Các đặc điểm bên trong công ty tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của các đặc điểm bên trong công ty đến chất lượng thông
tin báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng mô hình Dechow
và cộng sự (1995) đo lường dồn tích bất thường đại diện chất lượng thông tin báo cáo tài chính.
Kết quả hồi quy đa biến cho thấy có 6 biến đại diện đặc điểm bên trong công ty có tác động ngược
chiều với dồn tích bất thường là BDIND, BDSIZE, BDEXP, OWNER, LEV, CFO và biến SIZE có
mối tương quan cùng chiều với chất lượng báo cáo tài chính. Đồng thời kết quả nghiên cứu chưa
tìm thấy bằng chứng chứng minh mối tương quan giữa BDMEET, CEODUAL, ACEXP, WOMAN.
Ngoài ra, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả cũng đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm nâng
cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết ở Việt Nam
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các đặc điểm bên trong công ty tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 27 CÁC ĐẶC ĐIỂM BÊN TRONG CÔNG TY TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN BÁO CÁO TÀI CHÍNH: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM THE INTERNAL CHARACTERISTICS THAT EFFECT THE QUALITY OF FINANCIAL STATEMENT INFORMATION: EMPIRICAL EVIDENCE IN VIETNAM Ngô Nhật Phương Diễm, Phan Thị Huyền, Trần Thị Nguyệt Nga1 Ngày nhận bài: 15/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 31/10/2019 Ngày đăng: 05/08/2020 Tóm tắt Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của các đặc điểm bên trong công ty đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng mô hình Dechow và cộng sự (1995) đo lường dồn tích bất thường đại diện chất lượng thông tin báo cáo tài chính. Kết quả hồi quy đa biến cho thấy có 6 biến đại diện đặc điểm bên trong công ty có tác động ngược chiều với dồn tích bất thường là BDIND, BDSIZE, BDEXP, OWNER, LEV, CFO và biến SIZE có mối tương quan cùng chiều với chất lượng báo cáo tài chính. Đồng thời kết quả nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng chứng minh mối tương quan giữa BDMEET, CEODUAL, ACEXP, WOMAN. Ngoài ra, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả cũng đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết ở Việt Nam. Từ khóa: Chất lượng thông tin báo cáo tài chính, dồn tích bất thường, đặc điểm bên trong công ty. Abstract This study aims to assess the impact of the internal characteristics to the quality of financial reporting information of the listed company in Vietnam. Research using model Dechow et al (1995) Measuring the accrual anomaly represents the quality of financial statement information. Results of multiple regression showed that 6 variables representing characteristics within the company impact the opposite the accrual anomaly BDIND, BDSIZE, BDEXP, OWNER, LEV, CFO and SIZE correlated the same way with the quality of financial reporting information. At the same time research results have not found evidence of the correlation between BDMEET, CEODUAL, ACEXP, WOMAN và the quality of financial reporting information. In addition, the results of the study, the authors also suggest some policy implications to enhance the quality of financial reporting information in the listed company in Vietnam. Keywords: The quality of financial reporting information, accrual anomaly, the internal characteristics. ____________________________________________________ 1 Trường Đại học Tài chính - Marketing Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 28 lượng khi có đầy đủ 4 đặc điểm “thích hợp, đáng tin cậy, nhất quán, có thể so sánh được” IASB lại cho rằng CLTTBCTC thỏa mãn khi đạt các đặc điểm chất lượng sau “có thể hiểu được, đáng tin cậy, có thể so sánh được, thích hợp”. Vì quan điểm về CLTTBCTC khác nhau nên theo quan điểm hội tụ thì CLTTBCTC gồm các đặc điểm “thích hợp, trình bày trung thực, có thể so sánh được, có thể kiểm chứng, tính kịp thời và có thể hiểu được”. Trong khi đó tại Việt Nam, trong chuẩn mực kiểm toán VAS 21- Lập và trình bày BCTC, cho rằng CLTTBCTC gồm các đặc điểm “trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và có thể so sánh”. Khái niệm dồn tích bất thường Dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích của kế toán thì lợi nhuận đạt được trong một kỳ sẽ bao gồm lợi nhuận thu bằng tiền và lợi nhuận dồn tích. Lợi nhuận thực thu bằng tiền được tính dựa vào doanh thu thực thu bằng tiền trừ chi phí đã thực chi bằng tiền. Lợi nhuận dồn tích chính là hiệu số giữa doanh thu bán chịu và chi phí chưa thực chi bằng tiền như chi phí trích trước, chi phí khấu hao, chi phí dự phòng phải trả, chi phí trả trước, các khoản dự phòng giảm giá, đã phát sinh trong kỳ kế toán và đây là khoản lợi nhuận mà nhà quản lý (NQL) có thể tác động thông qua khoản lập dự phòng giảm giá, gia tăng công nợ bán chịu, thay đổi thời gian khấu hao... Với mục tiêu thay đổi lợi nhuận, NQL tác động đến sự chênh lệch giữa dòng tiền thực tế tại doanh nghiệp và lợi nhuận, tạo ra các khoản dồn tích bất thường (Discretionary Accruals- DA) trên báo cáo tài chính. Như vậy, dồn tích bình thường là những khoản dồn tích được thực hiện đúng theo nguyên tắc của kế toán, dồn tích bất thường là những khoản dồn tích do NQL tạo ra để làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.1.2. Phương pháp đo lường CLTTBCTC CLTTBCTC được đo lường thông qua thành phần cấu tạo của BCTC (Jones, 1991; Dechow và cộng sự, 1995; Dechow và Dichev, 2002; Schipper và Vincent, 2003; Kothari và cộng sự, 2005; Yoon, 2006). Có ba hướng nghiên cứu đo lường CLTTBCTC: (1) đo lường CTTTBCTC 1. Giới thiệu Báo cáo tài chính cung cấp thông tin hữu ích về tình hình tài chính, kinh tế, dòng tiền và các thông tin khác cho các đối tượng sử dụng thông tin nhằm đưa ra quyết định phù hợp (Mackenzie và cộng sự, 2012). Cung cấp một báo cáo tài chính (BCTC) có chất lượng sẽ làm gia tăng hiệu quả đầu tư (Biddle và Halary, 2006). Vì vậy, chất lượng thông tin báo cáo tài chính (CLTTBCTC) được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Tuy nhiên trên thực tế, có khá nhiều sự kiện liên quan đến việc cung cấp BCTC kém chất lượng, và đã gây hậu quả nghiệm trọng đến nền kinh tế, làm tổn thất hàng tỷ USD, hàng ngàn lao động mất việc và thị trường tài chính chao đảo như Enron, WorldCom, Olympus, Toshiba... Tại Việt Nam cũng có nhiều vụ việc xảy ra tác động không nhỏ đến nền kinh tế (Trần Thị Giang Tân, 2009) và ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng vào CLTTBCTC của các doanh nghiệp như Bibica, công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết, công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành. Từ thực trạng trên đã làm dấy lên mối lo ngại về CLTTBCTC, nhiều số liệu trên BCTC đã có sự sai lệch trước và sau kiểm toán. Nguyên nhân xuất phát từ việc các CTNY chưa xây dựng được cơ chế giám sát hữu hiệu trong việc ngăn ngừa và phát hiện các gian lận cũng như sai sót trong quá trình lập và công bố BCTC. Từ những vấn đề này, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, phát hiện, đo lường CLTTBCTC và xác định các nhân tố tác động tới CLTTBCTC là cần thiết về mặt lý luận khoa học và ứng dụng thực tế. Vì vậy bài viết này đề cập đến tác động của các đặc điểm bên trong công ty đến CLTTBCTC trong nghiên cứu này. 2. Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Các khái niệm Khái niệm chất lượng thông tin báo cáo tài chính Có khá nhiều quan điểm về CLTTBCTC, điển hình FASB cho rằng một BCTC đạt chất Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 29 thông tin giữa nhà đầu tư và NQL, giữa NQL và cổ đông, đó là sự khác biệt về lượng thông tin nắm giữ giữa các bên (Kaplan và Atkinson, 1998). NQL có thể công bố thông tin không đúng để có được chế độ lương thưởng tốt hơn, thu hút vốn đầu tư. Yêu cầu giảm thiểu sự bất đối xứng thông tin và cung cấp thông tin minh bạch trở thành vấn đề gây tranh cãi hiện nay trong việc lập BCTC (Collin và cộng sự, 2009). Vì vậy, các nghiên cứu về chất lượng thông tin BCTC xuất phát từ sự khác biệt thông tin nhận được của các nhà quản lý và nhà đầu tư nên những DN có quy mô lớn và khả năng sinh lời cao muốn thu hút vốn đầu tư để thực hiện dự án sẽ cung cấp tín hiệu là CLTTKT trên BCTC sẽ cao hơn các DN khác. Lý thuyết thông tin bất cân xứng: Theo Akerlof (1970) thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn hoặc có thông tin tốt hơn một bên khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn so với người mua và ngược lại. Trên TTCK, hiện tượng bất cân xứng thông tin xảy ra khi DN công bố thông tin, công bố BCTC không đáng tin cậy hoặc kém chất lượng. NĐT là người bị động trong việc thu thập thông tin, các thông tin chủ yếu được thu thập từ thông tin công bố của DN, từ BCTC của DN, việc xác minh độ tin cậy của thông tin chủ yếu dựa vào Báo cáo kiểm toán của công ty kiểm toán. Vì vậy CLTTBCTC là yếu tố hàng đầu giúp NĐT đưa ra quyết định sáng suốt và hiệu quả, giảm được bất cân xứng thông tin, nâng cao CLTTBCTC sẽ làm tăng niềm tin cho NĐT và giúp TTCK ngày càng phát triển. 2.2. Giả thuyết nghiên cứu Sự kiêm nhiệm CEO và chủ tịch HĐQT (CEODUAL): Shleifer và Vishny (1997) cho rằng việc giám sát, quản lý, vận hành của HĐQT là công việc rất quan trọng để tránh tình trạng NQL vì lợi ích riêng gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Nên một số nghiên cứu cho rằng HĐQT để đạt được hiệu quả giám sát cao nhất thì chức năng phải độc lập, đó là chủ tịch HĐQT và GĐĐH phải là hai cá nhân độc lập (Chaganti và cộng sự, 1985; Dechow và cộng sự, 1996; thông qua chỉ số công bố thông tin (Marston và Shrives, 1991); (2) đo lường CLTTBCTC một cách gián tiếp thông qua đo lường mức độ DTBT (Jones, 1991; Dechow và cộng sự, 1995; Kothari và cộng sự, 2005; Yoon, 2006) bằng cách lập luận rằng CLTTBCTC cao khi mức DTBT thấp, càng gần không càng tốt; (3) đo lường CLTTBCTC thông qua mối quan hệ giữa số liệu kế toán với phản ứng của thị trường chứng khoán ((Nochols và Wahlen, 2004). Trong bài viết này, nhóm tác giả đo lường CLTTBCTC thông qua đo lường dồn tích bất thường (DTBT) theo mô hình Dechow và cộng sự (1995). 2.1.3. Lý thuyết nền Lý thuyết đại diện: lý thuyết đại diện cho rằng hiệu quả giám sát của HĐQT càng cao khi thành viên độc lập càng nhiều (Nicholson và Kiel, 2007), giảm xung đột lợi ích, giảm thiểu chi phí đại diện. Epstein và cộng sự (2010) thừa nhận HĐQT nên họp thường xuyên, năng động cũng như nên có nhiều kỹ năng và kiến thức để duy trì hoạt động trước sức ép xung đột ngày càng tăng. Thông qua lý thuyết này, các nhà nghiên cứu tìm kiếm bằng chứng về những nhân tố tác động đến chất lượng thông tin trên BCTC, như các nghiên cứu của Leftwich (1981), Bartov và cộng sự (1996) về các chính sách kế toán tác động đến LN, từ đó tác động đến chất lượng BCTC. Cụ thể, lý thuyết đại diện được vận dụng để giải thích nhân tố quy mô của HĐQT, kiêm nhiệm chức danh Giám đốc điều hành của Chủ tịch HĐQT, tính độc lập của HĐQT thông qua tỷ lệ giữa thành viên HĐQT độc lập không điều hành, số lượng cuộc họp HĐQT, sở hữu nhà nước tác động đến chất lượng thông tin BCTC. Lý thuyết tín hiệu: Spence (1973) đã đưa ra lý thuyết tín hiệu với giả định có sự tồn tại của bất đối xứng thông tin, lý thuyết tín hiệu sẽ đưa ra một trạng thái cân bằng trong đó đối tượng có lợi thế về thông tin tốt hơn nên cung cấp một số tín hiệu (như các thông tin thích hợp) cho các đối tượng khác. Trong khi đó, thị trường tài chính thường xảy ra tình trạng bất đối xứng Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 30 môn làm gia tăng chức năng giám sát, gia tăng CLTTBCTC. Trong khi đó, Abbott và cộng sự (2004), Kao và Chen (2004), Carcello và cộng sự (2006) đề nghị quy mô HĐQT nhỏ thì tốt hơn trong vai trò kiểm soát chất lượng BCTC phù hợp với quan điểm trong nghiên cứu này nên đề xuất Giả thuyết H4: Quy mô HĐQT có quan hệ ngược chiều với dồn tích bất thường. Trình độ chuyên môn của HĐQT (BDEXP): Vì vai trò của HĐQT là kiểm soát quá trình lập BCTC để công bố ra bên ngoài theo yêu cầu của cơ quan quản lý nên trình độ chuyên môn tài chính kế toán của thành viên HĐQT làm cho chức năng giám sát của HĐQT hiệu quả hơn (Carcello và cộng sự, 2002; Xie và cộng sự, 2003; Agrawal và Chadha, 2005; Carcello và cộng sự, 2006; Abbadi và cộng sự 2016). Đồng thuận theo quan điểm trên, nghiên cứu đề xuất Giả thuyết H5: Chuyên môn tài chính kế toán của HĐQT có mối quan hệ ngược chiều với DTBT. Nữ giới trong HĐQT(WOMAN): Nữ giới có xu hướng hòa đồng và ít thực hiện các hành vi phi đạo đức trong kinh doanh (Butz & Lewis, 1996; Mason & Mudrack, 1996). Nữ giới làm gia tăng sự đa dạng trong HĐQT, dẫn đến HĐQT ra các quyết định tốt hơn (Letender, 2004), Bathular (2008) lại tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ nữ giới trong HĐQT với CLTTBCTC, tương đồng với nghiên cứu Srinidhi & và cộng sự (2011), Thiruvadi & Huang (2011). Do đó, nghiên cứu này đề xuất Giả thuyết H6: Nữ giới trong HĐQT có mối quan hệ ngược chiều với dồn tích bất thường. Tỷ lệ sở hữu Nhà nước (OWNER): Có nhiều nghiên cứu cho rằng các công ty có tỷ lệ sở hữu bởi Nhà nước càng cao thì CLTTBCTC càng cao (Lin, 2011; Wang và Yung, 2011; Ayemere và cộng sự, 2015). Và trong nghiên cứu này,nhóm tác giả cũng cho rằng với đặc thù của Việt Nam thì tỷ lệ sở hữu Nhà nước càng cao thì CLTTBCTC càng cao dù có quan điểm ngược lại (Guo & Ma, 2015) nên đề xuất Giả thuyết H7: Tỷ lệ sở hữu Nhà nước có quan hệ ngược chiều với dồn tích bất thường. Klein, 2002; Gulzar và Wang, 2011; Nugroho và Eko, 2011; Lin, 2011; Soliman và Ragab, 2013; Daghsni và cộng sự, 2016). Vì vậy đề xuất Giả thuyết H1: Sự không kiêm nhiệm chức năng của CEO và chủ tịch HĐQT tại các CTNY trên TTCK Việt Nam có quan hệ ngược chiều với DTBT. Tính độc lập của HĐQT (BDIND): Thành viên độc lập trong HĐQT được đánh giá cao hơn các thành viên khác trong HĐQT vì họ hoạt động vì mục đích chung của công ty (TSE, 1994) và thành viên độc lập không theo đuổi lợi ích cá nhân. Một số nghiên cứu cho rằng những công ty có số lượng TVĐL càng nhiều thì thông tin BCTC càng chất lượng như Beasley (1996), Carcello và cộng sự (2002), Xie và cộng sự (2003), Peasnell và cộng sự (2005), Davidson và cộng sự (2005), Niu (2006), Osma (2008), Siregar và Utama (2008). Do đó nghiên cứu đề xuất giả thuyết sau: Giả thuyết H2: Thành viên độc lập tại các CTNY Việt Nam có mối quan hệ ngược chiều với DTBT. Tần suất họp của HĐQT (BDMEET): Một trong những trách nhiệm của HĐQT là tham gia vào họp đại hội cổ đông, họp HĐQT và nhận được các ý kiến của cổ đông về HĐKD của công ty (Ronen và Yaari, 2008). Carcello và cộng sự (2002), Ebrahim (2007), Krishnan và Visvanathan (2009) khi HĐQT họp càng nhiều cho thấy công ty có nhiều vấn đề cần giải quyết nên phí kiểm toán càng cao, vì thế yêu cầu về mặt chất lượng cũng cao nên nâng cao chất lượng thông tin của BCTC. Đồng thời, Chen và cộng sự (2006) cho rằng HĐQT họp thường xuyên giảm khả năng thực hiện gian lận, giải quyết được các vấn đề trọng yếu. Nên nghiên cứu đề xuất Giả thuyết H3: Tần suất họp của HĐQT có mối quan hệ ngược chiều với DTBT. Quy mô hội đồng quản trị (BDSIZE): Quy mô HĐQT có ý nghĩa trong hiệu quả giám sát NQL cũng như gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Persons, 2006). Có nhiều tranh luận về quy mô HĐQT, theo quan điểm của Pearce và Zahra (1992) và John và Senbet (1998) quy mô HĐQT càng lớn, sự đa dạng về kinh nghiệm, đa dạng về chuyên Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 31 nên có xu hướng tăng mức DTBT, làm giảm CLTTBCTC. Với mẫu dữ liệu là các CTNY với quy mô tương đối lớn nên nhu cầu cung cấp vốn đáp ứng hoạt động sản xuất rất lớn nên tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng nợ càng cao thì mức độ DTBT càng giảm và đề xuất Giả thuyết H10: Hệ số nợ có quan hệ ngược chiều với DTBT. Dòng tiền thuần từ HĐKD (CFO): Moradi và cộng sự (2012), Peasnel ... ến tần suất họp HĐQT (coef = -0.0089176 và P value = 0.126); biến chuyên môn BKS (coef = 0.0099299 và P value = 0.255) và biến thành viên nữ trong HĐQT (coef = - 0.0043504, P value = 0.713) không có tác động đến DTBT hay không có tác động đến CLTTBCTC tại mức ý nghĩa 5%. Kết quả nghiên cứu không phù hợp với Klein, (2002), Carcello và cộng sự (2002), Ebrahim (2007), Krishnan và Visvanathan (2009), Gulzar và Wang (2011), Soliman và Ragab (2013), Daghsni và cộng sự (2016). Kết Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 36 Căn cứ vào kết quả nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng cho thấy lý thuyết đại diện , lý thuyết bất cân xứng thông tin, lý thuyết tín hiệu là cơ sở giải thích cho việc cần phải thiết lập cơ chế giám sát NQL điển hình là HĐQTvới các đặc điểm đủ thành viên độc lập, quy mô HĐQT không được quá lớn và HĐQT phải có thành viên có chuyên môn về tài chính kế toán thì giảm thiểu xung đột lợi ích, giảm tình trạng thông tin bất cân xứng giữa NQL và cổ đông, góp phần giảm DTBT nên nâng cao CLTTBCTC. Đồng thời nghiên cứu cũng là căn cứ để các CTNY xây dựng quy mô công ty phù hợp, duy trì dòng tiền thuần từ HĐKD hợp lý để hoạt động giám sát càng hiệu quả, CLTT BCTC càng cao, nâng cao vị thế canh tranh trong xu thế hội nhập quốc tế. quả nghiên cứu không ủng hộ lý thuyết đại diện khi lý thuyết này cho rằng HĐQT với chủ tịch HĐQT không kiêm nhiệm giám đốc; HĐQT họp càng nhiều, càng năng động thì hiệu quả giám sát càng tăng, giảm xung đột lợi ích giữa NQL và chủ sở hữu, hạn chế DTBT và gia tăng CLTTBCTC. 5. Kết luận Thông qua kết quả trên, nghiên cứu đủ bằng chứng để thừa nhận: các đặc điểm bên trong công ty (BDIND, BDSIZE, BDEXP, LEV, CFO, OWNER) có tác động ngược chiều với DTBT, nâng cao CLTT BCTC; biến SIZE tác động thuận chiều với DTBT và nghiên cứu cũng không tìm thấy bằng chứng thể hiện sự tác động của DBMEET, CEODUAL, ACEXP, WOMAN đến CLTTBCTC. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Nguyễn Thị Phương Hồng, (2016). Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán- bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế, trường đại học Kinh tế TPHCM. Ngô Nhật Phương Diễm, (2019). Nhân tố tổng hợp đại diện quản trị công ty tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết sản xuất ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học Kinh tế TPHCM. Nguyễn Trọng Nguyên, ((2015). Tác động của QTCT đến chất lượng thông tin BCTC tại các công ty niêm yết ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TPHCM. Phạm Thị Bích Vân, (2012). Nghiên cứu mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán TPHCM. Tạp chí phát triển kinh tế, số 258, trang 35 -42. Tiếng Anh Abbott, J.L, Parker.s, Peters, F.G., (2004). Audit committee, Characteristics and restatement. A journal of Practice & Theory, Vol. 23, No. 1, p. 69 – 87. Abbott, L., Susan, P., Peters, F.G and Kanna, R., (2003). An empirical investigation of audit fees, non –audit fees and audit committees. Comtemporary Accounting Research, Vol. 20, p. 215 -234. Agrawal, A., & Chadha, S., (2005). Corporate governance and accounting scandals. Journal of Law and Economics, 48(2), p. 371 -406. Akbari, M.A., (2013). Impact of firm size and capital structure on Earnings management: Evidence from Iran. World of Sciences Journal. Vol. 1, No 17, p. 59 -71. Akerlof, G.A., (1970). The Market for “Lemons”: Quality Uncertainty and the Market Mechanism. The Quarterly Journal of Economics, vol. 84, No.3. Ali, U., Noor, M. A, Khurshid, M. K, and Mahmood, A., (2015). Impact of Firm size on Earnings management: A study of textile sector of Pakistan. European Journal of Bussiness and Management, Vol. 7, no. 28, p. 47 -56. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 37 Alves (2012). Ownership structure and earnings management evidence from Portugal. Australian Accounting, Business and Finance Journal, Vol. 6, No 1, p. 57 -74. Ayemere, Ibadin L., and Afensimi Elijah., (2015). Audit Committee Attributes and Earnings Management: Evidence from Nigeria. International Journal of Business and Social Research, 05 (04): 14-23. Bartov.E, Bodnar, G.M. and Kaul, A., (1996). Exchange rate variability and the riskiness of US. Multinational firms: evidence from the breakdown of the Bretton Woods system. Journal of Financial economics, 42(2016), p.105 -132. Bassiouny, S. W., (2016). The Impact of Firm Characteristics on Earnings Management: An Empirical Study on the Listed Firms in Egypt.The Business and Management Review. 7 (2): 91–101. Bathula, H., (2008). Board Characteristics and Firm Performance: Evidence from New Zealand, PhD unpublished thesis, Auckland University of Technology. Beasley, Mark S., (1996). An empirical analysis of the relation between the board of director composition and financial statement fraud. The Accounting Review, Vol. 71, p.443 -465. Bédard, J.,Chtourou, S.M, and Courteau, L., (2004). The effect of Audit Committee expertise, Independence and Activity on Agressive Earnings Management. Auditing: Journal of Pratice & Theory, vol. 23, p. 55 -79. Biddle, G. C., and Hilary, G., (2006). Accounting quality and firm – level capital investment. The accounting review, 81(5), pp. 963 -982 Bowen, R. M.; Rajgopal, S. and Venkatuchalam, M., (2008). Accounting Discretion, Corporate Governance and Firm Performance. Contemporary Accounting Research, Vol 25, No 2, p. 351 – 405. Carcello, J.V., Hermanson, D.R., Neal, T.L., and Riley, R.A., (2002). Board characteristics and Audit free. Contemporary Accounting Research, 19(3), 365 -384 Carcello, J.V., Klein, A., and Neal, T.L., (2006). Audit committee Financial expertise competing Corporate governance Mechanisms, and earnings management. Available at SSRN: https://ssrn.com/ abstract=887512 or Chaganti, R.S., Mahajan, V. and Sharma, S., (1985). Corporate board size, composition and corporate failures in relating industry. Journal of management Studies, 22(4): 400 – 417. Chen, G., Firth, M., Gao, D.N., and Rui, O.M., (2006). Ownership structure, Corporate governance and Fraud: Evidence from China. Journal of corporate Finance, 12(3), 424 – 448. Chen, X., Cheng, Q., Wang, X., (2010). Does increased board independence reduce earnings management? Evidence from recent regulatory reform. Working Paper, University of Wisconsin- Madison, Chinese University of Hong Kong. Chtourou, S.M; Bédard, J. and Courteau, L., (2001). Corporate Governance and Earnings Management. http:/SSRN.com/abstract = 275053. Collin S. Y., Tagesson T., Andersson A., Cato J., and Hansson K., (2009). Explainning the choice of accounting standard in municipal corporations: Reconciling Positive accounting theory and institutional theory as competitive or concurrent theories. Critical Perspectives on Accounting, Vol 20, p.141 -17. Daghsni, 0., Zouhayer, M., and Mbarek, K.B.H., (2016). Earnings management and Board characteristics: evidence from French listed Firms. Accounting and Financial management Journal, Vol. 1, Issue 2, 92 -100. (Doi: 10.1234.67/afmj 1009). Davidson, R., Goodwin – Stewart, J., & Kent, P., (2005). Internal governance structures and earnings management. Accounting & Finance, 45(2), p. 241 – 267. Dechow, P. M., Sloan, R. and Sweeney, A.P., (1995). Detecting earnings management. The Accounting Review. Vol.70, p.193-225. Dechow, P.M., R. G.Sloan, R.G., and Sweeney, A.P., (1996). Causes and Consequences of Earnings Management Manipulation: An Analysis of firm Subject to Enforcement Action by SEC. Comtemporary Accounting Research (13), Spring 1-36. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 38 Dhaliwal, D., Naiker, V. and Navissi, F., (2010). The association between accruals quality and the characteristics of Accounting experts and Mix of Expertise on Audit committees. Contemporary Accounting Research, Vol.27, no.3, p. 787 – 827. Dichev I.D., and Skinner, D.J., (2002). Large –sample evidence on the Debt Covenant Hypothesis. Journal of Accounting Research, Vol. 40, N0. 4, p. 1091 – 1123. Ebrahim (2007). Earnings management and board activity: an additional evidence. w.w.w emerald in sight. com/1475-7702.html Essa, S., Kabir, R., Nguyen, H.T., (2016). Does Corporate Governance affect Earnings Management? Evidence from VietNam Gulzar, M.A, & Wang, Z., (2011). Corporate Governance Characteristics and Earnings Management: Empirical Evidence from Chinese Listed Firms. International Journal of Accounting and Finacial Reporting, Vol 1, N.01. Guo, M., and Ma, S., (2015). Ownership Characteristics and Earnings Management in China. The Chinese Economy, 48 (5): 372-95. Iskandar, A.A.T.M., (2006). Earnings Management in Malaysia: A study on effects of Accounting choices. Malaysian Accounting review, Vol 5, No.1, p 185-187. Jelinek, K., (2007). The Effect of Leverage Increases on Earnings Management. Journal of Business & Economic Studies, 13(2), p.24-46. Jensen, M.C., (1986). Agency Costs of Free Cash Flow, Corporate Finance and Takeovers. American Economics Review, 76(2), p.323-329. John, K., Senbet, L.W., (1998). Corporate governance and board effectivenes. Journal of Banking & Finance” 22(4), 371 -403. Johnson, J.L; Daily, C. M., and Ellstrand, A. E., (1996). Boards of Directors: A Review and Research Agenda. Journal of Management, vol.22, no 3, p 409 - 438. Jones, J. J., (1991). Earnings management during import relief investigation. Journal of Accounting Research, Vol.29, p.193-228. Kao, L., and Chen, A., (2004). The Effects of Board Characteristics on Earnings Management. Corporate Ownership & Control. Australasian Accounting, Business and Finance Journal, Vol. 1. No.3. Pp: 96-107. Kaplan R.S. and Atkinson A., (1998). Advanced management accounting 3rd Edition, Prentice Hall, Upper Saddle River, NewJersey. Klein, A., (2002). Audit Committee, Board of Director Characteristics, and Earnings Management. Law & Economics reserch paper series working paper, No 06-42. Kothari, S.P., Leone, A.J., and Wasley, C.E., (2005). Performance-Matched Discretionary Accruals. Journal of Accounting and Economics. 39: 163-197. Krishnan, G.V, & Visvanathan, G., (2008). Does the SOX Definition of an Accounting Expert Matter? The association between Audit committee Directors’ Accounting Expertise and Accounting Conservatism. Contemporary Accounting Research, 25(3), p. 827- 858. Lee, C-W.J., Li, L.Y., and Yue, H., (2005). Performance, Growth and earnings management, Article in Review of Accounting studies, 11(2-3), Doi: 10.2139/ssrn.871144. Lin, T.P., (2011). Corporate governance mechanisms and earnings management in transitional countries – evidence from Chinese listed firms. PhD Thesis, Queensland University of Technology. Mackenzie, C.A., Garavan, T. N, and Carbery, R., (2012). Through the looking glass: Challenges for human resource development (HRI) post the global financial crisis business asusual? Human Resource Development International, (3), pp. 353 – 364. Moradi, M.; Salehi, M.; Bighi, S.J.H. and Najari, M., (2012), A Study of Relationship between Board Characteristics and Earning Management: Iranian Scenario, Universal Journal of Management and Social Sciences, Vol.2, No.3. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 58, 08/2020 39 Naz,I; Bhatti, K., Ghafoor, A., Khao, H.H., (2011). Impact of firm size and capital structure on Earnings Management, evidence from Pakistan. International Journal of contemporary Business studies, Vol. 2, N 12, p 22 -31 Nichols, D.C. and Wahlen, J.M., (2004). How Do Earnings Numbers Relate to Stock Returns? A Review of Classic Accounting Research with Updated Returns. Accounting Horizons, vol.18, p.263-286. Niu, F.F., (2006). Corporate governance and the quality of accounting earnings: A Canadian perspective. International Journal of Managerial Finance, 2(4), 302 – 327. Nugroho. B.Y and Eko.U., (2011) Board characteritics and Earnings Management. Journal of Administrative Science & Organization, January 2011, pp 1-10. Osma, B.G., (2008). Board Independence and real Earnings Management: The case of R &D Expenditure. Corporate governance: An international Review, vol.3, p. 231 - 260. Peasnell, K.V, Pope, P.F, and Young, S., (2005). Board monitoring and Earnings Management: Do outside Directors Influence Abnormal Accruals? Journal of Business Finance and Accounting, Vol.32, p.1131 – 1346. Persons, O.S., (2006). Corporate governance and Non – Financial Reporting Fraud. The journal of Business and economic studies, Spring 2006, 12;1 Proquest central, P. 27. Ronen, J &Yaari., (2008). Earnings management: Emerging insights in theory. Practice and research. (vol.3) NewYork: springer. Schipper, K. and Vincent, L., (2003). Earnings Quality. Accounting Horizons, 17, p.97-110. Shleifer, A. and Vishny, R.W., (1997). A survey of corporate governance. The Journal of finance, 52 (2), p. 737 -783. Sirat, H., (2012). Corporate governance practices, Share ownership Structure and size on earnings management. Jounal of economics, Business and Accountancy Ventura Accreditation, Vol 15, No.1, pp. 145 -156. Siregar, S.V., and Utama, S., (2008). Type of earnings management and the effect of ownership structure, firm size and corporate governance practices: Evidence from Indonesia. The international Journal of Accounting, vol 43, 1-27. Soliman, M. M, and Ragab, A. A., (2013). Board of Director’s Attributes and Earning Management: Evidencefrom Egypt. International Business and Social Sciences Research, Conference 3 – 4 January, 2013. Soliman, M. M, and Ragab, A. A., (2014). Audit committee effectiveness, audit quality and Earning Management An Empirical Study of the Listed Companies in Egypt. Research Journal of Finance and Accounting, Vol 5, No 2 Spence, M., (1973). Job Market Signalling. The Quarterly Journal of Economics, p.335-374. Srinidhi, B., Ferdinand, A. G., and Anthony, C. N., (2011). Does board gender diversity improve the informatveness of stock prices? Journal of Accounting and Economic, 51(3), pp 314 -338. Swastika, D. L. T., (2013). Corporate Governance, Firm Size, and Earning Management: Evidence in Indonesia Stock Exchange. Journal of Business and Management, Vol. 10, P. 77-82 Wang, L., and Yung, K., (2011). Do State Enterprises Manage Earnings More than Privately Owned Firms? The Case of China. Journal of Business Finance & Accounting, 38 (7-8): 794–812 Xie, B., Davidson, W. and Dadalt, P., (2003). Earnings Management and Corporate governance: The role of the Board and the Audit Committee. Journal of Corporate Finance, vol.9, p. 295 - 316. Yoon, S. S., Miller, G; Jiraporn, P., (2006). Earnings Management Vehicles for Korean Firms. Journal of International Financial Management & Accounting; Oxford vol. 17; Iss2, p. 85-109. Zamri, N, Rahman R. A, and Iya. N.S.M., (2013). The impact of leverage on real earnings management. Procedia Economics and Finance, Vol.7, 86-95.
File đính kèm:
- cac_dac_diem_ben_trong_cong_ty_tac_dong_den_chat_luong_thong.pdf