Biểu tượng vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ
Tóm tắt
Biểu tượng Vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ có nguồn gốc từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước,
hình thành trong bối cảnh giao lưu, tiếp biến văn hóa với các quốc gia đồng văn châu Á, được các nghệ
nhân Đông Hồ chuyển hóa thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu. Điển hình là những hình tượng
được tạo dựng trong ba tác phẩm: Thổi sáo trên lưng trâu; Thả diều trên lưng trâu và Cá chép trông trăng.
Ba tác phẩm này đã đạt đến trình độ biểu tượng nghệ thuật, biểu đạt cho tư tưởng giải thoát, giả lập bản thể tâm hồn con người đến cảnh giới Vô ngã, tự do tự tại, hòa nhập với thiên nhiên vô cùng vô tận.
Bạn đang xem tài liệu "Biểu tượng vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biểu tượng vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 78 Biểu tượng vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ The symbol of “vô ngã” in Dong Ho folk painting Nguyễn Đình Kỳ Trường Đại học Thủ Dầu Một Nguyen Dinh Ky Thu Dau Mot University Tóm tắt Biểu tượng Vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ có nguồn gốc từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, hình thành trong bối cảnh giao lưu, tiếp biến văn hóa với các quốc gia đồng văn châu Á, được các nghệ nhân Đông Hồ chuyển hóa thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu. Điển hình là những hình tượng được tạo dựng trong ba tác phẩm: Thổi sáo trên lưng trâu; Thả diều trên lưng trâu và Cá chép trông trăng. Ba tác phẩm này đã đạt đến trình độ biểu tượng nghệ thuật, biểu đạt cho tư tưởng giải thoát, giả lập bản thể tâm hồn con người đến cảnh giới Vô ngã, tự do tự tại, hòa nhập với thiên nhiên vô cùng vô tận. Từ khóa: biểu tượng, vô ngã, tranh dân gian Đông Hồ. Abstract The symbol of Selflessness in Dong Ho folk painting originated from the agricultural civilization of wet rice cultivation, being formed by the context of exchanges, acquired and transformed by the same language countries in Asia, transformed into the typically art image by Dong Ho Craftsman. Typically, the images were created in three works: Thoi sao tren lung trau; Tha dieu tren lung trau and Ca chep trong trang. These three works have reached the level of artistic symbolism, expressing the idea of liberation, emulating the essence of human soul to the high limit of Selflessness, freedom, integration with boundless nature. Keywords: symbol, selflessness, Dong Ho folk painting. 1. Đặt vấn đề Biểu tượng là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, nó vừa mang những đặc trưng văn hóa chung vừa chứa đựng những sắc thái văn hóa riêng của mỗi cộng đồng, dân tộc, quốc gia và thời đại. Vì thế, hành trình tìm kiếm và nghiên cứu biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình là hành trình khám phá con đường trở về cội nguồn văn hoá và cũng là cuộc hành trình hướng đến những giá trị chân - thiện - mĩ của con người. Tranh dân gian Đông hồ là một trong những thành tố có tính đặc thù của nền văn hóa, trải qua hơn 500 năm tồn tại và phát triển nó đã trở thành bức tranh sinh động đa sắc màu về thế giới biểu tượng. Trong đó nhóm biểu tượng Vô Ngã dù xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng đã được các nghệ nhân Đông Hồ chuyển hóa qua hình tượng nghệ thuật một cách sáng tạo. Điển hình là những hình tượng được NGUYỄN ĐÌNH KỲ 79 tạo dựng trong ba tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu; Thả diều trên lưng trâu và Cá chép trông trăng. Các tác phẩm này đã trở thành những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu biểu đạt cho thế giới quan, nhân sinh quan và khát vọng vươn lên xây dựng cuộc sống tươi đẹp, ấm no hạnh phúc của người dân lao động vùng Kinh Bắc xưa. 2. Nội dung 2.1. Khái niệm biểu tượng và biểu tượng Vô ngã + Biểu tượng Biểu tượng (symbol) là thuật ngữ xuất hiện rất sớm từ ngôn ngữ cổ châu Âu (trong tiếng La Mã gọi là symbolus và trong tiếng Hy Lạp gọi là symbolon). Xuất phát từ mục đích sử dụng của các ngành khoa học mà thuật ngữ này có sự biến ảo cả về sắc thái lẫn ý nghĩa. Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là hình ảnh tượng trưng, nghĩa thứ hai là hình ảnh nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt [6; tr. 140]; Đồng với quan điểm trên, Từ điển Tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Ngôn ngữ học lại cho ví dụ cụ thể hơn, biểu tượng có hai nghĩa: “1) Hình ảnh tượng trưng. Chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình. 2) Hình thức nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật tác động vào giác quan ta đã chấm dứt” [7; tr. 80]; Với từ điễn Oxford Advancer lean’s Dictionary (2000) xem “biểu tượng là một người, một vật hay một sự kiện tượng trưng cho cái chung hay một tình huống nào đó” [9, tr. 780]; Còn Từ điển biểu tượng của J.E. Cirlot thì giải thích rằng: “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó” [8; tr. 25]. Từ các khái niệm trên, chúng ta thấy rằng biểu tượng là một thuật ngữ có nội hàm phong phú, đa dạng, tùy theo ngữ cảnh mà biểu tượng được giải thích một cách cụ thể hoặc có tính bao quát. Trong bài viết này, chúng tôi vận dụng lý thuyết biểu tượng, triết học, tư tưởng Phật giáo vào giải mã biểu tượng “Vô ngã” trong tranh dân gian Đông Hồ. Qua đó, chỉ ra các tầng nghĩa văn hoá cũng như lối tư duy hình tượng đặc trưng của nghệ nhân dân gian Đông Hồ trong việc chuyển hóa biểu tượng thành hình tượng nghệ thuật trong ba tác phẩm: Thổi sáo trên lưng trâu, Thả diều trên lưng trâu và Cá chép trông trăng. + Biểu tượng Vô ngã Trang Tử, một nhà triết học uyên bác của Trung Hoa cổ đại là người kịch liệt phản đối xem con người cá nhân là trung tâm của vũ trụ. Ông cho rằng: “Cái tôi là một giới hạn trong không gian và thời gian, chỉ có quên tôi, quên vật (vong ngã, vong kỷ, vong vật), đạt tới cõi vật ngã lưỡng vong, vô kim cổ thì con người mới có thể hòa đồng với vũ trụ, sống một cuộc đời vô tận, vô cùng” [3; tr 74]. Nói như vậy không có nghĩa là phủ định cá nhân một cách giản đơn, mà lại là một sự khẳng định cá nhân trong giới hạn khác, giới hạn của Vô ngã. Nơi đó con người được trở về bản tính tự nhiên, tự do, thoát khỏi luân lý và chính trị theo kiểu Nho giáo đầy rẫy những trói buộc, nặng về công danh. Theo Đại đức Thích Phước Tiến: “Khái niệm Vô ngã của Phật giáo bắt nguồn từ khái niệm Ngã, một thuật ngữ được dịch từ tiếng Ba Li gọi là atman để chỉ một ngã bản thân con người, cái tôi BIỂU TƯỢNG VÔ NGÃ TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ 80 con người trong bản thân con người, một tiểu ngã trong đại ngã (anatman) của con người. Còn Ngã trong tiếng Anh gọi là ego hoặc là self là từ chỉ một bản ngã, là cái tôi, cái hình thành nên bản chất, cá tính của mỗi con người” [5]. Xét trong thế đối lập với Bản ngã, Vô ngã là biểu hiện của một chủ thể bất biến, vĩnh cửu, vượt ra khỏi mọi giới hạn của không gian và thời gian. Chủ thể này có thể hữu hình, có thể vô hình, có thể nằm ngoài mọi đối tượng cụ thể và cũng có thể nằm trong tất cả những đối tượng... Để diễn giải khái niệm Vô ngã, Phật pháp mô tả quá trình vận động của 12 yếu tố (Thập nhị nhân duyên)... Qua đó, mỗi một sự vật hay hiện tượng đều nằm trong quy luật sinh - trụ - dị - diệt (vô thường) và tiến triển theo 12 bước (vô mình - hành - thức - danh sắc - lục nhập - xúc - thọ - ái - thủ - hữu - sinh - lão tử). Mười hai bước này vừa tương tác lẫn nhau vừa đồng sinh đồng diệt trong một sát na. Nói một cách khái quát: do cái này sinh khởi nên cái kia sinh khởi, do cái này diệt vong nên cái kia diệt vong. Dân gian gọi nôm na: “Có lửa mới có khói”. Còn triết học duy vật biện chứng thì cho rằng: “thế giới không có gì ngoài vật chất, bản chất của thế giới là vật chất; thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, không tự sinh ra và cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển hóa lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác; chúng là nguồn gốc, là nguyên nhân và là kết quả của nhau” [2; tr. 289]. Với người dân Kinh Bắc, may mắn hơn khi được cư ngụ trên mảnh đất được xem là cái nôi phật giáo Đại Việt, xác lập vào triều đại nhà Lý. Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, tư tưởng phật giáo đã lắng lại như những trầm tích văn hóa, phóng chiếu năng lượng vào tâm thức dân gian, tạo ra nét đặc trưng trong tư tưởng sáng tác của các nghệ nhân Đông Hồ, khiến nó không hề trộn lẫn với bất kỳ một dòng tranh dân gian nào khác. Triết lý vô ngã của tranh Đông Hồ là biểu hiện của sự giải thoát, vượt lên bản ngã đời thường, cái bản ngã đã dồn nén con người đến chỗ cùng cực. Thêm nữa, trong điều kiện xã hội có nhiều tập đoàn phong kiến nổi lên, đấu đá, tranh dành, vơ vét tài sản của dân chúng để củng cố quyền lực, dồn ép tầng lớp người lao động đến chỗ lầm than. Đã tạo xung lực mạnh mẽ dẫn họ tìm đến tôn giáo, nghệ thuật như liệu pháp tinh thần, giả lập bản thể tâm hồn để vượt qua thực tại khắc nghiệt. Với cách hiểu như vậy, tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu, Thả diều diều trên lưng trâu, Cá chép trông trăng là một hình thức phóng chiếu, giải phóng tâm hồn đến cảnh giới vô ngã, tự do, tự tại, hòa nhập với thiên nhiên vũ trụ. 2.2. Tính Vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ qua ba tác phẩm: Thổi sáo trên lưng trâu; Thả diều trên lưng trâu; Cá chép trông trăng + Thổi sáo trên lưng trâu Chăn trâu thổi sáo là hình ảnh quen thuộc mang dấu ấn văn hóa đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước, là biểu tượng cho mối quan hệ cộng sinh, gần gũi, gắn bó giữa con người với vật nuôi trong đời sống thôn quê xưa. Tục ngữ có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, quả đúng như vậy, đất nước ta đã trải qua thời kỳ dài trong lịch sử có trên 90% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp. Hoạt động cày xới phụ thuộc hoàn toàn vào sức kéo của trâu, do đó con trâu có vị thế hết sức quan trọng trong đời sống nông thôn. Trâu không chỉ là vật nuôi mà còn là hiện thân cho các giá trị tinh thần, biểu hiện cho sức mạnh bền bỉ, dẻo dai; NGUYỄN ĐÌNH KỲ 81 cho đức tính hiền lành, chịu thương, chịu khó; là hiện thân đời sống nông nghiệp đồng thời là đề tài hấp dẫn cho các loại hình nghệ thuật khám phá, thể hiện. Hình 3.1. Thổi sáo trên lưng trâu Bên cạnh biểu tượng trâu, chú bé mục đồng cũng là một biểu hiện sinh động cho những ký ức tuổi thơ, gắn liền với nếp sinh hoạt chăn trâu, thả diều, bắt cá Song đứng trên bình diện biểu tượng chú bé mục đồng còn mang nhiều lớp nghĩa khác nữa tùy thuộc vào cấu trúc biểu tượng. Cũng có khi chú bé mục đồng là hiện thân của bản tính tự nhiên con người, nhưng cũng có khi mang ý nghĩa là sự khởi đầu của một kiếp người Để hiểu được ý đồ sáng tác của nghệ nhân Đông Hồ trong tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu, chúng ta không thể không chú ý đến hình ảnh sen - một hình tượng tưởng chừng như chỉ mang tính chất phụ họa, song thiếu nó bức tranh chỉ là một bản sao của hiện thực. Sen không chỉ là một loài hoa có cấu trúc đẹp mà còn mang những phẩm chất cao quý, thoát tục, thanh khiết, tinh khôi gắn liền với tư tưởng phật giáo. Trong tâm thức dân gian, sen được ví với người có khí chất thanh bạch, thâm trầm nhưng đầy bản lĩnh, sống nơi bụi trần nhưng không bị ràng buộc, cám dỗ bởi lợi danh Nếu như các nhà nghiên cứu mĩ thuật Nguyễn Bá Vân, Chu Quang Trứ, Nguyễn Phi Hoanh, Nguyễn Khắc Phi, Phạm Thị Chỉnh luôn chú ý đến vẻ đẹp của hình tượng chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo thổi sáo trên lưng trâu với lá sen che đầu, đặt trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, ở thế tương quan loại hình nghệ thuật có tính đồng đại. Thì các nhà nghiên cứu văn hóa lại đặc biệt chú ý đến nguồn gốc và ý nghĩa của các cổ mẫu chứa đựng giá trị văn hóa trong đời sống cộng đồng. Điển hình cho hướng nghiên cứu này là công trình Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam của Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Trong đó, ông đặc biệt chú trọng đến các dấu hiệu biểu trưng cho triết lý Đông phương thâm trầm. Đó là hình ảnh có tính phá chấp trong quan niệm phật giáo được thể hiện qua hình tượng chú bé mục đồng ngồi lên hoa sen; hay dòng chữ “Diệp cái hà thanh thanh” (một chiếc lá sen che trời xanh) được ông liên hệ với hình tượng cây nêu, biểu tượng thái cực trong văn hóa Lạc Việt [1; tr 79]. Với hai hướng nghiên cứu như đã trình bày, xét thấy giữa họ đã có sự bổ sung cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên đứng trên quan điểm tiếp cận biểu tượng, chúng tôi nhận thấy tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu còn có một giá trị mang tính biểu trưng cần được nghiên cứu, đó là biểu BIỂU TƯỢNG VÔ NGÃ TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ 82 tượng Vô ngã [H 3.1]. Trong số các công trình bàn về tính chất của biểu tượng, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến cuốn Ký hiệu học Văn hóa của Nguyễn Tri Nguyên. Theo tác giả biểu tượng gồm ba tính chất cơ bản: “1) Tính thống nhất giữa cấp độ bản thể và cấp độ biểu hiện; 2) Tính quy ước và tính võ đoán; 3) Tính đa nghĩa và tính linh hoạt” [4; tr 127 - 132]. Với tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu, nếu xét biểu tượng Vô ngã ở tính chất thứ nhất thì cái biểu đạt (hình ảnh trâu, chú bé mục đồng, hình ảnh sen) và cái được được biểu đạt (bản thể đời sống nông nghiệp, bản tính tự nhiên con người và tư tưởng giải thoát phật giáo) đã có sự thống nhất giữa cấp độ vật chất và cấp độ tinh thần. Trong trường hợp thứ hai tính quy ước (bản thể đời sống nông nghiệp, bản tính tự nhiên con người và tư tưởng giải thoát phật giáo) không đồng nhất với tính võ đoán (vô ngã), bởi mối liên hệ nội tại giữa vật biểu (trâu, chú bé mục đồng, sen) và hàm biểu (vô ngã) đã bị nhòe mờ. Khi đó biểu tượng Vô ngã mang bản chất ngôn ngữ nghệ thuật - tín hiệu thẩm mĩ. Xét về mặt cấu trúc, hệ thống tín hiệu thẩm mĩ (vô ngã) lấy ngôn ngữ tự nhiên (trâu, sen, chú bé) làm chất liệu để biểu đạt. Do đó, hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong trường hợp này là một biểu tượng nghệ thuật hàm biểu, biểu tượng Vô ngã. Ở tính chất thứ ba, biểu tượng Vô ngã cũng được thể hiện ở tính đa nghĩa tồn tại ở cả bình diện hệ thống, trừu tượng (ý nghĩa biểu trưng của hình tượng) và bình diện hoạt động cụ thể của đối tượng (hình thức biểu đạt của tác phẩm). Mặt khác, ý nghĩa biểu tượng không phải là một ý nghĩa ổn định mà là một tiềm năng. Vì thế khả năng biểu hiện và khai thác ý nghĩa của biểu tượng cũng được thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Tóm lại, Thổi sáo trên lưng trâu là một biểu tượng điển hình thuộc nhóm biểu tượng Vô ngã, thể hiện cho sự vượt lên bản ngã cá nhân để đạt đến bản tính tự nhiên, tự do, tự tại hòa nhập với thiên nhiên vô cùng vô tận. + Thả diều trên lưng trâu Thả diều trên lưng trâu cũng là một biểu hiện của triết lý Vô ngã [H 3.2], tuy nhiên các biểu hiện triết lý Vô ngã ở tác phẩm này mang đậm dấu ấn dân gian và có phần trực tiếp hơn tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu, thể hiện qua việc tác giả lựa chọn biểu tượng hoa cúc và nón mê để bổ sung ý nghĩa cho khát vọng giải thoát của con người trước đời sống thực tại. Chúng ta đều biết nón mê là một thuật ngữ văn hóa để chỉ một loại nón lá ở trạng thái cũ kỹ, bình dị. Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy có câu: “Mẹ tôi không có yếm đào Nón mê thay nón quai thao đội đầu” Hình 3.2. Thả diều trên lưng trâu NGUYỄN ĐÌNH KỲ 83 Nguyễn Duy đã tạo ra hai hình tượng đối lập giữa yếm đào và nón mê, đặt trong trạng thái không và có để chỉ hoàn cảnh, thân phận của mẹ trong xã hội. Với ý nghĩa tương tự như vậy, nón mê trong tác phẩm Thả diều trên lưng trâu là một hình ảnh có tính biểu tượng, biểu đạt cho đời sống bình dị của người dân vùng thôn quê. Song trong sự bình dị, chất phác, mộc mạc đó lại chứa đựng nguồn nội lực và ý chí vươn lên mạnh mẽ như Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã cảm nhận: “Chiếc nón vốn đội trên đầu chú bé mục đồng lại bay bổng lên cao như sự vươn lên của trí tuệ” [1; tr 81]. Thêm một hình tượng có tính biểu trưng nữa đó là hoa cúc được các nghệ nhân điểm xuyết lên thân trâu, sắp xếp theo hướng vươn lên với cánh diều, biểu hiện cho mối liên hệ giữa ước mơ bay cao khám phá thế giới của con người. Trong cảm quan người Việt, hoa cúc mang ý nghĩa tượng trưng cho mùa thu, sự vĩnh cửu, chung thủy, thanh cao, trong sáng Nếu như biểu tượng hoa sen biểu thị cho sự chân tu, thoát tục của phật giáo thì biểu tượng hoa cúc mang màu sắc thế tục nhiều hơn. Điểm nhấn của tác phẩm là hình ảnh con trâu và chú bé mục đồng được nghệ nhân thể hiện rất động. Tư thế chú bé nằm trên lưng trâu giong diều thật thoải mái làm sao, trâu và bé phối hợp với nhau nhịp nhàng đến mức chúng ta có cảm giác thân thiết tự nhiên như những người bạn, một biểu hiện của sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên. Như vậy, với việc sử dụng biểu tượng chú bé mục đồng thả diều bằng nón mê, trâu và hoa cúc các nghệ nhân Đông Hồ đã tạo nên một biểu tượng thẩm mĩ hàm biểu mang ý nghĩa giải thoát bản ngã trong dân gian. + Cá chép trông trăng Hình 3.3. Cá chép trông trăng Nằm trong nhóm biểu tượng thể hiện triết lý Vô ngã nhưng Cá chép trông trăng [H 3.3] lại có một hình thức biểu trưng hoàn toàn khác so với hai tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu và Thả diều trên lưng trâu. Ở bức tranh này nghệ nhân không sử dụng hình tượng con người hay vật nuôi quen thuộc để thể hiện tư tưởng sáng tác mà sử dụng hình tượng cá chép, một loài cá sống trong môi trường tự nhiên để biểu đạt cho khát vọng và triết lý sống của con người. Truyền thuyết kể rằng: Vào năm nọ trời hạn hán, vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa xuống khắp mọi nơi nên Ngọc Hoàng mới đặt ra một kì thi chọn các con vật lên làm Rồng. Cuộc thi có ba kì, mỗi kì vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức, BIỂU TƯỢNG VÔ NGÃ TRONG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ 84 đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng. Nếu như Cá Rô chỉ vượt qua được đợt sóng thứ nhất, Tôm vượt qua được đợt sóng thứ hai thì Cá Chép phóng luôn một lượt vượt qua cả ba con sóng và hóa thành Rồng. Theo truyền thuyết, để đạt được thành công đó Cá Chép phải tự chặt vây, vứt hết vẩy cả, chịu đau đớn mới có thể hóa Rồng, vì thế ngoài tài ba, con cá còn phải biết hy sinh, phải chấp nhận đối mặt với thử thách. Cá ước mơ hóa rồng, cũng như con người mong ước trở thành những con người tốt đẹp, có bản lĩnh, trí tuệ để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc viên mãn. Thông qua hình tượng Cá Chép hóa Rồng người ta còn muốn đề cập tới vấn đề con người muốn đạt được ước mơ thì phải tu thân lập chí chứ không thể ngồi mong chờ may mắn được. Trong văn hóa Việt Nam hình ảnh cá chép xuất hiện rất nhiều trong những dịp lễ tết như Cá chép chơi trăng đi vào trong những chiếc bánh trung thu đêm rằm tháng tám, là con vật được chọn trong lễ phóng sinh trong ngày rằm tháng bảy của Phật giáo. Thậm chí cá chép còn là phương tiện đi lại của Táo Quân khi về chầu trời vào dịp 23 tháng chạp hàng năm, một số nơi còn coi cá chép là cá thần, cá thiêng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho rằng: “Hình tượng cá chép trong tranh kết hợp với một hình tượng quy ước làm nên tính minh triết của bức tranh. Đó chính là mặt trăng và bóng trăng soi đáy nước. Trên thực tế, không có bóng trăng soi đáy nước, mà chỉ có bóng trăng soi mặt nước” [1; tr 83]. Tuy nhiên, chúng tôi lại xem bóng trăng ở đáy nước là ảo ảnh của ánh trăng trên không gian, đây là một hình ảnh giả lập có tính biểu tượng trong tư tưởng Phật giáo, thể hiện quan niệm giải phóng bản thân, vượt qua bản ngã, tìm đến bản tính tự nhiên của con người để có được cuộc sống tự do tự tại. 3. Kết luận Biểu tượng Vô ngã trong tranh dân gian Đông Hồ là những biểu tượng được chuyển hóa thành hình tượng nghệ thuật trong ba tác phẩm Thổi sáo trên lưng trâu; Thả diều trên lưng trâu và Cá chép trông trăng. Trong ba tác phẩm này, biểu tượng Vô ngã mặc dù được thể hiện ở nhều hình thức với các mức độ tư duy nghệ thuật khác nhau, song nhìn chung chúng đã đạt đến trình độ biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu biểu đạt cho tư tưởng giải thoát, vượt qua thực tại khắc nghiệt, giải phóng tâm hồn con người đến cảnh giới Vô ngã, tự do, tự tại, hòa nhập với thiên nhiên vũ trụ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, cơ chế thị trường cùng với khả năng liên kết thông tin bằng công nghệ số đã đưa con người sống trong các quốc gia, châu lục xích lại gần nhau, bổ sung cho nhau, mang đến nhiều lợi ích cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Mặt khác vòng xoáy toàn cầu hóa cũng tạo thêm nhiều áp lực cho đời sống của mỗi cá nhân, làm mất cân bằng tâm lý, hình thành tư tưởng tiêu cực, dẫn đến những hành động sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng. Vì thế chế ngự bản ngã, lạc quan vượt qua nghịch cảnh là cách để mỗi người rèn luyện, tu dưỡng cho tâm trong sáng, an lạc trước những biến đổi nhanh chóng của nhịp sống hiện đại. Việc giữ gìn và phát huy các giá trị biểu tượng Vô ngã của tranh dân gian Đông Hồ trong mĩ thuật Việt Nam hiện đại là hết sức cần thiết. Bởi qua đó không những bảo tồn được nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc mà còn làm phong phú tâm hồn, chiều sâu văn hóa và năng lực khái quát hình tượng nghệ thuật của người nghệ sĩ. NGUYỄN ĐÌNH KỲ 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2001), Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, Nxb VHTT. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 3. Phương Lựu (2000), Đạo gia và văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 4. Nguyễn Tri Nguyên, Cung Dương Hằng (2015), Ký hiệu học văn hóa, Giáo trình đại học, Nxb Thông tin và truyền thông Hà Nội. 5. ĐĐ. Thích Phước Tiến (2016), bài giảng Vô ngã giữa đời thường, nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=OjBa9X0 vqhg, đăng ngày 12/02/2012. 6. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí minh. 7. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Ngôn ngữ học (1995), Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên. Tiếng Anh 8. J.E. Cirlot (1971), A dictionary of symbols, translated from the Spanish by Jack Sage, second edition published in the Taylor & Francis e-Library, 2001. 9. Oford Advanced Learn’s Ditionary (2000), sixth edition, Oford University Press. Ngày nhận bài: 27/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017
File đính kèm:
- bieu_tuong_vo_nga_trong_tranh_dan_gian_dong_ho.pdf