Các phương thức chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt

TÓM TẮT

Giới từ tiếng Nga được sử dụng với tần suất cao, có phạm vi sử dụng rộng lớn. Tuy không đóng

vai trò là thành phần câu, nhưng giới từ làm rõ hơn chức năng cú pháp của các thành phần trong

câu, cũng như khu biệt ý nghĩa của các dạng cách mà khi kết hợp với các dạng cách đó chúng thể

hiện các mối quan hệ khác nhau. Tiếng Nga và tiếng Việt khác nhau về loại hình ngôn ngữ nên

không thể tránh khỏi một số khó khăn khi dịch giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt. Lý luận dịch

ngôn ngữ xem xét việc dịch thuật như là sự chuyển mã, sự cải biến các ngôn ngữ, sự hoạt động

sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra văn bản dịch. Nhiệm vụ của người dịch là phải đưa ra được

sự tương đương về nghĩa giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Trong bài viết này, chúng tôi

khảo sát và đưa ra một số nhận xét về khả năng chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang

tiếng Việt từ góc độ tương đương dịch thuật.

pdf 7 trang yennguyen 3980
Bạn đang xem tài liệu "Các phương thức chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương thức chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt

Các phương thức chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt
69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
DỊCH THUẬT v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giới từ tiếng Nga được sử dụng với tần suất 
cao và có phạm vi sử dụng rộng lớn. Tuy không 
đóng vai trò là thành phần câu, nhưng giới từ làm 
rõ hơn chức năng cú pháp của các thành phần 
trong câu, cũng như khu biệt ý nghĩa của các 
dạng cách mà khi sử dụng ở các dạng cách đó 
chúng thể hiện các mối quan hệ về không gian, 
thời gian, đối tượng hành động, nguyên nhân, 
điều kiện, mục đích. Phần lớn giới từ trong 
tiếng Nga là những từ có khả năng biểu thị các 
ý nghĩa khác nhau, bởi vậy cùng một giới từ có 
thể được sử dụng để thể hiện những mối quan hệ 
ĐOÀN THỤC ANH*; TRẦN THỊ THANH TRÀ**
*Học viện Khoa học Quân sự, ✉ doanthucanhk12@gmail.com
**Học viện Khoa học Quân sự, ✉ tradichthuat@yahoo.com
CÁC PHƯƠNG THỨC CHUYỂN DỊCH
Ý NGHĨA CỦA GIỚI TỪ TIẾNG NGA
SANG TIẾNG VIỆT
ngữ nghĩa khác nhau, cũng như các giới từ khác 
nhau có thể thể hiện cùng một mối quan hệ ngữ 
nghĩa khi kết hợp với các thực từ. Tiếng Nga 
và tiếng Việt khác nhau về loại hình ngôn ngữ 
nên không thể tránh khỏi một số khó khăn khi 
dịch giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt. Lý luận 
dịch ngôn ngữ xem xét việc dịch thuật như là 
một sự chuyển mã, sự cải biến các ngôn ngữ, sự 
hoạt động sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra 
văn bản dịch. Nhiệm vụ của người dịch là phải 
đưa ra được sự tương đương về nghĩa giữa ngôn 
ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Có thể sử dụng các 
phương thức chuyển dịch giới từ khác nhau nhìn 
từ góc độ tương đương dịch thuật.
TÓM TẮT
Giới từ tiếng Nga được sử dụng với tần suất cao, có phạm vi sử dụng rộng lớn. Tuy không đóng 
vai trò là thành phần câu, nhưng giới từ làm rõ hơn chức năng cú pháp của các thành phần trong 
câu, cũng như khu biệt ý nghĩa của các dạng cách mà khi kết hợp với các dạng cách đó chúng thể 
hiện các mối quan hệ khác nhau. Tiếng Nga và tiếng Việt khác nhau về loại hình ngôn ngữ nên 
không thể tránh khỏi một số khó khăn khi dịch giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt. Lý luận dịch 
ngôn ngữ xem xét việc dịch thuật như là sự chuyển mã, sự cải biến các ngôn ngữ, sự hoạt động 
sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra văn bản dịch. Nhiệm vụ của người dịch là phải đưa ra được 
sự tương đương về nghĩa giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Trong bài viết này, chúng tôi 
khảo sát và đưa ra một số nhận xét về khả năng chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang 
tiếng Việt từ góc độ tương đương dịch thuật. 
Từ khóa: chức năng cú pháp, đặc điểm ngữ nghĩa, giới từ, phương thức chuyển dịch.
70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v DỊCH THUẬT
2. NỘI DUNG
2.1. Dịch thuật và tương đương dịch thuật 
Dịch thuật là gì? Theo Kazakov Т. А. : “Dịch 
là quá trình chuyển đổi lời nói hay văn bản viết 
từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích. Dịch là 
hoạt động giao tiếp, là quá trình thể hiện thông 
điệp qua các hàng rào ngôn ngữ và văn hóa” 
(Комиссаров В. И., 2000, tr. 38).
Tương đương dịch thuật là “sự trùng hợp hay 
tương ứng trên một hoặc nhiều bình diện: ngữ 
âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng, giữa các 
đơn vị dịch thuật của văn bản nguồn và văn bản 
đích với tư cách vừa là sản phẩm vừa là phương 
tiện của dịch thuật như một quá trình giao tiếp” 
(Львовская З. Д., 1985, tr.137). 
2.2. Đặc trưng của giới từ trong tiếng Nga
2.2.1. Đặc điểm về mặt cấu tạo của giới từ 
tiếng Nga
“Giới từ là hư từ biểu thị sự phụ thuộc của 
một thực từ đối với thực từ khác trong tập hợp 
từ hoặc trong câu và nhờ đó thể hiện mối quan 
hệ của các sự vật và hiện tượng, dấu hiệu, trạng 
thái do chính các từ đó biểu thị” (Академия 
наук СССР, 1982, tr.707): говорить о поездке, 
забежать за ограду, перелезть через забор, 
состоять из частиц, беседовать в течение 
часа, дом на окраине, недалеко от станции, 
скучать среди чужих. Trong tập hợp từ hoặc 
trong câu, giới từ có thể kết hợp với danh từ (за 
любовь, на работу), đại từ (работать вместо 
тебя), tính từ (готовый к подвигу), số từ (на 
два года, на пять раз), động từ (идти по 
лесу), trạng từ (на завтра), tính động từ (зал 
ожидания для отъезжающих).
Căn cứ vào nguồn gốc cấu tạo, giới từ được 
chia thành hai loại: giới từ phái sinh và giới từ 
nguyên sinh (В.Д. Стариченка, 2012, tr. 405). 
Giới từ nguyên sinh là các từ đơn mà không gắn 
kết với nhau bởi mối quan hệ cấu tạo từ với các 
thực từ: без/безо, в/во, для, до, за, из/изо, к/
ко, над/надо, о/обо/бо, от/ото, на, с/со, у, 
через. Tất cả các giới từ phái sinh chia ra thành 
giới từ cấu tạo từ danh từ (ввиду, в качестве, 
во имя, по линии, под видом), cấu tạo từ trạng 
từ (близ, сверх, после, подле, согласно) và từ 
trạng động từ (включая, исключая).
Căn cứ vào thành phần hình vị, các giới từ 
được phân loại thành giới từ đơn và giới từ ghép 
(В.Д. Стариченка, 2012, tr 406). Tất cả các giới 
từ bao gồm cả giới từ nguyên sinh và phái sinh 
mà được cấu tạo từ một từ đều thuộc nhóm giới 
từ đơn (мимо, путём, среди). Ngoài ra, một 
số giới từ phức (giới từ theo cặp/giới từ đôi) 
cũng được xem như biến thể của giới từ đơn (из-
за, из-под). Các giới từ ghép là các giới từ 
phái sinh được cấu tạo từ hai hoặc ba từ: gồm có 
dạng thức của danh từ, trạng động từ hoặc trạng 
từ kết hợp với một hoặc hai giới từ phái sinh: 
в отличие от, по отношению к, вдали от. 
Có thể nhận thấy rằng, số lượng giới từ trong 
tiếng Nga gia tăng nhanh nhờ phương thức cấu 
tạo bằng danh từ, trạng từ và trạng động từ. 
2.2.2. Đặc điểm về ngữ nghĩa và cú pháp 
của giới từ tiếng Nga
Ngữ nghĩa của giới từ được hình thành từ sự 
kết hợp của cả ý nghĩa từ vựng và ngữ pháp, 
trong đó các ý nghĩa thuộc về dạng cách sẽ là 
ý nghĩa ngữ pháp của chúng và các thành tố 
ngữ nghĩa gắn liền với việc cụ thể hóa các mối 
quan hệ về không gian, thời gian tạo nên ý 
nghĩa từ vựng của giới từ (В.Д. Стариченка, 
2012, tr.201). Giới từ cũng như các từ loại khác 
có thể là từ đơn nghĩa hoặc đa nghĩa. Trong 
tiếng Nga có một số lượng lớn các giới từ đa 
nghĩa. Từ đơn nghĩa thường là các giới từ phái 
sinh (благодаря хорошей погоде) và giới từ 
nguyên sinh là các từ đa nghĩa (забыл на столе 
(ý nghĩa không gian), отлучился на минуту 
(ý nghĩa thời gian), верить на слово (ý nghĩa 
chỉ phương thức hành động)). Các giới từ 
nguyên sinh có thể biểu thị những ý nghĩa khác 
71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
DỊCH THUẬT v
nhau: không gian (отдыхать под Москвой), 
thời gian (работать в воскресенье), cùng 
nhau hành động (гулять с подругой), rời 
bỏ (уйти от ответственности), biến hóa 
(превратить в руины), giới hạn (сыт по 
горло), phân bổ (есть раз в день по одному 
блюду), mục đích (поехать на отдых), 
nguyên nhân (задрожать от страха), định 
tính (мясо под соусом), đối tượng hành động 
(скучать по сыну), phương thức hành động 
(работать с увлечением). Các giới từ nguyên 
sinh có thể hành chức ở ba cách (giới từ по, с), 
hành chức ở hai cách (giới từ в, за, меж, между, 
на, о, под) hoặc một cách (giới từ без, для, до, 
из, из-за, из-под, к, над, от, перед, при, про, 
ради, у, через). Ý nghĩa của giới từ nguyên 
sinh tương ứng với ý nghĩa từ vựng của các thực 
từ mà giới từ đi kèm, ví dụ: giới từ в течение, 
на протяжении biểu thị mối quan hệ thời gian; 
giới từ по сравнению с và подобно biểu thị mối 
quan hệ đối chiếu, tương đồng.
Mỗi giới từ phái sinh chỉ đi với một dạng 
cách nào đó. Giới từ phái sinh là giới từ có mối 
quan hệ cấu tạo từ phong phú và có mối liên 
kết từ vựng-ngữ nghĩa với các thực từ như danh 
từ, trạng từ, động từ và trạng động từ. Số lượng 
giới từ phái sinh lớn hơn nhiều lần so với giới từ 
nguyên sinh. Các giới từ phái sinh thường được 
sử dụng để thể hiện những ý nghĩa sau: không 
gian (около дома); thời gian (во время войны); 
nguyên nhân (по случаю приезда гостей); 
mục đích (во имя науки).
Có thể cụ thể hóa từng ý nghĩa của giới từ đa 
nghĩa nhờ vào ngữ cảnh: ví dụ: выйти из дома 
(ý nghĩa không gian), сделать из зависти (ý 
nghĩa nguyên nhân). Bởi vậy, không thể xác 
định được ý nghĩa của giới từ nếu chúng đứng 
biệt lập. Trong ngữ cảnh nhất định giới từ có mối 
tác động qua lại với các đơn vị có nghĩa khác ở 
cấp độ từ vựng và hình thái từ. Giới từ đòi hỏi 
danh từ mà chúng đi kèm phải được sử dụng ở 
một dạng cách nhất định (các giới từ: без, для, 
до, из, от, с, у, близ, вне kết hợp với danh từ 
cách 2). Một số giới từ có khả năng kết hợp với 
hai hoặc nhiều hơn hai dạng cách (giới từ меж 
(между): меж домов, между домами sử dụng 
với cách 2 và cách 5). 
2.3. Các phương thức chuyển dịch ý nghĩa 
của giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt
Tiếng Nga là ngôn ngữ biến hình nên có các 
phạm trù ngữ pháp như: ngôi, thời, thể, thức, 
dạng, giống, số, cách. Giới từ tiếng Nga có 
những đặc trưng về cấu trúc và ngữ nghĩa như 
đã trình bày ở trên. Còn tiếng Việt là một ngôn 
ngữ đơn lập, phân tích tính, không có các chỉ tố 
biểu thị ngôi, thời, thức, dạng..., chỉ dùng các 
phương tiện thuần tuý cú pháp là hư từ và trật 
tự từ. Vì không có sự tương đồng hoàn toàn về 
mặt hình thức biểu hiện trong hai ngôn ngữ nên 
khi chuyển dịch nghĩa của giới từ tiếng Nga sang 
tiếng Việt có thể có các cách thức chuyển dịch 
tương đương khác nhau.
Tương đương ngữ pháp là khả năng tương 
ứng về các phương diện: phạm trù từ loại của 
các từ, trật tự từ, cấu trúc cú pháp và kiểu câu. 
Tương đương về ngữ nghĩa là khả năng 
tương đương về: a) nghĩa sở biểu và nghĩa sở thị 
ở cấp độ từ; b) nghĩa mô tả ở cấp độ câu. 
Tương đương ngữ dụng là sự tương ứng về 
các thông tin ngữ dụng liên quan đến các nhân 
tố của tình huống giao tiếp như mục đích giao 
tiếp, ý định thông báo, thái độ của người nói với 
người tiếp nhận văn bản, cảnh huống giao tiếp, 
bối cảnh văn hoá xã hội làm nảy sinh văn bản 
nguồn và văn bản đích, v.v 
Qua khảo sát một số tác phẩm văn học đã 
được dịch sang tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy: 
để chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga, 
có thể sử dụng một số phương thức cơ bản sau:
2.3.1. Phương thức dịch nguyên gốc
Dịch nguyên gốc (дословный перевод) - là 
cách dịch đúng từng từ của văn bản ngôn ngữ 
nguồn sang văn bản ngôn ngữ đích. Phương thức 
72 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v DỊCH THUẬT
dịch này được sử dụng khi cấu trúc câu của ngôn ngữ đích và ngôn ngữ nguồn tương đương nhau, từ 
cần dịch của ngôn ngữ nguồn tương đương hoàn toàn với từ ở ngôn ngữ đích. Người dịch giữ nguyên 
trật tự từ trong văn bản, tái tạo lại sát nhất ở mức có thể cấu trúc cú pháp và thành phần từ vựng của 
văn bản gốc:
Придя машинально домой, не снимая 
вицмундира, он лёг на диван и ... помер. 
(Чехов А. П., Смерть Чиновника)
Đi về nhà như cái xác không hồn, y mặc nguyên bộ lễ 
phục, nằm xuống đi văng và ... tắt thở. (Sekhov A. 
P., Cái chết Viên quan chức, Phan Hồng Giang dịch)
Она участвовала во всех суетностях 
большого света, таскалась на балы, где 
сидела в углу, разрумяненная и одетая 
по старинной моде, как уродливое и 
необходимое украшение бальной залы. 
(Пушкин A. C., Пиковая дама)
Bà ta tham dự vào tất cả những cuộc vui của giới 
thượng lưu, la cà ở khắp các nơi khiêu vũ. Phấn sáp 
ngồn ngộn, ăn mặc theo kiểu cổ xưa, bà đến đấy, 
ngồi ở một góc phòng, hình như để làm một thứ ngáo 
ngộp, một thứ trang trí quái gở của phòng khiêu vũ. 
(Puskin А. X., Con đầm bích, Phương Hồng dịch)
Bên cạnh các ví dụ nêu trên, phương thức dịch nguyên gốc còn được sử dụng với các giới từ khi 
kết hợp với danh từ dùng làm tên gọi cho các tác phẩm văn học: 
Месяц в деревне (Тургенев И.) – Một tháng ở quê (Nhị Ca dịch); 
Неделя в Тургеневе (Тольстой А.) – Một tuần ở Turghenhep (Trần Duy Thanh dịch);
После бала (Толстой Л.) – Sau cuộc khiêu vũ (Nguyên Hùng dịch).
2.3.2. Phương thức dịch chuyển nghĩa
Khi sử dụng phương thức dịch chuyển nghĩa (сематический способ), dịch giả không chú ý tới 
dịch cấu trúc câu mà chú trọng tới việc chuyển tải ý nghĩa được thể hiện trong văn bản. Cách dịch này 
chỉ dựa trên cấp độ nội dung thông tin của văn bản: 
Впрочем, вы меня навели на мысль и задали 
мне долгую думу; нo я подумаю после, а 
теперь признаюсь вам, что правду вы 
говорите. (Достоевский Ф. М., Белые ночи)
Nhưng ông cũng đã gợi cho em một ý để em phải 
suy nghĩ, nhưng điều đó để sau, còn bây giờ em 
thú nhận với ông là ông nói đúng. (Đôxtôevxki F. 
M., Đêm trắng, Đoàn Tử Huyến dịch)
Любовь не приходила ему на ум, - а уже 
видеть графиню каждый день было для него 
необходимо. (Пушкин A. C., Арап Петра 
великого)
Ibraghim không hề nghĩ đến tình yêu, nhưng bây 
giờ được thấy mặt bá tước phu nhân mỗi ngày một 
bận đối với Ibraghim đã thành một việc không 
thể hiểu được. (Puskin A. X., Người da đen của 
Piốt Đại đế, Hoàng Tôn dịch)
Phương thức dịch chuyển nghĩa cũng được dùng để chuyển dịch ý nghĩa của giới từ trong các tên 
gọi tác phẩm văn học sau: 
Корзина с еловыми шишками (Паустовский К.) – Lẵng quả thông (Kim An dịch); 
73KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
DỊCH THUẬT v
В конце концов (Полевой Б.) – Kết cục (Nguyễn Xuân Sanh dịch); 
Двадцать дней без войны (Симонов К.) – Hai mươi ngày không có chiến tranh (Trần Duy 
Thanh dịch); 
В сторону заката солнца (Платонов А.) – Về phía mặt trời lặn (Đình Cao dịch).
2.3.3. Phương thức dịch văn học
Dịch văn học (литературный перевод) là phương thức dịch giữ nguyên được ý nghĩa ngữ cảnh 
của văn bản gốc và ý nghĩa này được chuyển tải ở dạng mà cả ngữ cảnh và ngôn ngữ văn bản đều 
được độc giả chấp nhận. Phương thức dịch văn học chuyển tải nghĩa của văn bản gốc ở dạng ngôn 
ngữ văn học chuẩn mực. Vì sự khác biệt về mặt cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ 
đích, nên dịch giả khó giữ nguyên được lớp vỏ hình thức của văn bản ngôn ngữ nguồn khi chuyển 
dịch. Để đảm bảo tính chính xác của việc chuyển tải ngữ nghĩa, dịch giả có thể thay đổi cấu trúc câu 
tương ứng với chuẩn mực ngôn ngữ và văn phong ở ngôn ngữ đích. Đôi khi dịch giả không nhất thiết 
phải dịch căn ke từng từ sang từ:
По степи, влево от нас, поплыли тени 
облаков, пропитанные голубым сиянием 
луны, они стали прозрачней и светлей. 
(Максим Горкий, Старуха Изергиль) 
Bên trái, bóng mây nhuốm ánh trăng xanh lướt 
trên thảo nguyên, mây trở nên trong hơn và sáng 
hơn. (Makxim Gorky, Bà lão Idécghin, Phạm 
Mạnh Hùng dịch)
Каждый голос женщин звучал совершенно 
отдельно, все они казались разноцветными 
ручьями и, точно скатываясь откуда-то 
сверху по уступам, прыгая и звеня, вливаясь 
в густую волну мужских голосов, плавно 
лившуюся кверху, тонули в ней, вырывались 
из неё, заглушали её и снова один за другим 
взвивались, чистые и сильные, высоко 
вверх. (Максим Горкий, Старуха Изергиль) 
Một giọng nữ lanh lảnh nghe tách bạch hẳn, ta có 
thể mường tượng đó là những dòng suối muôn 
màu từ trên cao đổ xuống các khối đá, reo rắt 
vọt tung lên hòa vào làn sóng giọng nam dày đặc 
đang nhịp nhàng cuộn lên, chìm ngập trong làn 
sóng đó, rồi lại bứt ra át hẳn mọi âm thanh ấy, 
giọng này tiếp giọng kia, lại vút lên cao, trong trẻo 
và mạnh mẽ. (Makxim Gorky, Bà lão Idécghin, 
Phạm Mạnh Hùng dịch)
“Что, если, - думал он на другой день 
вечером, бродя по Петербургу, - что, если 
старая графиня откроет мне свою тайну!...” 
(Пушкин А. С., Пиковая дама)
“chiều tối hôm sau, trong khi đi dạo chơi trên 
những đường phố của thành Peterburg, anh lại 
nghĩ vấn vương: Giá bà bá tước ấy truyền cho ta 
cái bí quyết kia nhỉ!...” (Puskin A. X., Con đầm 
bích, Phương Hồng dịch)
Phương thức dịch trên cũng được áp dụng trong các trường hợp dịch giới từ trong các tiêu đề tác 
phẩm văn học: 
Последний из Удэге (Фадеев A.) – Người cuối cùng của bộ tộc Uđêghê (Bùi Hiển dịch);
Сказка о рыбаке и рыбке (Пушкин А.) – Câu chuyện ông lão đánh cá và con cá vàng (Cao 
Xuân Hạo dịch);
74 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
v DỊCH THUẬT
Наедине с осенью (Паустовский А.) – Một 
mình với mùa thu (Phan Hồng Giang dịch)
Qua việc phân tích các ví dụ trên cho thấy: 
vì dịch thuật được hiểu là hoạt động chuyển đổi 
cách diễn đạt giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ 
mục tiêu, nên khi dịch giới từ người dịch phải có 
kỹ năng xử lý linh hoạt câu từ ở cả hai ngôn ngữ. 
Do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tư duy 
dân tộc nên hiện tượng tương đương hoàn toàn 
không phải là hiện tượng phổ biến trong dịch 
thuật. Khi dịch các giới từ, dịch giả có nhiệm 
vụ chuyển tải ý nghĩa của chúng một cách trung 
thành với nghĩa có trong văn bản gốc, tuy nhiên 
trong nhiều trường hợp người dịch có thể bổ 
sung, làm giàu các ý nghĩa đó bằng các phương 
tiện có trong ngôn ngữ đích sao cho phù hợp với 
ngôn cảnh và thỏa mãn được nhu cầu thẩm mỹ 
của bạn đọc. Tùy từng hoàn cảnh cụ thể và tùy 
vào đối tượng tiếp nhận thông tin mà dịch giả 
có thể lựa chọn các phương thức chuyển dịch 
khác nhau như dịch nguyên gốc hoặc dịch kèm 
theo giải nghĩa để làm rõ nội hàm thông tin, dịch 
kèm theo thực tiễn để người tiếp nhận thông tin 
dễ hiểu hoặc dịch tóm tắt ý.... Bên cạnh việc 
dịch đúng, dịch giả còn phải thể hiện sự uyển 
chuyển trong từng câu chữ nhằm tạo sức thu hút 
với người đọc. Tính linh hoạt trong dịch thuật 
được thể hiện qua sự mềm dẻo của người dịch 
trong việc xử lý, phân tích nghĩa của từ, lựa chọn 
phương án dịch tối ưu có tính đến các yếu tố 
như tính bản địa hóa, các điểm tương đồng và 
khác biệt trong tư duy dân tộc, các nét đặc trưng 
về đất nước, văn hóa, con người của ngôn ngữ 
đích, cũng như tâm lý, trình độ nhận thức của đối 
tượng tiếp nhận thông tin....
3. KẾT LUẬN
Giới từ là từ loại hư từ thể hiện các mối quan 
hệ cú pháp giữa danh từ và các từ loại khác, cũng 
như giữa các danh từ với nhau. Giới từ cũng như 
các từ loại khác có thể là từ đơn nghĩa hoặc đa 
nghĩa. Hầu như tất cả các giới từ nguyên sinh 
đều là giới từ đa nghĩa. Nhiều giới từ trong tiếng 
Nga có khả năng kết hợp với nhiều hơn một 
dạng cách của danh từ và có khả năng thể hiện 
các mối quan hệ ngữ nghĩa khác nhau. Việc phân 
tích số lượng lớn các ví dụ thu thập được từ các 
tác phẩm văn học nghệ thuật cho phép chúng tôi 
khái quát lại một số phương thức chuyển dịch 
giới từ như sau: phương thức dịch nguyên gốc, 
phương thức dịch chuyển nghĩa và phương thức 
dịch văn học. Mỗi phương thức chuyển dịch 
được thể hiện bởi các phương tiện ngôn ngữ 
riêng, tạo nên sự khác biệt và độc đáo của các 
văn bản dịch./.
Tài liệu tham khảo:
1. Đôxtôevxki F. M., Đoàn Tử Huyến dịch, 
(2004), Đêm trắng, NXB Thế giới, Hà Nội.
2. Gorki M. (1986), Bà lão Idécghin, NXB 
“Ngoại văn”, Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng dịch.
3. Puskin A. X. (1999), Con đầm bích, NXB 
Văn Nghệ, TP. HCM, Phương Hồng dịch.
4. Puskin A. X., Người da đen của Piốt Đại 
đế, Hoàng Tôn dịch, truy cập ngày 26/6/2017, 
<Truyen.com <www.Imvn.com/truyen/index.ph
p?func=viewpost&id=37rGỦd5q97...>. 
5. Академия наук СССР (1982), Русская 
Грамматика, Издательство “Наука” М..
6. Достоевский Ф. М. (2004), Белые ночи, 
Изд. “Thếgiới”, Ханой.
7. Горький М. (1986), Старуха Изергиль, 
Изд. “Ngoạivăn”, Ханой.
8. Комиссаров В. И. (2000), Современное 
переводоведение, Курс лекций. Изд. “ЭТC”, 
Москва.
9. Латышев Л. К. (2001), Технология 
перевода, Москва, НВИ – ТЕЗАУРУС.
10. Львовская З. Д. (1985), Теоретические 
проблемы перевода, Москва, “Высшая школа”.
11. В.Д. Стариченкo (2012), Cовременный 
русский литературный язык, Минск 
“Вышэйшая школа”.
12. Пушкин A. C., Пиковая дама, truy cập 
ngày 26/6/2017, <www.ilibrary.ru/text/480/p.1/
index.html>.
13. Пушкин A. C., Арап Петра великого, 
truy cập ngày 26/6/2017, <www.rvb.ru/
puskin/01text/06 prose/0856.htm>. 
75KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017
DỊCH THUẬT v
METHODS OF CONVEYING THE MEANINGS OF RUSSIAN PREPOSITIONS 
INTO VIETNAMESE EQUIVALENTS
DOAN THUC ANH, TRAN THI THANH TRA
Abstract: Russian prepositions are being used with a high frequency, they have a wide and 
variable range of usage. Russian prepositions don’t have any role as a part in a sentence’s 
structure, however, they clarify the syntactic functions of the parts in a sentence, as well as make 
a distinction between the meanings of words in different forms that when combine with these 
words in different forms, they can express different relationships. A preposition can be used to 
express many different relationships and vice versa, many prepositions can be used to express a 
semantic relationship when combine with a notional word. This study went in depth in analyzing 
the characteristics of Russian prepositions and suggested some methods to convey the meanings 
of Russian prepositions in Vietnamese. 
Keywords: syntactic function, semantic characteristics, preposition, methods of conveying the 
meanings.
Received: 25/4/2017; Revised: 26/6/2017; Accepted for publication: 28/6/2017

File đính kèm:

  • pdfcac_phuong_thuc_chuyen_dich_y_nghia_cua_gioi_tu_tieng_nga_sa.pdf