc 
cơ bản của luật TTHS mang tính khách quan và 
việc tuân thủ qui luật khách quan trong hoạt 
động TTHS là tiền đề bảo đảm xác định sự thật 
khách quan của vụ án hình sự, bảo đảm quyền 
con người của các chủ thể tham gia hoạt động 
TTHS. Chính vì vậy, mọi hoạt động xét xử của 
Toà án muốn hướng tới việc bảo vệ quyền con 
người phải dựa trên những nguyên tắc TTHS 
với hai định hướng (1) xử lý nhanh chóng, kịp 
thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm phạm 
quyền con người và (2) đảm bảo tính khách 
quan, công bằng, không làm ảnh hưởng tới 
quyền con người khi tiến hành hoạt động xét 
xử. Ngoài những nguyên tắc cơ bản được áp 
dụng ở tất cả các giai đoạn TTHS, khi xét xử 
Tòa án còn áp dụng những nguyên tắc đặc thù 
qui định trong BLTTHS 2003. Đó là những 
nguyên tắc sau: 
3.1. Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và 
liên tục 
Tòa án phải trực tiếp xác định những tình 
tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của 
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn 
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 
đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, 
người làm chứng, người giám định, xem xét vật 
chứng và nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người 
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. 
Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã 
được xem xét tại phiên tòa. Ngoài ra, việc xét 
xử phải tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 161 
3.2. Nguyên tắc xét xử công khai 
Điều 18 BLTTHS 2003 qui định nguyên tắc 
này với nội dụng: Việc xét xử của tòa án được 
tiến hành công khai, mọi người đều có quyền 
tham dự, trừ trường hợp nội dung vụ án liên 
quan đến bí mật quốc gia hoặc xâm phạm 
nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục hoặc để 
giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính 
đáng của họ. Những trường hợp này Tòa án sẽ 
xử kín nhưng khi tuyên án phải công khai. 
3.3. Đảm bảo việc thực hiện tranh tụng tại 
phiên tòa 
Theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của 
Bộ Chính trị về cải cách tư pháp thì tại phiên 
tòa phải thực hiện tranh tụng nhằm đảm bảo 
giải quyết vụ án khách quan, khắc phục tình 
trạng oan, sai. Tòa án, Viện kiểm sát phải tạo 
mọi điều kiện thuận lợi để bị cáo, người tham 
gia tố tụng đặc biệt là người bào chữa thực hiện 
quyền tranh tụng và tất cả các quyết định của 
Hội đồng xét xử phải dựa vào kết quả tranh 
tụng tại phiên tòa. Trên tinh thần đó, BLTTHS 
2003 đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục phiên 
tòa tại Chương XX đảm bảo cho việc tranh tụng 
giữa các bên trong vụ án hình sự. Quy định về 
tranh tụng tại phiên tòa của BLTTHS 2003 là 
bước tiến quan trọng trong lộ trình cải cách tư 
pháp ở nước ta hướng tới xây dựng Nhà nước 
pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền con người. 
3.4. Nguyên tắc suy đoán vô tội với nội dung 
không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu 
hình phạt khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực 
pháp luật của Tòa án 
Nguyên tắc này phù hợp với qui định của 
Luật quốc tế nhân quyền, bảo đảm cho quyền 
con người được tôn trọng trong quá trình tiến 
hành tố tụng. 
3.5. Bảo đảm thực hành nguyên tắc hai cấp xét xử 
 Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để 
đảm bảo tính khách quan, thận trọng tránh bỏ 
lọt tội phạm và làm oan người vô tội, BLTTHS 
quy định nguyên tắc thực hành hai cấp xét xử 
với nội dung sau: a) Tòa án thực hiện chế độ hai 
cấp xét xử; b) Bản án, quyết định sơ thẩm của 
Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo 
quy định của BLTTHS. Bản án và quyết định 
sơ thẩm của Tòa án trong thời hạn luật quy định 
(15 hoặc 30 ngày) chưa có hiệu lực pháp luật. 
Trong thời hạn đó bị cáo và những người tham 
gia tố tụng khác có quyền kháng cáo, Viện 
kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát trên một 
cấp có quyền kháng nghị bản án và quyết định 
sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. 
Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng 
cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc 
thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực 
pháp luật; c) Bản án, quyết định sơ thẩm không 
bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ 
luật TTHS quy định thì có hiệu lực pháp luật; d) 
Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có 
hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm 
pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét 
lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. 
3.6. Bảo đảm cơ cấu thành phần Hội đồng xét xử 
Một trong những nguyên tắc cơ bản của 
Luật TTHS là khi xét xử có Hội thẩm tham gia. 
Nguyên tắc này một mặt đảm bảo quyền của 
công dân được tham gia vào công việc của nhà 
nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của 
công dân đồng thời giúp cho việc giải quyết vụ 
án khách quan phù hợp với thực tế đời sống xã 
hội. Thể hiện tinh thần đó, BLTTHS 2003 quy 
định khi xét xử có Hội thẩm tham gia: “Việc xét 
xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, 
của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân 
tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét 
xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” 
(Điều 15 BLTTHS). Thành phần Hội đồng xét 
xử sơ thẩm bao gồm một Thẩm phán và hai Hội 
thẩm nhân dân, đối với vụ án phức tạp thành 
phần Hội đồng xét xử bao gồm hai Thẩm phán 
và ba Hội thẩm nhân dân. Khi cần thiết Hội 
đồng xét xử phúc thẩm cũng có Hội thẩm tham 
gia. Đối với những vụ án là người chưa thành 
niên phạm tội thì tham gia Hội đồng xét xử phải 
là những Hội thẩm có sự hiểu biết về tâm sinh 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 162 
lý trẻ em, phải là người của Đoàn thanh niên 
Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc là giáo viên. Tất 
cả các trường hợp không có Hội thẩm tham gia 
hoặc thiếu số lượng Hội thẩm hoặc thành phần 
Hội thẩm không đúng như quy định của pháp 
luật thì đều bị coi là vi phạm pháp luật tố tụng 
một cách nghiêm trọng và đều bị kháng nghị để 
xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm. Việc 
tham gia xét xử của Hội thẩm là quy định cần 
thiết mang tính chất bắt buộc và không mang 
tính hình thức. Luật TTHS cũng quy định “Khi 
xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”, 
tức là Hội thẩm có quyền và nghĩa vụ như 
Thẩm phán trong tất cả các khâu của quá trình 
xét xử từ nghiên cứu hồ sơ đến việc quyết định 
các nội dung của bản án theo nguyên tắc “Tòa 
án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”. 
3.7. Giám đốc việc xét xử 
Giám đốc xét xử là việc Tòa án cấp trên 
kiểm tra tính đúng đắn về hoạt động xét xử của 
Tòa án cấp dưới. Trong thực tiễn xét xử do 
những lý do khác nhau Tòa án cấp dưới có 
những sai lầm, thiếu sót trong quá trình giải 
quyết vụ án, vì vậy việc giám đốc của Toà án 
cấp trên nhằm khắc phục những sai lầm thiếu 
sót đó là cần thiết, góp phần vào bảo vệ pháp 
chế XHCN, xử lý công minh, không để lọt tội 
phạm hoặc làm oan người vô tội. Điều 21 
BLTTHS quy định: “Tòa án cấp trên giám đốc 
việc xét xử của Tòa án cấp dưới, TANDTC 
giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và 
Tòa án Quân sự các cấp để việc áp dụng pháp 
luật được nghiêm chỉnh và thống nhất”. Theo 
quy định này, thì chỉ có TAND cấp tỉnh, Tòa án 
quân sự cấp quân khu trở lên có quyền giám 
đốc và TANDTC có quyền giám đốc việc xét 
xử đối với bản án của tất cả các Tòa án. Giám 
đốc việc xét xử thể hiện ở việc Toà án cấp trên 
xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án cấp 
dưới thông qua các hoạt động: kiểm tra phát 
hiện những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp 
dưới; giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà 
nước, tổ chức xã hội và của công dân về các 
bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật; 
tổng kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn Tòa án 
cấp dưới áp dụng pháp luật thống nhất; kháng 
nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực 
pháp luật theo thủ tục giám đốc. Thông qua các 
hoạt động này Toà án cấp trên kịp thời uốn nắn, 
khắc phục những sai lầm trong công tác xét xử 
của Toà án cấp dưới. 
Những nguyên tắc trên của BLTTHS 2003 
đã thể hiện được tinh thần của các văn kiện 
quốc tế về quyền con người, tuy nhiên để bảo 
đảm tính hiệu quả của Tòa án trong việc bảo vệ 
quyền con người thông qua hoạt động xét xử 
hơn nữa thì cần loại bỏ một số hoạt động không 
thuộc chức năng xét xử của Tòa án. Đó là thẩm 
quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét 
xử; Là trách nhiệm chứng minh tội phạm của 
Tòa án và cần phải bổ sung một số nguyên 
tắc khác vào BLTTHS, nhất là nguyên tắc tranh 
tụng trong hoạt động xét xử. 
4. Bảo đảm quyền của bị cáo và những người 
tham gia tố tụng khác trong hoạt động xét xử 
Các quyền tố tụng của bị cáo và những 
người tham gia tố tụng khác được qui định 
trong LTTHS và những bảo đảm thực hiện các 
quyền đó là biểu hiện của mức độ bảo vệ quyền 
con người của một quốc gia. BLTTHS 2003 qui 
định cụ thể các quyền của bị cáo và những 
người tham gia tố tụng khác với mục tiêu bảo 
đảm các quyền của họ khi tham gia tố tụng, 
tránh các nguy cơ bị hạn chế, bị xâm phạm 
trong hoạt động TTHS. Tuy nhiên, trong quá 
trình tiến hành tố tụng hình sự nói chung và 
hoạt động xét xử của tòa án nói riêng, quyền 
của bị cáo và những người tham gia tố tụng còn 
bị vi phạm dẫn đến việc xét xử không khách 
quan, thiếu công bằng, còn để làm oan người vô 
tội. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật TTHS và thực 
thi nghiêm chỉnh các qui định đó cũng như phải 
có biện pháp bảo đảm có hiệu quả là những yếu 
tố quan trọng để bảo đảm quyền con người. 
Trong số các quyền của bị cáo thì quyền bào 
chữa giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc 
bảo vệ quyền con người cũng như tính khách 
quan của quá trình giải quyết vụ án hình sự. 
Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 163 
chữa của bị cáo là những đảm bảo pháp lý để 
thực hiện việc “phản biện” đối với lời buộc tội 
của CQTHTT là cơ sở để Tòa án xác định sự 
thật khách quan vụ án, đưa ra phán quyết đúng 
người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền 
con người được tôn trọng. Nhận xét về việc 
tham gia bào chữa trong thời gian gần đây, Luật 
sư Phan Trung Hoài nhận xét “về tổng thể 
chung, hoạt động tham gia tố tụng của người 
bào chữa nói chung, luật sư nói riêng trong các 
giai đoạn tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp cho những người bị tình nghi 
phạm tội còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn từ 
nhận thức, quan niệm của những người tiến 
hành tố tụng, cho đến những bất cập trong trong 
thủ tục, qui trình giải quyết những yêu cầu của 
pháp luật” [5]. Khắc phục những hạn chế đó 
trong việc bảo đảm quyền của bị cáo và những 
người tham gia tố tụng khác trong điều kiện cải 
cách tư pháp cần tác động đến các yếu tố sau: a) 
Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về quyền của 
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo 
hướng dân chủ, minh bạch, tạo điều kiện để thực 
hiện có hiệu quả việc tranh tụng tại phiên tòa; b) 
xây dựng cơ chế và những biện pháp bảo đảm 
thực hiện các quyền của bị cáo và những người 
tham gia tố tụng khác trong hoạt động tố tụng 
hình sự; c) Xây dựng cơ chế giám sát, phát hiện 
và xử lý vi phạm đối với các hành vi xâm hại 
hoặc cản trở việc thực hiện quyền của bị cáo và 
những người tham gia tố tụng khác. 
5. Xây dựng thủ tục xét xử chặt chẽ, dân chủ, 
minh bạch hướng tới việc bảo vệ quyền con 
người 
Giải quyết vụ án hình sự nói chung và xét 
xử vụ án hình sự nói riêng không thể thiếu các 
quy định chặt chẽ về trình tự và thủ tục tố tụng 
hay còn gọi là hình thức tố tụng. Thủ tục tố 
tụng là những điều kiện cần thiết do luật định 
khi thực hiện những hành vi tố tụng cụ thể, để 
thực thi quyền và lợi ích tố tụng của những 
người tham gia tố tụng. Lý luận và thực tiễn đã 
chỉ ra rằng thủ tục tố tụng được xem như là một 
trong những biện pháp bảo đảm quan trọng cho 
hoạt động xét xử và bảo đảm quyền con người 
nên vi phạm quy định về thủ tục tố tụng được 
xem như là căn cứ để hủy bỏ các quyết định, 
bản án trong TTHS. BLTTHS 2003 qui định 
thủ tục xét xử trong khuôn khổ của mô hình 
TTHS thẩm vấn nên tính công khai, dân chủ, 
tranh tụng còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả 
của việc bảo đảm quyền con người trong hoạt 
động xét xử. Vì vậy, khi hoàn thiện luật TTHS 
về thủ tục xét xử phải dựa trên cơ sở lựa chọn 
mô hình tố tụng hình sự (đã phân tích ở mục 1). 
Nếu lựa chọn mô hình TTHS đan xen (trên cơ 
sở mô hình TTHS thẩm vấn tiếp thu tối đa 
những yếu tố phù hợp của mô hình TTHS tranh 
tụng) thì thủ tục xét xử sẽ phải có nhiều qui 
định đảm bảo việc tranh tụng một cách thực 
chất tại phiên tòa. Mặt khác, thủ tục xét xử mặc 
dù là trung tâm của TTHS nhưng phải có mối 
quan hệ với các thủ tục tố tụng ở các giai đoạn 
khác nhau của quá trình giải quyết vụ án hình 
sự nên tính chặc chẽ, minh bạch, dân chủ của 
thủ tục xét xử phụ thuộc và tác động đến thủ tục 
điều tra, truy tố, thi hành án hình sự. Với cách 
tiếp cận này sẽ đưa đến một thủ tục tố tụng hình 
sự phù hợp với tư tưởng bảo vệ quyền con 
người trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự 
khi hoàn thiện BLTTHS 2003. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Ngọc Chí, Việc lựa chọn mô hình tố tụng 
hình sự trong quá trình cải các tư pháp ở Việt Nam, 
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (2010) 265. 
[2] J.Clifford Wallace, “Khắc phục tham nhũng tư 
pháp trong khi phải đảm bảo độc lập tư pháp”, 
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8 (2006) 41. 
[3] Nguyễn Ngọc Chí, Một số yếu tố ảnh hưởng tới 
nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và 
chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và 
pháp luật, số 2 (2009) 10. 
[4] Nguyễn Đăng Dung, Cải cách tư pháp trong 
quyền lực nhà nước, Tạp chí Khoa học, chuyên 
san Luật học, số 25 (2009) 14. 
[5] Phan Trung Hoài, Quyền và nghĩa vụ của người 
bào chữa trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải 
các tư pháp, Hội thảo về quyền con người trong tố 
tụng hình sự của Viên Kiểm sát nhân dân tối cao, 
Hà Nội, tháng 4/2010. 
N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 157-164 164 
Ensure human rights, citizen rights 
in the judicial activities of criminal 
Nguyen Ngoc Chi 
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam 
Trial work is the heart of the process of settling a criminal case, it reflects the nature of the 
national judiciary, should be the protection of human rights is reflected most concentrated here. On 
this basis, the author points out the solutions to ensure human rights, citizen rights in the judicial 
activities of the criminal case, meeting the requirements of judicial reform and building rule of law 
Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfbao_dam_quyen_con_nguoi_quyen_cong_dan_trong_hoat_dong_xet_x.pdf