Căn cước lịch sử của Thánh Mẫu: Phát hiện và luận giải đạo sắc phong cổ nhất mang niên đại 1683 cho Liễu Hạnh công chúa hiện còn nguyên tại phủ giầy ở Nam Định
Tính từ bài viết mở đường vào năm 1914 của Đào Thái Hành cho đến nay, sau hơn
một thế kỷ nghiên cứu, nghiêm túc nhìn lại thì chúng ta có thể thấy rằng, dù hệ thần Liễu
Hạnh và tín ngưỡng hệ thần Liễu Hạnh có sức hấp dẫn rất lớn đối với học giới cả trong
nước và quốc tế, nhưng lại có rất ít nghiên cứu thực hiện công việc khảo chứng kỹ lưỡng
và hệ thống các nguồn tư liệu mang tính căn cước. Phần nhiều chỉ là các luận giải mang
tính áng chừng, người sau đại khái sao chép lại người trước. Bởi vậy, ngay với hai câu hỏi
cơ bản đầu tiên mà hiện nay chúng ta vẫn chưa có được lời giải thỏa đáng, đó là: 1. Danh
xưng Liễu Hạnh (và các danh xưng liên quan) thực sự đã xuất hiện từ bao giờ? 2. Liễu
Hạnh và hệ thần Liễu Hạnh đã chính thức được vương triều quân chủ nào công nhận đầu
tiên thông qua việc ban tặng sắc phong? Bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu điền dã dân
tộc học kết hợp khảo chứng tư liệu thành văn với quan điểm coi trọng “chân thực riêng
lẻ” và “ghi chép dày” trong nhiều năm qua về hệ thần Liễu Hạnh, muốn cung cấp những
căn cứ gốc gác ngõ hầu góp phần giải đáp cho hai câu hỏi nêu trên. Chúng tôi chọn mảng
sắc phong, và đặc biệt chú ý đến sắc phong dạng nguyên gốc còn lưu giữ được. Ở đây,
do dung lượng bị giới hạn, nên mới chỉ tập trung vào sắc phong cho riêng Liễu Hạnh, mà
cũng mới chỉ là một sắc phong sớm nhất cho riêng thánh địa Phủ Giầy ở Nam Định mà thôi
Tóm tắt nội dung tài liệu: Căn cước lịch sử của Thánh Mẫu: Phát hiện và luận giải đạo sắc phong cổ nhất mang niên đại 1683 cho Liễu Hạnh công chúa hiện còn nguyên tại phủ giầy ở Nam Định
CĂN CƯỚC LỊCH SỬ CỦA THÁNH MẪU: PHÁT HIỆN VÀ LUẬN GIẢI ĐẠO SẮC PHONG CỔ NHẤT MANG NIÊN ĐẠI 1683 CHO LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA HIỆN CÒN NGUYÊN TẠI PHỦ GIẦY Ở NAM ĐỊNH Chu Xuân Giao* Tính từ bài viết mở đường vào năm 1914 của Đào Thái Hành cho đến nay, sau hơn một thế kỷ nghiên cứu, nghiêm túc nhìn lại thì chúng ta có thể thấy rằng, dù hệ thần Liễu Hạnh và tín ngưỡng hệ thần Liễu Hạnh có sức hấp dẫn rất lớn đối với học giới cả trong nước và quốc tế, nhưng lại có rất ít nghiên cứu thực hiện công việc khảo chứng kỹ lưỡng và hệ thống các nguồn tư liệu mang tính căn cước. Phần nhiều chỉ là các luận giải mang tính áng chừng, người sau đại khái sao chép lại người trước. Bởi vậy, ngay với hai câu hỏi cơ bản đầu tiên mà hiện nay chúng ta vẫn chưa có được lời giải thỏa đáng, đó là: 1. Danh xưng Liễu Hạnh (và các danh xưng liên quan) thực sự đã xuất hiện từ bao giờ? 2. Liễu Hạnh và hệ thần Liễu Hạnh đã chính thức được vương triều quân chủ nào công nhận đầu tiên thông qua việc ban tặng sắc phong? Bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu điền dã dân tộc học kết hợp khảo chứng tư liệu thành văn với quan điểm coi trọng “chân thực riêng lẻ” và “ghi chép dày” trong nhiều năm qua về hệ thần Liễu Hạnh, muốn cung cấp những căn cứ gốc gác ngõ hầu góp phần giải đáp cho hai câu hỏi nêu trên. Chúng tôi chọn mảng sắc phong, và đặc biệt chú ý đến sắc phong dạng nguyên gốc còn lưu giữ được. Ở đây, do dung lượng bị giới hạn, nên mới chỉ tập trung vào sắc phong cho riêng Liễu Hạnh, mà cũng mới chỉ là một sắc phong sớm nhất cho riêng thánh địa Phủ Giầy ở Nam Định mà thôi. Lời mở: Sự thiếu vắng những nghiên cứu khảo chứng kỹ lưỡng và hệ thống về căn cước lịch sử của hệ thần Liễu Hạnh Nghiên cứu hiện đại về tín ngưỡng Mẫu Liễu (Bà chúa Liễu Hạnh, Thánh mẫu Liễu Hạnh, Liễu Hạnh công chúa) cả trên phương diện truyền thuyết và thực hành, như đã chỉ ra ở phần tổng quan lịch sử nghiên cứu trong một bài viết trước của chúng tôi [Chu Xuân Giao 2010b], có thể bắt đầu tính từ khảo luận bằng tiếng Pháp của Đào Thái Hành ở đầu thế kỷ XX. Ở thời điểm đó, vị Thư ký Hội đồng Nhiếp chính họ Đào(1) giới thiệu rằng, Liễu Hạnh là một trong “Tứ Bất Tử trên đất Việt Nam” (quatre Immortels qu’ait produit la terre annamite), và được thờ phụng ở nhiều đền thuộc Bắc Kỳ cũng như khu vực kinh đô Huế và phụ cận với tên gọi là “Thánh Mẫu”. Chữ “Thánh Mẫu” được viết nguyên bằng Quốc ngữ, và mở ngoặc dịch sang tiếng Pháp là “la Sainte Mère” (còn “Thánh mẫu Liễu Hạnh” thì được * Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 24 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 25Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 dịch thành “La Déesse Liễu - Hạnh”). Đào Thái Hành cũng nói rõ là mình biên soạn truyền thuyết về Thánh mẫu là dựa theo các tài liệu bằng chữ Hán Nôm như Hoàng Việt địa dư, Đại Nam nhất thống chí, Dã sử trong thư viện hoàng gia, đặc biệt là tác phẩm Vân Cát thần nữ tân truyện của Thị Điểm(2) và Thanh Hóa kỷ thắng của Vương Duy Trinh.(3) Về cơ bản, bản kể của Đào Thái Hành ở thời điểm năm 1914 (tức năm Duy Tân 8) là theo sát bản kể tương truyền của Đoàn Thị Điểm, mà bản này đã được in khắc gỗ vào năm 1811 (Gia Long 10). Như vậy, tính từ bản in khắc gỗ của Vân Cát thần nữ truyện (các sự kiện được kể chỉ dừng ở thời nhà Lê trung hưng mà thôi) đến khảo luận của Đào Thái Hành là hơn một thế kỷ. Có một điểm độc đáo là ở phần cuối bài, Đào Thái Hành có đưa thêm thông tin cập nhật về một số lần gần nhất triều đình nhà Nguyễn ban sắc phong cho Thánh mẫu, đó là: Thiệu Trị (1845), Tự Đức (1853), Đồng Khánh (1887), Thành Thái (1903) [Đào Thái Hành 1914: 167, 181; 1997: 181, 197]. Có thể lúc đó Đào Thái Hành đã trực tiếp xem được các sắc phong triều Nguyễn (chính bản hoặc bản sao), mà đạo gần nhất là năm 1903 - chỉ cách thời điểm viết bài khoảng mười năm. Sau năm 1903, và sau năm 1914 (là năm Đào Thái Hành xuất bản nghiên cứu nói trên), triều đình nhà Nguyễn còn nhiều lần ban tặng sắc phong cho Thánh mẫu (trải qua các triều Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại). Về nội dung cơ bản của nhóm sắc phong thời Nguyễn này, Đào Thái Hành đã đưa ra một khái quát rằng: Liễu Hạnh được nhà Nguyễn phong là Thượng đẳng thần; còn hai vị tùy tòng là Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân và Quảng cung Quế Anh phu nhân thì là Trung đẳng thần. Để chỉ bộ ba nữ thần này, đến gần đây, chúng tôi đã đề xuất thuật ngữ “hệ thần Liễu Hạnh” [Chu Xuân Giao 2017a]. Nội dung cơ bản thấy trong trình bày của Đào Thái Hành nói trên, theo đối chiếu của chúng tôi với nhóm sắc phong thời Nguyễn cho hệ thần Liễu Hạnh còn thấy được nguyên bản ở nhiều nơi mà trung tâm là vùng Phủ Giầy, thì là sát thực. Dù có mấy điểm độc đáo (về niên đại phát biểu, nội dung và cách thức tổng thuật), nhưng có thể nói rằng, tác phẩm của Đào Thái Hành vào năm 1914 đó mới chỉ là một nghiên cứu tương đối sơ sài, các nguồn tư liệu mang tính căn cước (thần tích, sắc phong/thần sắc, minh văn, di vật đặc biệt) cho hệ thần Liễu Hạnh chưa hề được khảo chứng. Kể từ bài viết của Đào Thái Hành cho đến nay, sau hơn một thế kỷ nghiên cứu (1914-2018), nghiêm túc nhìn lại thì thấy rằng, cho dù hệ thần Liễu Hạnh có sức hấp dẫn rất lớn đối với học giới cả trong nước và quốc tế (Trung Quốc, Đài Loan, Pháp, Mỹ, Nga), nhưng mới có rất ít những nghiên cứu thực hiện việc khảo chứng kỹ lưỡng và hệ thống các nguồn tư liệu mang tính căn cước. Ngay cả các nhà sử học (như Durand, Tạ Chí Đại Trường, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Hải Kế) cũng chưa từng một lần thực hiện công việc đó một cách nghiêm túc, mà về cơ bản vẫn là sự nối nhau qua thời gian của những trần thuật không khác mấy về chất so với Đào Thái Hành của hơn một trăm năm trước. Hiện nay, rõ ràng phần nhiều chỉ là các luận giải mang tính áng chừng, người sau đại khái phỏng lại người đi trước. Chúng ta đang còn rất ít những nghiên cứu chuyên sâu đặt trọng tâm là khảo chứng thuần túy văn bản học như của nhóm Trần Ích Nguyên (Đài Loan). Các tập hồ sơ sao lục và dịch thuật bền bỉ tư liệu tại chỗ trong mấy chục năm qua của Dương Văn Vượng ở Nam Định (một số được thực hiện trong khuôn khổ công việc của các cơ quan, như bảo tàng tỉnh hay thư viện tỉnh) thì chưa được biên tập và xuất bản chính thức, chỉ lưu hành trong phạm vi hẹp như một dạng tài liệu tham khảo thứ cấp, và cũng chưa từng nhận được các phản biện. Bởi vậy, ngay với hai câu hỏi cơ bản đầu tiên tưởng chừng như đơn giản sau đây, mà hiện nay chúng ta vẫn chưa có được lời giải thỏa đáng, đó là: 1. Danh xưng Liễu Hạnh (và các danh xưng liên quan) thực sự đã xuất hiện từ bao giờ? 2. Liễu Hạnh và hệ thần Liễu Hạnh đã chính thức được vương triều quân chủ nào công nhận đầu tiên thông qua việc ban tặng sắc phong? Bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu điền dã dân tộc học kết hợp khảo chứng tư liệu thành văn (Quốc ngữ, Hán Nôm, phương Tây) với quan điểm coi trọng “chân thực riêng lẻ” và “ghi chép dày”, như đã trình bày ở một bài viết trước đây [Chu Xuân Giao - Phan Lan Hương 2008], trong nhiều năm qua về hệ thần Liễu Hạnh, mà một số kết quả nghiên cứu đã được công bố, chúng tôi muốn cung cấp những căn cứ gốc gác ngõ hầu góp phần giải đáp cho hai câu hỏi đã nêu trên. Chúng tôi chọn mảng sắc phong, và đặc biệt chú ý đến các sắc phong dạng nguyên gốc, tức là các sắc phong thực sự là chính bản mà được lưu giữ đến ngày hôm nay. Ở đây, do dung lượng bị giới hạn, nên mới chỉ hạn vào sắc phong cho riêng Liễu Hạnh, mà cũng mới chỉ là các sắc phong sớm cho riêng Phủ Giầy ở Nam Định mà thôi. Phủ Giầy hay Phủ Giày (còn được viết là Phủ Dầy/Dày) được dùng ở bài viết này là để chỉ chung cho cả hai xã (hay hai làng) là Vân Cát 雲葛社 và Tiên Hương 仙鄉社 thuộc tổng Đồng Đội 同隊總, huyện Vụ Bản 務本縣, tỉnh Nam Định 南 定省 thời Nguyễn, nay là các thôn thuộc vào xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xã Vân Cát (có Phủ Giầy Vân Cát, hay Phủ Vân) và xã Tiên Hương (có Phủ Giầy Tiên Hương, hay Phủ Tiên Hương) đã có một quá trình tách và nhập mang tính hành chính trong lịch sử, nói như Trần Quốc Vượng thì “Vân Cát - Tiên Hương là một, hồi sau tách đôi và rồi đã và đang lần kết đôi” [Trần Quốc Vượng 1996]. Từng có thời kỳ dài giữa Vân Cát với Tiên Hương, cũng tức là giữa Phủ Vân Cát với Phủ Tiên Hương, có sự tranh giành thế lực thông qua đua tranh danh phận, bên nào cũng tìm cách nhận làng mình là nơi mà Thánh mẫu đã được sinh ra, nên phủ thờ của làng mình phải là Phủ Chính – tức nơi chính thức thờ ngài, là nơi mà con nhang đệ tử các nơi đến tham bái Phủ Giầy thì phải trình diện trước nhất [Tuấn Cầu 1976 : 22-23; Chu Xuân Giao - Phan Lan Hương 2013]. Cuộc đua tranh 26 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 27Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 lâu dài này có thể đã gây một ảnh hưởng nào đó tới bản thân các tư liệu mang tính gốc gác hiện còn đang được lưu giữ tại địa phương, nhưng ở đây, chúng tôi tạm gác lại vấn đề “đâu là Phủ Chính thực sự” vốn nan giải này, mà chọn cách gọi chung là Phủ Giầy. Nếu trong các tư liệu nguyên bản sẽ trình bày ở tiếp theo đây, giả như có các ghi chú về sở thuộc của các tư liệu (chủ sở hữu, địa phương nhận sự ban tặng, ví dụ như ghi là xã Vân Cát, hay xã Tiên Hương), thì chúng tôi tạm không truy cứu đến cùng, mà chỉ tạm định là thuộc Phủ Giầy. 1. Xung quanh thông tin về sắc phong mang niên đại sớm nhất là Dương Hòa 8 (năm 1642) trong các bản kể truyền thuyết, và ý nghĩa của những bản kể muộn Trong một số bản kể truyền thuyết (thần tích) hệ thần Liễu Hạnh, có xuất hiện câu chuyện về sắc phong cho Thánh mẫu Liễu Hạnh mang niên đại sớm nhất, là vào năm Dương Hòa thứ 8 (năm 1642) thời Lê mạt.(4) Từ đây trở xuống gọi tắt là sắc phong Dương Hòa 8 hoặc sắc phong 1642. Suốt một thời gian dài, chúng tôi chỉ xem sắc phong 1642 chỉ thuộc về lĩnh vực truyền thuyết mà không có thực, bởi các bản kể thần tích có đề cập đến nó đều xuất hiện muộn (cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1940), còn các bản kể sớm thì lại không đề cập gì dù có ít nhiều nhắc đến niên hiệu Dương Hòa. Tâm lý chung của chúng ta là thường đặt niềm tin vào những bản kể thần tích có niên đại xuất hiện sớm. Nhưng dăm bảy năm nay, qua các cứ liệu sẽ trình bày tiếp theo đây, lại có điều kiện đối chiếu mảng tư liệu Hán Nôm với mảng tư liệu Quốc ngữ và tư liệu phương Tây thời kỳ sớm [Chu Xuân Giao 2015, 2017b], đồng thời cũng đã hiểu rõ hơn bối cảnh lịch sử tạm gọi là “thế chân vạc” của ba vương triều cùng tồn tại vào khoảng thời gian 1600-1680 qua các nghiên cứu về vương triều Mạc thời kỳ Cao Bằng [Chu Xuân Giao 2013b, 2016a, 2016b, 2017c], chúng tôi đi đến nhận định sơ bộ rằng, có khả năng cao là đã thực sự có sắc phong của nhà Lê mạt cho Thánh mẫu Liễu Hạnh từ năm 1642. Sở dĩ các bản kể có nói về sắc phong 1642 xuất hiện muộn vì là, có thể mãi đến thời điểm cuối thập niên 1920 - đầu thập niên 1940, người kể chuyện mới thực sự tiếp cận được với sắc phong nguyên bản ở Phủ Giầy (hoặc những bản sao đáng tin cậy từ đó). Cũng có nghĩa là, rất có thể, những người thực hiện các bản kể sớm (Đoàn Thị Điểm, Kiều Oánh Mậu, Trần Điền Chi, Đào Thái Hành...) đều chưa từng tiếp cận với các sắc phong đời Lê mạt. Đến năm 1944, khi viết một tác phẩm quan trọng về Liễu Hạnh trong khuôn khổ công việc của Trường Viễn Đông Bác cổ (EFEO), dù tham bác rất nhiều tư liệu, nhưng tựa như bản thân Nguyễn Văn Huyên cũng chưa từng khảo cứu sắc phong cho Liễu Hạnh. Điều này sẽ được diễn giải như ở dưới đây. 1.1. Phát hiện ra bộ tam năm thứ 8 thời Lê mạt thể hiện ý chí tiêu diệt nhà Mạc với ý nghĩa như là một chỉ dấu của sắc phong đích thực Đến thời điểm đầu thập niên 1640, triều đình Lê Trịnh đã từ Thanh Hóa trở lại Thăng Long được mấy chục năm với tư cách là người cai quản kinh đô và vùng Đàng Ngoài. Còn vùng Đàng Trên (Cao Bằng) thì vẫn do nhà Mạc, và vùng Đàng Trong (Quảng Nam) thì là do các chúa Nguyễn cai quản. Về cơ bản, Đại Việt lúc đó có ba vương triều cùng tồn tại theo thế chân vạc Lê Trịnh - Mạc - Nguyễn; trong đó, thế lực Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tôn thờ vua Lê nên sử dụng niên hiệu của vua Lê để tính lịch, riêng Đàng Trên thì không theo mà lập niên hiệu riêng (trừ một khoảng thời gian từ 1625 đến 1638, vì thời gian đó Mạc Kính Khoan giả theo về triều phục vua Lê mà từ bỏ niên hiệu Long Thái của mình, chịu nhận tước vị Thái úy Thông quốc công do phía Lê Trịnh phong) [Chu Xuân Giao 2013b: 252]. Theo nghiên cứu của chúng tôi, thì ở thời điểm các năm 1620s - 1640s, tức là đại khái gần như trùng với thời kỳ niên hiệu Dương Hòa của nhà Lê (niên hiệu Dương Hòa kéo dài khoảng 9 năm, từ 1635 đến 1643), do nhà Mạc ở Cao Bằng có mấy lần thay ngôi và đặt niên hiệu mới (Mạc Kính Khoan lên ngôi năm 1618, đặt niên hiệu là Long Thái; Mạc Kính Khoan qua đời năm 1638, con ông là Mạc Kính Hoàn/ Mạc Kính Diệu lên ngôi và đặt niên hiệu là Thuận Đức 1638-1661), nên giữa Lê Trịnh và Mạc đã có nhiều lần tấn công nhau, gây binh hỏa chiến tranh [Chu Xuân Giao 2013b : 252, 256-260]. Về danh vị, thì ở thời kỳ đó, phía Lê Trịnh là các niên hiệu Vĩnh Tộ (1619-1629) - Đức Long (1629-1635) - Dương Hòa (1635-1643), phía Mạc thì là các niên hiệu Càn Thống (1598-1625) - Long Thái (1618-1638) - Thuận Đức (1638-1661), cả hai đều mới chỉ được nhà Minh cùng phong là An Nam đô thống sứ. Tức là, về danh vị được sách phong bởi thiên triều, thì Lê và Mạc ở mấy chục năm đó là ngang nhau, mà chưa bên nào được phong là An Nam quốc vương. Phải mãi đến năm 1647, tức là sang niên hiệu Phúc Thái (1643-1649), khi nhà Lê cử nhóm Nguyễn Nhân Chính cất công đi đường biển sang Phúc Kiến cầu phong (lúc ấy, nhà Minh đã phải rút chạy về phương Nam, đóng đô ở Phúc Kiến), thì nhà Minh mới đồng ý phong cho vua Lê làm An Nam quốc vương [Chu Xuân Giao 2013b : 383]. Mạc thì vẫn chỉ là An Nam đô thống sứ - một tước vị thấp hơn. Đến lúc ấy, cán cân trong cuộc chạy đua tước vị An Nam quốc vương mới nghiêng về nhà Lê. Với vị thế đó, nhà Lê đã được chính thống hóa, trở thành đại diện chính thức cho Đại Việt, mặc dù thế chân vạc thì vẫn còn kéo dài. Khi hiểu được bối cảnh lịch sử này, thì chúng ta sẽ hiểu rõ thêm được về tính mục đích trong việc ban sắc phong cho bách thần ở khu vực Đàng Ngoài của nhà Lê ở các niên hiệu Vĩnh Tộ - Đức Long - Dương Hòa, rồi Phúc Thái (1643-1649) và Cảnh Trị (1663-1671). Thú vị là, theo khảo cứu của chúng tôi, ngay trong nội dung các sắc phong cho bách thần của nhà Lê thời kỳ này, cũng thấy rất rõ ý chí 28 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 29Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 phải tiễu trừ bằng được “bọn nghịch tặc Mạc” (Mạc nghiệt, nghịch đảng, nghiệt đảng). Cơ quan chuyên trách của triều đình Lê Trịnh đã cho viết luôn một nội dung có thể diễn giải như sau vào lời sắc: một lý do quan trọng mà triều đình ban tặng sắc phong, hay gia phong mỹ tự cho các thần, là bởi các thần đã và đang giúp triều đình dẹp yên giặc Mạc. Chúng tôi đã phát hiện ra là: hễ cứ các sắc phong ban vào năm thứ 8 của các niên hiệu thời kỳ đầu của nhà Lê mạt thì nội dung diệt Mạc thường xuất hiện. Đó là các sắc phong mang niên đại Vĩnh Tộ 8 (năm 1626), Dươ ... tháng 12 1 Liễu Hạnh 7 Long Đức 2 (1733) 16 tháng 2 1 Liễu Hạnh 8 Vĩnh Hựu 1 (1735) 27 tháng 8 1 Liễu Hạnh 9 Cảnh Hưng 1 (1740) 27 tháng 1 1 Liễu Hạnh 10 Cảnh Hưng 2 (1741) 28 tháng 3 1 Quảng cung 11 Cảnh Hưng 28 (1767) 8 tháng 8 1 Quỳnh cung 12 Cảnh Hưng 44 (1783) 16 tháng 5 1 Liễu Hạnh 13 Chiêu Thống 1 (1787) 23 tháng 3 1 Liễu Hạnh 14 Cảnh Thịnh 1 (1793) 4 tháng 6 1 Liễu Hạnh Tổng: 14 lần 15 sắc Về niên đại của sắc sao thì, như thấy trong Bảng 4, sớm nhất là Dương Hòa 8 (1642), và muộn nhất là Cảnh Thịnh 1 (1793). Mặc dù bản sao không ghi thêm bất cứ thông tin nào về người thực hiện việc sao sắc cũng như thời gian sao, nhưng việc dừng lại ở niên hiệu Cảnh Thịnh thời Tây Sơn mà không có các niên hiệu muộn hơn, đặc biệt thiếu toàn bộ phần sắc phong thuộc triều Nguyễn (như thấy trong khảo sát của Bảo tàng Nam Định, hay trong bản kê mang ký hiệu TSHN 3634 đã đề cập ở trên), nên tạm thời đoán định đây là tư liệu vốn được hình thành ở địa phương từ cuối thời Tây Sơn hoặc đầu thời Nguyễn. Dĩ nhiên nó đã được sao về kho của EFEO vào nửa đầu thế kỷ XX. Có hai điểm đặc biệt đáng chú ý đối với bản sao sắc phong này. Thứ nhất, là sự hiện diện của bản sao đạo sắc của niên hiệu Dương Hòa 8. Mà là sắc cho Liễu Hạnh Mã Vàng công chúa 柳杏禡鐄公主 (nguyên văn trong bản sao là Đế Thích tiên đình... hiệu viết Liễu Hạnh Mã Vàng công chúa...). Như vậy là các câu chuyện về lần được sắc phong vào năm Dương Hòa 8 trong các bản kể muộn đã đề cập ở trên, hóa ra, không phải là trong truyền thuyết, mà vẻ như là đích thực. Có nhiều khả năng là đã thực sự có đợt sắc phong đầu tiên cho Liễu Hạnh công chúa vào năm Dương Hòa 8 (1642). Thứ hai, ở các sắc phong thuộc vào bộ ba “năm thứ 8” của đầu thời Lê mạt, trực tiếp ở đây là Dương Hòa 8 và Cảnh Trị 8, chúng tôi cũng nhận ra được ý chí tiêu diệt “Mạc nghiệt” của nhà Lê Trịnh lúc bấy giờ, đúng với một đặc điểm về mặt nội dung của sắc phong thần thời kỳ đó mà tôi đang đề xuất (ở bài này, chỉ nêu, chưa có điều kiện diễn giải). Bởi vậy, có thể tạm tin rằng, đây là những bản sao đích thực của các sắc phong nguyên vật mang niên đại Dương Hòa 8 và Cảnh Trị 8 (dù có thể có sai nhầm chữ này chữ kia khi sao chép). Tuy nhiên, như đã nói ở phần đầu của bài viết này, và như sẽ trình bày ở phần tiếp theo, đến thời điểm hiện tại, chúng tôi mới chỉ xác nhận được sự tồn tại đích thực của sắc phong nguyên vật cho Liễu Hạnh công chúa mang niên đại Chính Hòa 4 (1683). Trước đã tìm được cả bản thống kê và bản sao của nó ở các kho sách uy tín, nhưng quan trọng hơn, là bây giờ đã thấy được bản thân sắc phong ấy đang được bảo quản tại Phủ Giầy. Còn các sắc phong Dương Hòa 8 và Cảnh Trị 8 thì mới chỉ thấy bản thống kê và bản sao, mà chưa thấy được nguyên vật. Bởi vậy, ở bài này, tạm gác lại hai sắc phong này, để tập trung vào sắc phong Chính Hòa 4. Hà Nội, tháng 4 và tháng 5 năm 2018 Chỉnh lý lần cuối vào tháng 7 năm 2018 C X G (còn tiếp) CHÚ THÍCH (1) Trong nguyên bản tiếng Pháp, chức danh của Đào Thái Hành được ghi là “Secrétaire du Conseil de Régence”. Bản dịch tiếng Việt năm 1997 thì quy đổi là “Thư ký Hội đồng Nhiếp chính (Đào Thái Hành 1914: 167; Đào Thái Hành 1997: 181). (2) Trong nguyên bản tiếng Pháp, thì Đào Thái Hành chua chữ Hán là “雲葛神*新傳” kèm theo âm đọc Hán Việt là “Vân Cát thần nữ tân truyện” (chữ 女 trong nguyên bản bị lỗi, biến thành dấu hoa thị*). Tên này được dịch sang tiếng Pháp thành “Nouvelle histoire de la Déesse de Vân-Cát” (tức là “Câu truyện mới về nữ thần Vân Cát). Chúng tôi chú ý đến chữ “新 tân” ở đây, có cả chữ Hán và âm Hán Việt. Hiện chưa rõ là học giả họ Đào đã nhầm lẫn mà thêm chữ “tân” đó vào “Vân Cát thần nữ truyện” nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm (có thể là nhầm lẫn từ chữ tân ở tên của toàn cuốn sách là Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜), hay là, ở thời điểm đó, trong dân gian còn có văn bản “Vân Cát thần nữ tân truyện 雲葛神女新傳” (chưa từng biết đến trước nay) song hành với “Vân Cát thần nữ truyện 雲葛神女傳” (đã quen thuộc bấy lâu nay)? Thêm nữa, về tên tác giả, Đào Thái Hành chỉ ghi là “Thị Điểm”, mà không phải là “Đoàn Thị Điểm”. Chúng tôi cũng chú ý điểm này. Bởi vì, hiện nay, trong học giới, đang có luận bàn về sự nhầm lẫn đối với hai người phụ nữ tài danh cùng có tên là Thị Điểm, là Đoàn 52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 53Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 Thị Điểm (có anh là Đoàn Trác Luân) và Nguyễn Thị Điểm (có anh là Nguyễn Trác Luân). Có người còn đưa giả thiết rằng, một số tác phẩm mà chúng ta biết lâu nay có khi không phải là của Đoàn Thị Điểm, mà là của Nguyễn Thị Điểm. Phải chăng, ở đầu thế kỷ XX, đã thực sự có một tác phẩm được khắc in ghi là “Vân Cát thần nữ tân truyện” mà tác giả của nó chỉ được ghi là “Thị Điểm”, hay là, chẳng qua chỉ là nhầm lẫn (như đã phân tích ở trên) của học giả họ Đào mà thôi ? Cần thiết phải đưa ra các ghi chú như trên, còn ở bài này, để tập trung, chúng tôi cứ tạm xem Đào Thái Hành đang nói về Vân Cát thần nữ truyện (nằm trong cuốn Truyền kỳ tân phả) của Đoàn Thị Điểm bản in khắc gỗ năm 1811 (năm Tân Mùi, niên hiệu Gia Long thứ 10) mà chúng ta đã biết lâu nay. (3) Theo trình bày về tư liệu tham khảo ở đây của Đào Thái Hành thì biết được rằng, ông không tham khảo cuốn Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính (1875-1921). Cũng có nghĩa là, ở thời điểm năm 1914, cuốn Nam Hải dị nhân liệt truyện vẫn chưa được đem ra xuất bản chính thức dù theo bài tựa sách đó của chính Phan Kế Bính thì dường như nó đã được soạn xong năm 1912 (Duy Tân 6). Theo suy đoán của chúng tôi, có thể bản thảo của Nam Hải dị nhân liệt truyện đã được Phan Kế Bính thoát cảo lần đầu vào năm 1912, rồi đến năm 1916 thì được Lê Văn Phúc hiệu chỉnh (chỉnh sửa và thêm một số nhân vật). Việc xuất bản chính thức thì chắc là sau năm đó. Hiện chúng tôi mới tìm được một bản in năm 1924 (in lần thứ ba), và một bản in năm 1930 (in lần thứ năm) của Nam Hải dị nhân liệt truyện (Phan Kế Bính 1924, 1930). (4) Lê mạt: thời kỳ được tính từ năm 1593 đến 1789, gồm 197 năm. Lê mạt là tiếp sau thời kỳ Lê trung hưng và Lê sơ. Đây là theo cách phân định niên biểu lịch sử Việt Nam của Lê Thành Lân (xem Lê Thành Lân 2016: 38-44). Lê Thành Lân đặt phân kỳ đối với nhà Lê như sau: Lê sơ (1428-1527), Lê trung hưng (1533-1599), Lê mạt. (5) Lệ viết húy đời Lê, theo phân tích của Hoàng Xuân Hãn là: viết hai nửa tả hữu tráo trở nhau, và trên đầu thêm bốn nét gãy đứng. (6) Ngoài các sách mang ký hiệu vốn đã quen biết trước nay (xem Đoàn Thị Điểm a1, a2, a3, a4, a5), Trần Văn Giáp có cho biết một bản sách nữa mang ký hiệu R.266 tại Thư viện Quốc gia (xem Trần Văn Giáp 1990: 194; nguyên bản hình như ghi nhầm thành TVQĐ). Hiện nay, chúng tôi mới chỉ tìm thấy và tiếp cận với hai bản sách mang ký hiệu R.1611 và R.22, đều là sách chép tay trong Thư viện Quốc gia (xem Đoàn Thị Điểm a4 và a5). Hiện chưa rõ bản sách ký hiệu R.266 được bảo quản ở đâu, là sách in hay sách chép tay. (7) Đào Thái Hành đọc thành Mã Cái đại vương 禡蓋公主 và Chế thắng Hòa diệu đại vương. Ở chỗ Mã Cái ông có ghi thêm một chú thích dưới chân trang là : “từ chỉ người mẹ của thời Lê” (signifie mère dans le dialecte de Lê). (8) Nguyên văn là: “En l’année de cảnh-trị 景治 des Lê (1662), sur la proposition des mandarins de la Cour, le Roi ordonna la destruction du Temple et la profanation du culte de la Déesse”. (9) Các chữ đặt trong ngoặc kép của câu này là dẫn thơ Nôm lục bát trong Tiên phả dịch lục. (10) Nguyên văn trong Tiên phả dịch lục là : “Tiên chúa ái quốc. Chúa từ quy pháp rộng đường// Riêng lòng yêu nước ngày thường đinh ninh//Quân vua khi dẹp Chiêm Thành//Một lòng hiệu thuận, hiển linh lại càng” (đoạn thứ 18). (11) Nguyên văn là “đến triều vua Hiến Tông” (Thiện Đình 1930b: 484). Chúng tôi tạm xem là chữ “Hiến Tông” bị nhầm lẫn (có thể do khâu sắp chữ; vì thời Lê mạt không có vị vua nào là Hiến Tông cả). Phải chăng Thiện Định định viết là “đến triều vua Huyền Tông” ? Huyền Tông là Lê Duy Vũ, có hai niên hiệu là: Vạn Khánh (1662), Cảnh Trị (1663-1671). Còn giả như là “Hiển Tông”, thì cách rất xa về thời gian, vì Hiển Tông là Lê Duy Diêu có niên hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786). Ở đây, theo mạch chuyện, chúng tôi tạm xem là Huyền Tông và trực tiếp là niên hiệu Cảnh Trị. (12) Trong nguyên bản là “Năm 1729 - (Kỷ Dậu) - Lê Vĩnh Khánh thứ 2”. Chúng tôi tính niên hiệu Vĩnh Khánh 2 là 1730, mà không phải 1729. (13) Thực ra trong sách có liệt kê 11 đạo sắc phong, nhưng khi đánh số thứ tự thì lại bị trùng hai lần số 8, cho nên chính các soạn giả cũng nhầm là chỉ có 10 đạo. (14) Sở dĩ chúng tôi tạm suy luận liệt kê của Phạm Quỳnh Phương 1996 là theo Lê Xuân Quang 1992 là vì, trong bài đó, Phạm Quỳnh Phương có ghi chú ở chân trang như sau: “Lê Xuân Quang. Tìm hiểu và định vị Bà Chúa Phủ Giầy qua truyền thuyết và các sắc phong. Bài tham dự Hội thảo về Mẫu Liễu, 6-1992” (Phạm Quỳnh Phương 1996: 110). Hiện chúng tôi chưa có bản viết năm 1992 của Lê Xuân Quang, nên tạm suy luận như vậy. (15) Chúng tôi phỏng vấn ông Bùi Văn Tam qua các cuộc điện thoại vào đầu tháng 3 năm 2018 (ngày 8 và 9). Bùi Văn Tam tự giới thiệu ông sinh năm 1932, quê ở làng Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Ông là hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định, Hội Sử học Việt Nam. Tác phẩm đầu tay của ông là Danh nhân văn hóa Hà Nam Ninh (sách chung) đã ấn hành năm 1978 (theo Bùi Văn Tam 2007 trang bìa 4). Như vậy, tính đến nay, ông đã có khoảng 40 năm cầm bút. Một chủ đề nghiên cứu chính của ông là Phủ Giầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu. (16) Theo ghi chú về địa chỉ cơ quan trong Nguyễn Thị Cảnh Dương 2013. (17) Từ năm năm 1988 đến nay, Phủ Tiên Hương được trông coi bởi gia đình thủ nhang Trần Viết Đức - Trần Thị Duyên và các con cháu (trong đó, trung tâm là người con gái Trần Thị Huệ). Thú vị là, gia đình cụ Trần Viết Đức vốn không phải là người thôn Tiên Hương (không phải người họ Trần Lê có ngôi Phủ Nội ở ngay cạnh Phủ Tiên Hương), mà lại là người bên Vân Cát (nơi có Phủ Vân Cát). Vào năm 1988, hai vợ chồng cụ Trần Viết Đức - Trần Thị Duyên được xã Kim Thái cử ra trông coi Phủ Tiên Hương. (18) Thanh đồng Trần Thị Huệ đã nhập tự để chính thức nhận nhiệm vụ thủ nhang vào cuối năm 2017, thay cho mẹ là Trần Thị Duyên. Chị Huệ sinh năm 1958, đã trình đồng mở phủ để trở thành thanh đồng từ năm 16 tuổi (tức năm 1974) – lúc đó, phải thực hiện kín, vì các đền phủ ở khu vực Phủ Giầy còn bị đóng cửa, các nghi lễ liên quan bị cấm đoán. (19) Thủ nhang Trần Thị Huệ có cho biết thêm: 1 đạo sắc phong có niên đại cổ nhất được thủ nhang Trần Viết Đức mang lên Hà Nội vào dịp hội thảo về Mẫu Liễu tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám năm 1992. Đạo sắc này đã được thủ nhang Trần Viết Đức giới thiệu tại hội thảo. Nhưng sau đó, chính đạo sắc này đã bị thất lạc. Tuy nói là “đạo sắc cổ nhất” nhưng hiện nhà đền Phủ Tiên Hương không nhớ rõ là niên hiệu nào. Chúng tôi xin ghi lại lời kể này ở đây để tiếp tục tìm hiểu. (20) Cụ Trần Lê Thịnh sinh năm 1947, nhà ở ngay sát sân Phủ Tiên Hương. (21) Cụ Trần Thị Duyên sinh năm 1932, cùng chồng là cụ Trần Viết Đức ra trông coi Phủ Tiên Hương bắt đầu từ năm 1988. Các năm 1986 - 1987, cụ Trần Viết Đức gửi đơn tới các cơ quan cao nhất của chính phủ Việt Nam đề nghị cho khôi phục lại hội Phủ Giầy (Trần Viết Đức 1987). Cụ Duyên đã tiếp nối nhận nhiệm vụ thủ nhang từ năm 2005 (cụ Trần Viết Đức từ trần vào năm đó, thọ 75 tuổi). Đến đầu năm 2017, cụ Duyên đã chính thức bàn giao công việc thủ nhang cho con gái là Trần Thị Huệ. 54 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 55Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (148) . 2018 (22) Thông tin về thời gian tháng 5 năm 2012 ở đây, là chúng tôi có được qua trao đổi với một người của Bảo tàng Nam Định trực tiếp thực hiện công việc là bạn Nguyễn Xuân Cao (trao đổi qua điện thoại vào tháng 4 năm 2018). (23) Có thể xem công bố trên Facebook này ở địa chỉ sau: https://www.facebook.com/hue. tranthi.5030/posts/527670037573436. TÓM TẮT Qua khảo chứng các nguồn tư liệu, người viết bài này lần đầu tiên đưa ra khẳng định là: chúng ta đang thực sự còn lưu giữ được một đạo sắc phong nguyên vật trân quý mang niên đại Chính Hòa 4 (tức năm 1683) cho Liễu Hạnh công chúa. Đây có thể xem như là một phát hiện quan trọng trong lịch sử nghiên cứu về hệ thần Liễu Hạnh. Trên phương diện thời điểm lịch sử, khẳng định ở đây không chỉ có ý nghĩa từ bỏ niên đại Vĩnh Khánh 2 (1730) đã được một số nghiên cứu đi trước chỉ ra một cách giả tưởng, đồng thời, còn là tiền đề hướng đến việc khảo chứng kỹ lưỡng về đạo sắc sớm nhất (nhưng không còn nguyên vật, chỉ còn bản sao) mang niên đại Dương Hòa 8 (1642). Từ đây, chúng ta đã có được một căn cước lịch sử chắc chắn, là năm 1683, để có thể bắt đầu hệ thống hóa khối lượng tư liệu đồ sộ tích lũy trong mấy thế kỷ qua dưới nhiều mã văn tự khác nhau. Bằng việc hệ thống hóa với một đầu mối lịch sử chắc chắn như vậy, chúng ta sẽ thoát ra khỏi tình trạng hỗn loạn và chìm đắm tưởng không có được đường ra do sức hút mê hoặc của mảng tư liệu truyền thuyết (thần tích) ở cả dạng đã thành văn hay còn đang tiếp tục phát triển không ngừng nghỉ qua kênh truyền khẩu, và qua mạng thông tin đa ngữ toàn cầu hiện nay. Một khi đã xác lập được căn cước lịch sử cho toàn dòng chảy, chúng ta hoàn toàn có thể tự do tự tại luận giải về bất cứ vấn đề gì trong đề tài hệ thần Liễu Hạnh dưới góc nhìn văn hóa sử (nhân loại học lịch sử/historical anthropology). ABSTRACT THE HISTORICAL IDENTITY OF MOTHER GODDESS: DISCOVERING AND NTERPRETING THE OLDEST ROYAL DECREE FOR PRINCESS LIỄU HẠNH THAT DATES BACK TO 1683 PRESERVED IN THE PHỦ GIẦY TEMPLE IN NAM ĐỊNH Through inspection and comparison of sources, the writer of this paper confirms for the first time that: we have actually preserved a valuable royal decree for Princess Liễu Hạnh that dates back to the era of Chính Hòa 4 (1683). This can be considered as an important finding in the history of study of the pantheistic system of Liễu Hạnh. From the perspective of historical moment, this confirmation not only eliminates the era of Vinh Khanh 2 (1730), which has been indicated fictitiously by some previous studies, but also serves as the foundation for a careful research on the earliest royal decree (the original no longer available, there is only a copy) that dates back to the era Dương Hòa 8 (1642). From here, we have obtained a definite historical identity that it is the year 1683. Based on this date, we are able to systematize massive amounts of documents accumulated over the past several centuries under various script codes. By systematization with such a solid historical clue, we will get out of inescapable chaos and confusions due to the charm of the legendary literature (mythological tales) in the written form or via non-stop oral transmission as well as the global multilingual network. Once we have established the historical identity of the whole process, we can freely interpret any problem in the topic: the pantheistic system of Liễu Hạnh from the perspective of historical culture (historical anthropology).
File đính kèm:
- can_cuoc_lich_su_cua_thanh_mau_phat_hien_va_luan_giai_dao_sa.pdf