Các loại hình nghệ thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ: Thực trạng và giải pháp

Tóm tắt

Bài tham luận đề cập đến tất cả các loại hình nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ

hiện hữu, trong đó nhấn mạnh quá trình phát triển của nghệ thuật Dù kê, để thấy được tính tương tác, hỗ

trợ, bổ sung lẫn nhau trong quá trình bảo tồn, phát triển nền nghệ thuật độc đáo này (bao gồm cả vấn đề

sưu tầm, dàn dựng, biểu diễn, quản lý, đào tạo, sử dụng nguồn lực.). Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các

nhóm giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển di sản nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ.

 

pdf 9 trang yennguyen 7680
Bạn đang xem tài liệu "Các loại hình nghệ thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các loại hình nghệ thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ: Thực trạng và giải pháp

Các loại hình nghệ thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ: Thực trạng và giải pháp
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201418 Soá 13, thaùng 3/2014 19
CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT CỦA ĐỒNG BÀO KHMER NAM BỘ - 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
Thạch Muni1 
Tóm tắt
Bài tham luận đề cập đến tất cả các loại hình nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ 
hiện hữu, trong đó nhấn mạnh quá trình phát triển của nghệ thuật Dù kê, để thấy được tính tương tác, hỗ 
trợ, bổ sung lẫn nhau trong quá trình bảo tồn, phát triển nền nghệ thuật độc đáo này (bao gồm cả vấn đề 
sưu tầm, dàn dựng, biểu diễn, quản lý, đào tạo, sử dụng nguồn lực...). Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các 
nhóm giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển di sản nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Từ khóa: Nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ, Nghệ thuật Dù kê, di sản văn hoá, loại 
hình nghệ thuật, Văn hoá Khmer.
Abstract
This paper is to mention all types of current performing art of Southern Khmer, which focuses on the 
development of Du ke art in order to find out its interaction and supplement during the preservation and 
development of this original art (including collection, performance, management, training and usage 
of sources). Then, the solutions are proposed in order to preserve and develop the intangible cultural 
heritage of Southern Khmer theatre. 
Keywords: Performing art of Southern Khmer, Du ke art, Cultural heritage, Form of art, Khmer culture. 
1 Soạn giả, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ
2 Số liệu thống kê của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, 2013.
1. Khái quát các loại hình nghệ thuật của đồng 
bào Khmer Nam Bộ
Đồng bào Khmer Nam Bộ có nền văn hoá 
phong phú, đa dạng. Về văn hoá vật chất, nét nổi 
bật nhất là các ngôi chùa Phật giáo Nam tông 
Khmer, các ngôi tháp trong phum sróc với lối kiến 
trúc độc đáo cùng mô típ trang trí khá đặc thù (hiện 
nay cả vùng Nam Bộ có 460 chùa Phật giáo Nam 
tông Khmer2). Về văn hoá tinh thần cũng phong 
phú và đa dạng, điển hình như:
- Ngôn ngữ của đồng bào Khmer được hình 
thành từ lâu đời, hoàn thiện dần trong quá trình 
phát triển. Hiện nay, tiếng nói và chữ viết ấy cơ 
bản hoàn chỉnh sau nhiều cuộc cải cách, đủ khả 
năng sử dụng trên mọi phương diện.
- Kho tàng văn học Khmer phong phú, đa 
dạng. Có nhiều thể loại văn học với nhiều công 
trình đồ sộ về thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện 
kể dân gian, truyện thơ, trường ca, văn xuôi, ca 
dao, tục ngữ, ngạn ngữ, thành ngữ
- Đồng bào Khmer có nhiều lễ hội, gồm lễ hội 
truyền thống của dân tộc, lễ hội đặc trưng của Phật 
giáo và lễ tục dân gian.
Những nét văn hoá đặc trưng ấy là cơ sở, là 
nền tảng, là chất liệu dồi dào hình thành nên nghệ 
thuật biểu diễn đặc trưng của đồng bào Khmer, 
đó là:
- Sân khấu Rô băm là loại hình ca, múa, nhạc, 
kịch tổng hợp do chính đồng bào Khmer Nam Bộ 
sáng tạo từ lâu đời, đến nay vẫn chưa có công trình 
khoa học nào nói về thời gian, hoàn cảnh ra đời 
của loại hình nghệ thuật này. Loại hình sân khấu 
Rô băm phổ biến chủ yếu ở tỉnh Trà Vinh và tỉnh 
Sóc Trăng (đồng bào Khmer tỉnh Trà Vinh quen 
gọi là “Dăk Rom”, còn đồng bào Khmer tỉnh Sóc 
Trăng quen gọi là “Rô băm”). 
- Sân khấu Dù kê (hay còn gọi là L’khôn Ba 
Sắc) do chính đồng bào Khmer Nam Bộ sáng tạo 
từ những thập niên của đầu thế kỷ XX, được phổ 
biến rộng khắp vùng Nam Bộ và cả nước bạn 
Campuchia láng giềng.
- Loại hình sân khấu Dì kê có xuất xứ từ 
Campuchia, chủ yếu phổ biến trong vùng đồng bào 
Khmer ở huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên của 
tỉnh An Giang.
- Loại hình ca múa nhạc có nhiều thể loại: (1) 
Thể loại múa gồm có: múa cổ điển và múa dân 
gian; (2) Thể loại múa hát sinh hoạt cộng đồng dựa 
trên các làn điệu Rom Vong, Rom K’bach, Lam 
Liêu, Saravan... với hàng trăm bài hát đặc trưng, 
rất phong phú và vui nhộn, được sử dụng trong các 
dịp lễ, tết và trong sinh hoạt cộng đồng; (3) Thể 
loại ca, nhạc gồm nhiều dòng nhạc như: dòng nhạc 
Mahôry, nhạc cưới, nhạc lễ, nhạc tang, các điệu ru, 
làn điệu À day đối đáp...
Các loại hình nghệ thuật trên được giữ gìn và 
phổ biến rộng rãi qua phong trào văn nghệ quần 
chúng, được các nghệ nhân, các đội văn nghệ quần 
chúng tổ chức dàn dựng và biểu diễn từ thế hệ 
này sang thế hệ khác. Song, kể từ thời kỳ kháng 
chiến chống Mỹ cứu nước đến nay, có 04 đoàn 
nghệ thuật Khmer và 01 đội thông tin văn nghệ 
Khmer (cụ thể là: Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh 
Bình Minh tỉnh Trà Vinh, Đoàn Nghệ thuật Khmer 
tỉnh Sóc Trăng, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Kiên 
Giang, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Bạc Liêu, 
Đội Thông tin Văn nghệ Khmer tỉnh Cà Mau) là 
đơn vị nghệ thuật của Nhà nước đã góp phần rất 
lớn trong việc giữ gìn và phát huy các loại hình 
nghệ thuật Khmer. Song song đó, chương trình 
truyền hình tiếng Khmer của Trung tâm Truyền 
hình Việt Nam tại thành phố Cần Thơ, chương 
trình phát thanh tiếng Khmer của Cơ quan Thường 
trú Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực Đồng bằng 
sông Cửu Long và chương trình phát thanh, truyền 
hình tiếng Khmer của các Đài Phát thanh - Truyền 
hình: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An 
Giang, Kiên Giang cũng đã góp phần gìn giữ và 
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer, trong đó 
có các loại hình nghệ thuật. 
Trong các loại hình nghệ thuật nêu trên, thì 
loại hình sân khấu Dù kê có ưu thế vượt trội nhất, 
được đồng bào Khmer Nam Bộ ưa chuộng nhất, vì 
ngoài đặc trưng riêng của sân khấu Dù kê, nó còn 
tiếp nhận những tinh hoa của nghệ thuật Dì kê, 
Rô băm, ca, múa, nhạc của chính dân tộc Khmer 
và cả những tinh hoa nghệ thuật của đồng bào 
Kinh, đồng bào Hoa, của các nước như Ấn Độ, 
Indonesia, của châu Âu, châu Mỹ La tinh... để bổ 
sung làm phong phú thêm tính nghệ thuật, bởi lẽ 
loại hình sân khấu Dù kê đến nay vẫn là ở trạng 
thái “mở”, không khép kín như sân khấu Dì kê, 
Rô băm, Chèo, Tuồng... Về mặt nội dung kịch bản, 
sân khấu Dù kê vừa thể hiện được đề tài cổ điển, 
dân gian vừa thể hiện được đề tài xã hội đương 
đại. Chính ưu thế vượt trội ấy, nên sân khấu Dù 
kê được đồng bào Khmer Nam Bộ ưa chuộng từ 
gần 100 năm qua. Các đoàn nghệ thuật Khmer (cả 
chuyên và không chuyên) từ lâu nay đều chọn loại 
hình sân khấu Dù kê làm nền tảng nghệ thuật cho 
đơn vị mình (chỉ trừ ở An Giang chọn loại hình 
sân khấu Dì kê).
2. Thực trạng về nghệ thuật biểu diễn của đồng 
bào Khmer Nam Bộ 
2.1. Về mặt tích cực, tiến bộ 
Các loại hình nghệ thuật biểu diễn của đồng 
bào Khmer Nam Bộ là sản phẩm văn hoá của quần 
chúng nhân dân hình thành và phát triển trong quá 
trình lao động, sáng tạo, chinh phục thiên nhiên, 
đấu tranh chống lại những bất công xã hội, chống 
giặc ngoại xâm. Nó đã góp phần rất lớn trong việc 
giáo dục đồng bào Khmer Nam Bộ về lòng nhân 
ái, vị tha, tình yêu đôi lứa trong sáng, tình yêu quê 
hương nồng nàn, khẳng định chân lý: chính nghĩa 
luôn thắng hung tàn... 
Thời gian qua cũng như hiện nay, nghệ thuật 
biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ có một số 
mặt tiến bộ và từng bước phát triển, thể hiện qua 
một số kết quả sau đây:
2.1.1. Đối với sân khấu Dù kê 
Các đoàn nghệ thuật Khmer (cả chuyên và 
không chuyên) đã và đang khai thác các tác phẩm 
văn học, thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện kể 
dân gian, truyện thơ, trường ca của dân tộc Khmer... 
làm chất liệu để biên kịch và dàn dựng thành vở Dù 
kê, góp phần phổ biến giá trị văn học, nghệ thuật 
của dân tộc. Riêng Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh 
Bình Minh tỉnh Trà Vinh xây dựng cả đề tài cổ điển, 
dân gian và đề tài hiện đại, được đông đảo khán giả 
chấp nhận và khen ngợi, từng bước đáp ứng nhu 
cầu thưởng thức và thị hiếu ngày càng cao của công 
chúng. Một minh chứng cụ thể: Đoàn Nghệ thuật 
Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh là đơn vị nghệ 
thuật Khmer đầu tiên mang vở diễn Dù kê “Mối 
tình Bô Pha Rạng Xây” - đề tài hiện đại tham gia 
Hội diễn Sân khấu Chuyên nghiệp Toàn quốc năm 
1985, được tặng giải thưởng Huy chương Vàng và 
được Bộ Văn hóa Thông tin lúc bấy giờ công nhận 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ là một 
trong những loại hình sân khấu ở Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201418 Soá 13, thaùng 3/2014 19
CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT CỦA ĐỒNG BÀO KHMER NAM BỘ - 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
Thạch Muni1 
Tóm tắt
Bài tham luận đề cập đến tất cả các loại hình nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ 
hiện hữu, trong đó nhấn mạnh quá trình phát triển của nghệ thuật Dù kê, để thấy được tính tương tác, hỗ 
trợ, bổ sung lẫn nhau trong quá trình bảo tồn, phát triển nền nghệ thuật độc đáo này (bao gồm cả vấn đề 
sưu tầm, dàn dựng, biểu diễn, quản lý, đào tạo, sử dụng nguồn lực...). Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các 
nhóm giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển di sản nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Từ khóa: Nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ, Nghệ thuật Dù kê, di sản văn hoá, loại 
hình nghệ thuật, Văn hoá Khmer.
Abstract
This paper is to mention all types of current performing art of Southern Khmer, which focuses on the 
development of Du ke art in order to find out its interaction and supplement during the preservation and 
development of this original art (including collection, performance, management, training and usage 
of sources). Then, the solutions are proposed in order to preserve and develop the intangible cultural 
heritage of Southern Khmer theatre. 
Keywords: Performing art of Southern Khmer, Du ke art, Cultural heritage, Form of art, Khmer culture. 
1 Soạn giả, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ
2 Số liệu thống kê của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, 2013.
1. Khái quát các loại hình nghệ thuật của đồng 
bào Khmer Nam Bộ
Đồng bào Khmer Nam Bộ có nền văn hoá 
phong phú, đa dạng. Về văn hoá vật chất, nét nổi 
bật nhất là các ngôi chùa Phật giáo Nam tông 
Khmer, các ngôi tháp trong phum sróc với lối kiến 
trúc độc đáo cùng mô típ trang trí khá đặc thù (hiện 
nay cả vùng Nam Bộ có 460 chùa Phật giáo Nam 
tông Khmer2). Về văn hoá tinh thần cũng phong 
phú và đa dạng, điển hình như:
- Ngôn ngữ của đồng bào Khmer được hình 
thành từ lâu đời, hoàn thiện dần trong quá trình 
phát triển. Hiện nay, tiếng nói và chữ viết ấy cơ 
bản hoàn chỉnh sau nhiều cuộc cải cách, đủ khả 
năng sử dụng trên mọi phương diện.
- Kho tàng văn học Khmer phong phú, đa 
dạng. Có nhiều thể loại văn học với nhiều công 
trình đồ sộ về thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện 
kể dân gian, truyện thơ, trường ca, văn xuôi, ca 
dao, tục ngữ, ngạn ngữ, thành ngữ
- Đồng bào Khmer có nhiều lễ hội, gồm lễ hội 
truyền thống của dân tộc, lễ hội đặc trưng của Phật 
giáo và lễ tục dân gian.
Những nét văn hoá đặc trưng ấy là cơ sở, là 
nền tảng, là chất liệu dồi dào hình thành nên nghệ 
thuật biểu diễn đặc trưng của đồng bào Khmer, 
đó là:
- Sân khấu Rô băm là loại hình ca, múa, nhạc, 
kịch tổng hợp do chính đồng bào Khmer Nam Bộ 
sáng tạo từ lâu đời, đến nay vẫn chưa có công trình 
khoa học nào nói về thời gian, hoàn cảnh ra đời 
của loại hình nghệ thuật này. Loại hình sân khấu 
Rô băm phổ biến chủ yếu ở tỉnh Trà Vinh và tỉnh 
Sóc Trăng (đồng bào Khmer tỉnh Trà Vinh quen 
gọi là “Dăk Rom”, còn đồng bào Khmer tỉnh Sóc 
Trăng quen gọi là “Rô băm”). 
- Sân khấu Dù kê (hay còn gọi là L’khôn Ba 
Sắc) do chính đồng bào Khmer Nam Bộ sáng tạo 
từ những thập niên của đầu thế kỷ XX, được phổ 
biến rộng khắp vùng Nam Bộ và cả nước bạn 
Campuchia láng giềng.
- Loại hình sân khấu Dì kê có xuất xứ từ 
Campuchia, chủ yếu phổ biến trong vùng đồng bào 
Khmer ở huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên của 
tỉnh An Giang.
- Loại hình ca múa nhạc có nhiều thể loại: (1) 
Thể loại múa gồm có: múa cổ điển và múa dân 
gian; (2) Thể loại múa hát sinh hoạt cộng đồng dựa 
trên các làn điệu Rom Vong, Rom K’bach, Lam 
Liêu, Saravan... với hàng trăm bài hát đặc trưng, 
rất phong phú và vui nhộn, được sử dụng trong các 
dịp lễ, tết và trong sinh hoạt cộng đồng; (3) Thể 
loại ca, nhạc gồm nhiều dòng nhạc như: dòng nhạc 
Mahôry, nhạc cưới, nhạc lễ, nhạc tang, các điệu ru, 
làn điệu À day đối đáp...
Các loại hình nghệ thuật trên được giữ gìn và 
phổ biến rộng rãi qua phong trào văn nghệ quần 
chúng, được các nghệ nhân, các đội văn nghệ quần 
chúng tổ chức dàn dựng và biểu diễn từ thế hệ 
này sang thế hệ khác. Song, kể từ thời kỳ kháng 
chiến chống Mỹ cứu nước đến nay, có 04 đoàn 
nghệ thuật Khmer và 01 đội thông tin văn nghệ 
Khmer (cụ thể là: Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh 
Bình Minh tỉnh Trà Vinh, Đoàn Nghệ thuật Khmer 
tỉnh Sóc Trăng, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Kiên 
Giang, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Bạc Liêu, 
Đội Thông tin Văn nghệ Khmer tỉnh Cà Mau) là 
đơn vị nghệ thuật của Nhà nước đã góp phần rất 
lớn trong việc giữ gìn và phát huy các loại hình 
nghệ thuật Khmer. Song song đó, chương trình 
truyền hình tiếng Khmer của Trung tâm Truyền 
hình Việt Nam tại thành phố Cần Thơ, chương 
trình phát thanh tiếng Khmer của Cơ quan Thường 
trú Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực Đồng bằng 
sông Cửu Long và chương trình phát thanh, truyền 
hình tiếng Khmer của các Đài Phát thanh - Truyền 
hình: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An 
Giang, Kiên Giang cũng đã góp phần gìn giữ và 
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer, trong đó 
có các loại hình nghệ thuật. 
Trong các loại hình nghệ thuật nêu trên, thì 
loại hình sân khấu Dù kê có ưu thế vượt trội nhất, 
được đồng bào Khmer Nam Bộ ưa chuộng nhất, vì 
ngoài đặc trưng riêng của sân khấu Dù kê, nó còn 
tiếp nhận những tinh hoa của nghệ thuật Dì kê, 
Rô băm, ca, múa, nhạc của chính dân tộc Khmer 
và cả những tinh hoa nghệ thuật của đồng bào 
Kinh, đồng bào Hoa, của các nước như Ấn Độ, 
Indonesia, của châu Âu, châu Mỹ La tinh... để bổ 
sung làm phong phú thêm tính nghệ thuật, bởi lẽ 
loại hình sân khấu Dù kê đến nay vẫn là ở trạng 
thái “mở”, không khép kín như sân khấu Dì kê, 
Rô băm, Chèo, Tuồng... Về mặt nội dung kịch bản, 
sân khấu Dù kê vừa thể hiện được đề tài cổ điển, 
dân gian vừa thể hiện được đề tài xã hội đương 
đại. Chính ưu thế vượt trội ấy, nên sân khấu Dù 
kê được đồng bào Khmer Nam Bộ ưa chuộng từ 
gần 100 năm qua. Các đoàn nghệ thuật Khmer (cả 
chuyên và không chuyên) từ lâu nay đều chọn loại 
hình sân khấu Dù kê làm nền tảng nghệ thuật cho 
đơn vị mình (chỉ trừ ở An Giang chọn loại hình 
sân khấu Dì kê).
2. Thực trạng về nghệ thuật biểu diễn của đồng 
bào Khmer Nam Bộ 
2.1. Về mặt tích cực, tiến bộ 
Các loại hình nghệ thuật biểu diễn của đồng 
bào Khmer Nam Bộ là sản phẩm văn hoá của quần 
chúng nhân dân hình thành và phát triển trong quá 
trình lao động, sáng tạo, chinh phục thiên nhiên, 
đấu tranh chống lại những bất công xã hội, chống 
giặc ngoại xâm. Nó đã góp phần rất lớn trong việc 
giáo dục đồng bào Khmer Nam Bộ về lòng nhân 
ái, vị tha, tình yêu đôi lứa trong sáng, tình yêu quê 
hương nồng nàn, khẳng định chân lý: chính nghĩa 
luôn thắng hung tàn... 
Thời gian qua cũng như hiện nay, nghệ thuật 
biểu diễn của đồng bào Khmer Nam Bộ có một số ... ghề, vừa học 
được chương trình bổ túc văn hóa theo hệ giáo 
dục thường xuyên. Như vậy, sau 03 năm đào 
tạo, học viên có được bằng trung cấp nghề và 
bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hệ giáo dục 
thường xuyên. 
Đối với chương trình đào tạo, các trường thực 
hiện hai nhóm nội dung đào tạo: (1) Giảng dạy kiến 
thức chung theo quy định hiện hành; (2) Giảng dạy 
kỹ năng biểu diễn nghệ thuật dân tộc do nghệ nhân 
Khmer trực tiếp giảng dạy và mời giảng viên có 
kinh nghiệm khác nếu thấy cần thiết. 
Chỉ khi đào tạo được đội ngũ diễn viên, nhạc 
công thì mới giải quyết được những vấn đề khó 
khăn, bức xúc, bất cập hiện nay:
Một là, có đội ngũ kế thừa được đào tạo cơ 
bản, nhất là luôn trẻ hóa được đội ngũ diễn viên, 
nhạc công tại các đoàn nghệ thuật Khmer.
Hai là, có đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện để tuyển 
dụng vào các đoàn nghệ thuật Khmer theo quy 
định hiện hành, theo Luật Công chức.
Ba là, có đội ngũ đáp ứng cho nhu cầu phát 
động, nuôi dưỡng, phát triển phong trào văn hóa, 
văn nghệ ở cơ sở. 
3.1.3. Mở rộng không gian, hình thức phổ biến 
nghệ thuật 
Các đoàn nghệ thuật Khmer cần tăng cường 
mở rộng địa bàn biểu diễn sang các tỉnh/thành 
trong vùng, không nên chỉ bó hẹp trong tỉnh của 
mình, tức là đoàn của tỉnh nào thì chỉ chú trọng 
biểu diễn trên địa bàn của tỉnh đó như thời gian 
qua. Việc mở rộng địa bàn lưu diễn sẽ tăng thêm 
thu nhập, đồng thời tạo sự phong phú, đa dạng cho 
khán giả, tức là được xem nhiều tiết mục của nhiều 
đoàn nghệ thuật. Đồng thời, việc mở rộng địa bàn 
biểu diễn, giao lưu nghệ thuật giữa các địa phương 
cũng là yếu tố tác động đến việc nâng cao chất 
lượng, hiệu quả nghệ thuật.
Tăng cường phổ biến nghệ thuật qua băng đĩa, 
trên phương tiện thông tin đại chúng mang tính 
rộng rãi phục vụ được nhiều khán, thính giả hơn. 
3.1.4. Phát động viết kịch bản 
Một trong những khó khăn trong thời gian 
qua đối với nghệ thuật biểu diễn dân tộc Khmer 
là thiếu kịch bản cả về số lượng lẫn chất lượng. 
Do đó, cần thiết phải mở các trại sáng tác viết kịch 
bản sân khấu Khmer, chủ yếu là kịch bản sân khấu 
Dù kê. Có thể Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại 
thành phố Cần Thơ chủ trì, phối hợp với Đài Phát 
thành - Truyền hình, Sở Văn hóa, Thể thao và Du 
lịch, Hội Văn học Nghệ thuật các tỉnh/thành Tây 
Nam Bộ định kỳ tổ chức các trại sáng tác viết kịch 
bản Dù kê, Dì kê.
Các kịch bản có được qua trại sáng tác sẽ là 
nguồn kịch bản dồi dào để các đoàn nghệ thuật 
Khmer, các đài phát thanh, truyền hình trong vùng 
biên tập, chuyển thể, dàn dựng thành kịch bản Dù 
kê. Trong đó, khi biên tập, chuyển thể, dàn dựng 
thành kịch bản Dù kê, chú ý biên tập, chuyển thể, 
dàn dựng sao cho phù hợp với hình thức thể hiện: 
kịch bản phát thanh, kịch bản truyền hình, kịch 
bản biểu diễn lưu động ngoài trời, vì mỗi hình thức 
thể hiện có thời lượng và lối dàn dựng khác nhau. 
3.1.5. Phát động và nuôi dưỡng phong trào văn 
nghệ ở cơ sở 
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh/
thành với chức năng, nhiệm vụ của mình chỉ đạo 
việc phát động, tạo điều kiện, nuôi dưỡng phong 
trào văn nghệ quần chúng ở cơ sở vùng đồng bào 
Khmer; định kỳ tổ chức liên hoan, hội thi văn nghệ 
quần chúng hoặc hình thức ngày hội văn hóa, thể 
thao và du lịch dân tộc Khmer vừa tạo sân chơi, 
vừa khuyến khích, nuôi dưỡng phong trào.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với 
các bộ, ngành có liên quan và các địa phương có 
đồng đồng bào Khmer sinh sống tổ chức hiệu quả 
hơn nữa, chất lượng hơn nữa Ngày hội Văn hóa, 
Thể thao và Du lịch Dân tộc Khmer Nam Bộ. Một 
trong những nội dung hoạt động của ngày hội là tổ 
chức liên hoan nghệ thuật dân tộc Khmer, nhưng 
mới tổ chức được liên hoan nghệ thuật tổng hợp, 
chưa liên hoan theo từng loại hình nghệ thuật cụ 
thể. Do đó, có thể nâng liên hoan nghệ thuật dân 
tộc Khmer mang tính tổng hợp như trước đây của 
ngày hội thành liên hoan nghệ thuật sân khấu dân 
tộc Khmer, nghệ thuật ca múa nhạc dân tộc Khmer 
mang tính độc lập (mời Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt 
Nam, Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam tham gia Ban Chỉ 
đạo, Ban Tổ chức ngày hội để cùng thực hiện hoạt 
động này). 
3.2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách 
3.2.1. Đầu tư cho Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - 
Nghệ thuật Khmer Nam Bộ của Trường Đại học 
Trà Vinh 
Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer 
Nam Bộ của Trường Đại học Trà Vinh đã được 
thành lập, đi vào hoạt động trong những năm gần 
đây. Ngày 08/10/2013, Thủ tướng Chính phủ đồng 
ý chủ trương giao Trường Đại học Trà Vinh thực 
hiện nhiệm vụ trọng điểm quốc gia đào tạo nguồn 
nhân lực về Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật 
Khmer Nam Bộ, đáp ứng nhiệm vụ phát triển văn 
hóa - xã hội ở Nam Bộ. 
Do đó, nhất thiết phải đầu tư thêm cơ sở vật 
chất, trang thiết bị và các điều kiện đáp ứng nhiệm 
vụ giảng dạy, học tập. 
3.2.2. Chọn và đầu tư một số trường văn hóa 
nghệ thuật các tỉnh/thành có điều kiện để tào tạo 
đội ngũ diễn viên, nhạc công cho nghệ thuật dân 
tộc Khmer
Hiện nay, hầu hết các tỉnh/thành vùng Tây 
Nam Bộ đều có trường văn hóa nghệ thuật đào tạo 
nguồn nhân lực về văn hóa, văn nghệ bậc sơ cấp, 
trung cấp cho từng địa phương mình. Trên cơ sở 
sẵn có này, đề xuất thêm:
Giao nhiệm vụ cho Trường Văn hóa Nghệ 
thuật tỉnh Trà Vinh, Trường Văn hóa Nghệ thuật 
tỉnh Sóc Trăng, Trường Văn hóa Nghệ thuật 
tỉnh Kiên Giang đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc 
công cho nghệ thuật dân tộc Khmer bậc sơ cấp, 
trung cấp. 
Nâng Trường Văn hóa Nghệ thuật thành phố 
Cần Thơ thành Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ 
thuật để đào tạo cho cả vùng, trong đó có nhiệm 
vụ đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công cho nghệ 
thuật dân tộc Khmer bậc cao đẳng (sau khi được 
đào tạo bậc trung học ở các tỉnh). 
Đi kèm với nhiệm vụ đào tạo đào tạo đội 
ngũ diễn viên, nhạc công cho nghệ thuật dân tộc 
Khmer, nhất thiết phải đầu tư thêm cơ sở vật chất, 
trang thiết bị và các điều kiện đáp ứng nhiệm vụ 
giảng dạy, học tập tại các trường này. 
3.2.3. Tăng cường đầu tư các đoàn, đội nghệ 
thuật Khmer 
Hiện nay toàn vùng Tây Nam Bộ có 04 đoàn 
nghệ thuật Khmer và 01 đội thông tin văn nghệ 
dân tộc Khmer. Đề xuất tăng cường đầu tư:
- Tăng biên chế cho các đoàn để thực hiện 
được nhiệm vụ: xây dựng, biểu diễn nghệ thuật 
tổng hợp. 
- Xây dựng cơ sở vật chất của các đoàn, đội để 
đảm bảo làm việc, tập luyện.
- Xây dựng rạp biểu diễn (rạp hát) cho các 
đoàn nghệ thuật Khmer để dàn dựng và biểu diễn 
được các chương trình nghệ thuật mang tính quy 
mô lớn, hoành tráng, có chất lượng về mặt nghệ 
thuật.
3.2.4. Nâng cấp, thành lập đoàn, đội nghệ 
thuật Khmer 
Nâng một số đoàn nghệ thuật Khmer hiện có 
thành nhà hát. Có thể là nhà hát nghệ thuật tổng 
hợp dân tộc Khmer (Nhà hát ca múa nhạc dân tộc 
Khmer) hoặc nhà hát chuyên biệt về nghệ thuật 
dân tộc Khmer (Nhà hát Dù kê, Nhà hát Dì kê, Nhà 
hát Rô băm) để đảm bảo việc giữ gìn và phát huy 
các loại hình nghệ thuật dân tộc Khmer ở tầm cao 
hơn trong bối cảnh nghệ thuật của cả nước, của 
khu vực và của thế giới. 
Thành lập một số đội thông tin văn nghệ 
Khmer ở các tỉnh có điều kiện và có nhu cầu như: 
Vĩnh Long, Hậu Giang, An Giang, thành phố Cần 
Thơ do nhà nước đầu tư, quản lý. Sau thời gian 
phát triển, khi đủ điều kiện thì nâng thành đoàn 
nghệ thuật Khmer cấp tỉnh/thành. 
3.3. Lập hồ sơ đề nghị công nhận các loại hình 
nghệ thuật dân tộc Khmer 
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh/thành 
vùng Tây Nam Bộ nghiên cứu, sưu tầm, lập hồ sơ 
đề nghị công nhận loại hình nghệ thuật dân tộc 
Khmer là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thế 
giới. Nếu loại hình nghệ thuật nào liên quan đến cả 
vùng Nam Bộ thì Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
chủ trì, phối hợp thực thực hiện.
4. Thay lời kết
Đồng bào Khmer Nam Bộ là dân tộc giàu bản sắc, 
có tiếng nói và chữ viết riêng, có nền văn hóa phong 
phú, đa dạng, phát triển từ lâu đời. Song, do đời sống 
của phần lớn đồng bào Khmer còn gặp khó khăn cùng 
những yếu tố, điều kiện bất cập khác làm cho việc giữ 
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer, trong 
đó có các loại hình nghệ thuật dân tộc Khmer chưa 
được thuận lợi, suông sẻ và có nguy cơ bị mai một, 
lu mờ, pha tạp, tiếp biến phát triển theo hướng khác. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201426 Soá 13, thaùng 3/2014 27
Do đó, đẩy mạnh việc giữ gìn và phát huy bản 
sắc văn hóa dân tộc Khmer, trong đó có các loại 
hình nghệ thuật dân tộc Khmer là việc làm cấp 
bách và lâu dài, là cách ứng xử tốt đẹp của toàn 
xã hội đối với một dân tộc đã từng có nhiều đóng 
góp cho sự phát triển của vùng đất Nam Bộ, đồng 
thời là cách giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi dành 
cho dân tộc thiểu số đã, đang và sẽ chung sống gần 
gũi, xen kẽ lâu dài với dân tộc đa số, nghĩa là tạo 
điều kiện thuận lợi nhất để dân tộc thiểu số phát 
triển, hòa nhập với xu thế phát triển chung, nhưng 
vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc của mình, 
nói nôm na là: “hòa nhập được, nhưng không bị 
hòa tan”. 
 Đẩy mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc 
văn hóa dân tộc Khmer, trong đó có các loại hình 
nghệ thuật dân tộc Khmer không phải tạo ra các 
chính sách riêng, quy định riêng, điều kiện riêng 
mà dựa vào các chính sách chung, quy định chung, 
điều kiện sẵn có, nhưng chỉ là sự quan tâm nhiều 
hơn, có định hướng rõ ràng hơn, có cách thức thực 
hiện cụ thể hơn và đảm bảo hài hòa giữa một bên 
là sự sáng tạo, nỗ lực, vươn lên của chính đồng 
bào Khmer và một bên là sự hỗ trợ, đầu tư của 
Nhà nước bằng các chính sách, quy định chung 
hiện hành. Ví dụ: Đào tạo đội ngũ nghiên cứu về 
ngôn ngữ - văn hóa - nghệ thuật Khmer Nam Bộ 
tại Trường Đại học Trà Vinh đáp ứng nhiệm vụ 
phát triển văn hóa - xã hội ở Nam Bộ là nhiệm vụ 
chung, là cách thức đào tạo chung theo quy định 
hiện hành như các trường đại học khác được giao 
nhiệm vụ đào tạo đội ngũ này, nhưng ở đây chỉ có 
thêm sắc thái văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. 
Đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công để có 
kỹ năng diễn xướng, diễn tấu các loại hình nghệ 
thuật Khmer tại một số trường văn hóa nghệ thuật 
hiện có ở các tỉnh/thành Tây Nam Bộ là nhiệm vụ 
chung, là cách thức đào tạo chung theo quy định 
hiện hành như cách đào tạo đội ngũ diễn xướng, 
diễn tấu các loại hình hình nghệ thuật của đồng 
bào Kinh (chèo, tuồng, kịch, Cải lương, ca, múa, 
nhạc, hát xoan, hát chầu văn, hát bài chòi, múa 
rối nước).
Việc nâng một số đoàn nghệ thuật Khmer hiện 
có thành nhà hát là việc làm theo quy định chung, 
mô hình chung, nhưng ở đây chỉ mang sắc thái văn 
hóa, nghệ thuật dân tộc Khmer mà thôi. 
Việc thành lập một số đội thông tin văn nghệ 
Khmer ở một số địa phương có điều kiện và có 
nhu cầu là trách nhiệm chung, là việc làm theo 
quy định chung, mô hình chung (như mô hình Đội 
Thông tin Lưu động của Trung tâm Văn hóa thuộc 
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh/thành 
trong cả nước). 
Tài liệu tham khảo
Huỳnh Thanh Quang. 2011. Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Chính 
trị Quốc gia.
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường.1990. Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu 
Long. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Cường. 2002. Vài nét về người Khmer Nam Bộ. NXB KHXH
Nhiều tác giả. 2004. Xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc Khmer Nam Bộ (Kỉ yếu hội thảo khoa 
học). Bộ VHTT và Vụ Văn hóa-Dân tộc. Hà Nội.
Nhiều tác giả. 2013. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở Văn hóa Thông tin. Sóc Trăng.
Trường Lưu. 1993. Văn hóa người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa Dân tộc. HN.
Viện Văn hoá.1998. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU 
DÙ KÊ KHMER NAM BỘ - DI SẢN VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC
 Lê Tiến Thọ1 
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu một số đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, một số 
khó khăn hiện nay của loại hình nghệ thuật này. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm cải tiến 
và nâng cao chất lượng nghệ thuật sân khấu Dù kê, góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa 
truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển, hòa nhập cùng 
với cộng đồng thế giới và thời đại.
Từ khoá: Nghệ thuật Sân khấu Dù kê, dân tộc Khmer Nam Bộ
Abstract
This paper is to introduce some typical features of Southern Khmer Du ke theatre and show its 
current facing difficulties. Since then, the paper will propose solutions to improve quality of Du ke 
theatre, contributing to preserve and develop traditional values of Southern Khmer people and creating 
an important premise for the development and integration into the world community. 
Keywords: Du ke theatre, Southern Khmer people 
1 Nghệ sĩ Nhân dân, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam
1. Đặt vấn đề
Từ bao đời nay, mảnh đất Đồng bằng sông 
Cửu Long cây xanh trái ngọt, lúa gạo trĩu bông, 
ruộng đồng cò bay thẳng cánh với những con 
người trọng nghĩa, khinh tài, chân chất, sống thân 
tình giữa các dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm 
đã tạo nên một bản sắc văn hóa độc đáo, phong 
phú. Xuất phát từ nhu cầu sinh hoạt văn hóa và tín 
ngưỡng thờ cúng thần linh mà mỗi dân tộc nơi đây 
hình thành những loại hình nghệ thuật diễn xướng 
và sân khấu dân gian riêng biệt. Người dân Khmer 
Nam Bộ có quyền tự hào vì đã góp vào bản sắc văn 
hóa dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo, 
trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê. Nghệ thuật 
Dù kê Khmer với đặc trưng có tính cốt truyện, 
nghệ thuật biểu diễn tinh tế, ý nghĩa nhân văn sâu 
sắc nên được người dân yêu thích, trở thành một 
món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống xã 
hội của cộng đồng dân tộc Khmer nên được bà con 
luôn bảo tồn và phát triển.
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa 
dân tộc đang gặp nhiều khó khăn, đặt ra trách 
nhiệm cho các nhà quản lý và các nghệ sĩ trên lĩnh 
vực nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer. Làm cách 
nào để giữ gìn và phát triển nghệ thuật sân khấu 
truyền thống trong cơ chế thị trường, làm sao để 
tìm ra các giải pháp cho sáng tạo để có nhiều tác 
phẩm nghệ thuật sân khấu Dù kê có chất lượng 
phục vụ nhân dân góp phần xây dựng và phát triển 
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân 
tộc trong xu thế hội nhập.
2. Bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hoá của dân tộc
Nghệ thuật sân khấu Dù kê ra đời trên cơ 
sở kế thừa những loại hình nghệ thuật đã có trước 
đó của dân tộc Khmer như Rô băm. Hình thành và 
phát triển ở vùng đất mới, nơi có đời sống cộng 
cư, nên nghệ thuật sân khấu Dù kê đã có những 
ảnh hưởng bởi sự giao thoa văn hóa giữa người 
Khmer với người Kinh và người Hoa trên địa 
bàn... Với những đặc điểm của vùng miền, của sự 
hội tụ và lan tỏa, nghệ thuật sân khấu Dù kê ra đời 
đã nhanh chóng được phổ biến khắp các tỉnh đồng 
bằng Nam Bộ. Chúng ta thấy có nhiều đơn vị nghệ 
thuật sân khấu Dù kê Khmer lần lượt ra đời, trong 
đó phải kể tới các tỉnh có sự phát triển mạnh như: 
Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Vĩnh 
Long, Cà Mau

File đính kèm:

  • pdfcac_loai_hinh_nghe_thuat_cua_dong_bao_khmer_nam_bo_thuc_tran.pdf