Câu chuyện của tôi trong ngành quảng cáo (Phần 2)
Đã đến lúc quảng cáo đạt được trạng thái của một ngành khoa
học trong một vài khía cạnh. Nó dựa trên những nguyên tắc
cố định và có độ chính xác hợp lý. Nguyên nhân và kết quả
được phân tích cho đến khi được hiểu rõ. Các phương pháp
đúng đắn đã được chứng minh và xác lập. Chúng tôi biết điều gì là
hiệu quả nhất và chúng tôi hành động dựa trên những quy luật cơ
bản.
Do đó, quảng cáo, thứ vốn từng là một canh bạc, giờ được định
hướng đúng đắn và trở thành một trong những ngành kinh doanh an
toàn nhất. Chắc chắn không có lĩnh vực nào khác tạo ra những cơ hội
tương tự mà lại ít rủi ro đến vậy.
Do đó, cuốn sách này không phải nói về các lý thuyết và quan
điểm, mà nói về các nguyên tắc và thực tế đã được chứng minh một
cách thuyết phục. Nó được viết như một quyển sách giáo trình dành
cho sinh viên và một hướng dẫn an toàn cho những nhà quảng cáo.
Mỗi câu từ đều được cân nhắc. Cuốn sách được giới hạn trong những
điều cơ bản đã được xác lập. Khi chúng ta gia nhập bất kỳ lĩnh vực
không chắc chắn nào, chúng ta nên cẩn thận xác định chúng.Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng hiện tại của quảng cáo.
Đa phần các quảng cáo có quy mô toàn quốc từ lâu đã do các tổ chức
lớn, hay còn gọi là những công ty quảng cáo, thực hiện. Một số công
ty này, trong hàng trăm chiến dịch của mình, đã kiểm tra và so sánh
hàng nghìn kế hoạch và ý tưởng. Các kết quả đều được theo dõi và ghi
chép lại, nhờ vậy mà không có bài học nào bị bỏ sót
Tóm tắt nội dung tài liệu: Câu chuyện của tôi trong ngành quảng cáo (Phần 2)
Claude C. Hopkins ã đến lúc quảng cáo đạt được trạng thái của một ngành khoa học trong một vài khía cạnh. Nó dựa trên những nguyên tắc cố định và có độ chính xác hợp lý. Nguyên nhân và kết quả được phân tích cho đến khi được hiểu rõ. Các phương pháp đúng đắn đã được chứng minh và xác lập. Chúng tôi biết điều gì là hiệu quả nhất và chúng tôi hành động dựa trên những quy luật cơ bản. Do đó, quảng cáo, thứ vốn từng là một canh bạc, giờ được định hướng đúng đắn và trở thành một trong những ngành kinh doanh an toàn nhất. Chắc chắn không có lĩnh vực nào khác tạo ra những cơ hội tương tự mà lại ít rủi ro đến vậy. Do đó, cuốn sách này không phải nói về các lý thuyết và quan điểm, mà nói về các nguyên tắc và thực tế đã được chứng minh một cách thuyết phục. Nó được viết như một quyển sách giáo trình dành cho sinh viên và một hướng dẫn an toàn cho những nhà quảng cáo. Mỗi câu từ đều được cân nhắc. Cuốn sách được giới hạn trong những điều cơ bản đã được xác lập. Khi chúng ta gia nhập bất kỳ lĩnh vực không chắc chắn nào, chúng ta nên cẩn thận xác định chúng. Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng hiện tại của quảng cáo. Đa phần các quảng cáo có quy mô toàn quốc từ lâu đã do các tổ chức lớn, hay còn gọi là những công ty quảng cáo, thực hiện. Một số công ty này, trong hàng trăm chiến dịch của mình, đã kiểm tra và so sánh hàng nghìn kế hoạch và ý tưởng. Các kết quả đều được theo dõi và ghi chép lại, nhờ vậy mà không có bài học nào bị bỏ sót. Những công ty này tuyển dụng những người vô cùng tài năng, chỉ những người có năng lực và kinh nghiệm mới có thể đáp ứng được các yêu cầu để làm công việc quảng cáo trên quy mô toàn quốc. Khi làm việc trong sự hợp tác, học hỏi lẫn nhau cũng như học hỏi từ mỗi công việc mới, một trong số họ đã phát triển thành các chuyên gia bậc thầy. Các cá nhân có thể đến và đi, nhưng họ đều để lại các ghi chép và ý tưởng. Những thứ này trở thành một phần trang thiết bị của tổ chức, và là một hướng dẫn cho những ai muốn làm theo. Do đó, trong hàng thập kỷ, những công ty quảng cáo này đã trở thành nơi lưu trữ các kinh nghiệm quảng cáo, các nguyên tắc đã được chứng minh, cùng các phương pháp. Các công ty quảng cáo lớn hơn cũng có mối liên hệ mật thiết với các chuyên gia trong mọi bộ phận kinh doanh. Khách hàng của họ luôn là những công ty hàng đầu. Vì vậy, họ nhìn thấy kết quả của vô số phương pháp và chính sách. Họ trở thành nơi giải quyết mọi việc có liên quan đến kinh doanh. Gần như mọi câu hỏi về bán hàng phát sinh trong kinh doanh đều sẽ được trả lời chính xác nếu chúng ta có nhiều trải nghiệm. Dưới những điều kiện này, quảng cáo và kinh doanh trở thành những môn khoa học chính xác. Mỗi lộ trình đều được vẽ bản đồ. Chiếc la bàn của nguồn tri thức chính xác sẽ chỉ ra lộ trình ngắn nhất, an toàn nhất, rẻ nhất để đi đến bất kỳ mục tiêu nào. Chúng tôi học được các nguyên tắc và chứng minh chúng bằng cách thử đi thử lại. Điều này được thực hiện bằng cách quảng cáo có trọng tâm, theo dõi lợi nhuận và chủ yếu bằng cách sử dụng phiếu. Chúng tôi so sánh cách này với nhiều cách khác, lật đi lật lại và ghi lại các kết quả. Khi một phương pháp luôn được chứng minh là tốt nhất, thì phương pháp đó trở thành một nguyên tắc cố định. Việc quảng cáo đặt hàng qua thư được lần ngược trở lại đến từng xu. Chi phí trên một phản hồi và chi phí trên 1 đô-la doanh thu được xác định với sự chính xác tuyệt đối. Quảng cáo này được so sánh với quảng cáo khác, phương pháp này với phương pháp khác. Những dòng tít, sự sắp đặt, kích thước, lý lẽ và hình ảnh đều được so sánh. Trong một vài quảng cáo đặt hàng qua thư, chỉ cần giảm được chi phí của các kết quả đi một xu thôi đã là rất nhiều rồi. Vì vậy, không được phép phán đoán bất kỳ điều gì, phải biết điều gì là tốt nhất. Nhờ vậy, quảng cáo đặt hàng qua thư đã thiết lập nên nhiều quy luật cơ bản của chúng tôi. Trong những sản phẩm không thể thu về lợi nhuận trực tiếp, chúng tôi so sánh thành phố này với thành phố khác. Rất nhiều phương pháp có thể được so sánh theo cách này, dựa trên thước đo giá vốn. Nhưng cách phổ biến nhất là sử dụng phiếu mua hàng. Chúng tôi cung cấp một mẫu dùng thử, một gói hàng miễn phí hoặc thứ gì đó để thu hút các phản hồi trực tiếp. Từ đó, chúng tôi biết được số lượng hành động mà mỗi quảng cáo tạo ra. Những con số đó chưa phải là kết luận cuối cùng. Trong khi quảng cáo này có thể mang về quá nhiều phản hồi vô tác dụng, thì quảng cáo khác lại mang về những phản hồi có giá trị. Vì vậy, những kết luận cuối cùng của chúng tôi luôn dựa vào chi phí trên một khách hàng hay chi phí trên 1 đô-la doanh thu. Những kế hoạch về phiếu này sẽ được nói đến sâu hơn trong chương “Các chiến dịch thử nghiệm”. Ở đây, chúng tôi chỉ giải thích cách chúng tôi sử dụng chúng để khám phá ra các nguyên tắc quảng cáo. Trong một công ty quảng cáo lớn, lợi nhuận đến từ các phiếu mua hàng được theo dõi và ghi lại trong hàng trăm sản phẩm khác nhau. Với mỗi sản phẩm, đôi khi chúng còn được ghi lại trong hàng nghìn quảng cáo riêng biệt. Sau đó, chúng tôi thử tất cả mọi thứ có liên quan đến quảng cáo. Bằng cách theo dõi vô số lợi nhuận, chúng tôi trả lời gần như mọi câu hỏi có thể được đặt ra. Một số điều mà chúng tôi học theo cách này chỉ áp dụng được với những sản phẩm nhất định. Mặc dù vậy, thậm chí những điều đó cũng cung cấp các nguyên tắc cơ bản cho các dự án có tính chất tương tự nhau. Những điều khác có thể áp dụng với mọi sản phẩm. Chúng trở thành những yếu tố cơ bản trong quảng cáo nói chung và được áp dụng khắp nơi. Không có nhà quảng cáo khôn ngoan nào lại đi lệch khỏi những quy tắc bất biến đó. Mục đích của chúng tôi trong cuốn sách này là nói về những điều cơ bản đó, những nguyên tắc được áp dụng ở khắp nơi đó. Chúng tôi chỉ dạy những kỹ thuật đã được xác lập. Có loại kỹ thuật đó trong quảng cáo, cũng như trong mọi loại hình nghệ thuật, khoa học và cơ khí, và trong mọi sản phẩm, nó là yếu tố cơ bản. Việc thiếu những yếu tố cơ bản đó chính là vấn đề mấu chốt của quảng cáo trước kia. Mỗi người đều tự đề ra quy tắc cho chính mình. Tất cả những kiến thức đã có từ trước, tất cả những tiến bộ trong sản phẩm, đều là một cuốn sách đóng kín. Nó giống như việc một người cố làm ra một đầu máy xe lửa hiện đại nhưng quên tìm hiểu xem những người khác đã làm được gì trước đó. Nó giống như việc một anh chàng Columbus nào đó bắt đầu đi tìm một miền đất chưa được khám phá. Con người bị chi phối bởi những ý thích nhất thời – những cơn gió thoảng qua, liên tục thay đổi. Họ hiếm khi đến được bến bờ của mình. Nếu họ đến được – nhờ may mắn – thì đó là một lộ trình dài và quanh co. Những người đi biển đầu tiên đều phải tự vẽ ra bản đồ lộ trình của mình. Không có hải đồ nào định hướng cho họ. Không có ngọn hải đăng nào đánh dấu bến cảng, không có chiếc phao nào cảnh báo đá ngầm. Những vụ đắm tàu không được ghi lại, vì vậy, vô số cuộc phiêu lưu mạo hiểm đã gặp phải tai họa với cùng một vách đá và bãi ngầm. Quảng cáo khi đó là một canh bạc – một dạng suy đoán cẩu thả nhất. Suy đoán của người này về một lộ trình đúng đắn nhiều khả năng cũng không hơn gì người khác. Không có hoa tiêu nào là an toàn vì gần như không ai đi hai lần cùng một lộ trình. Tình trạng đó đã được sửa chữa. Giờ những sự không chắc chắn duy nhất đều liên quan đến con người và sản phẩm thay vì phương pháp. Rất khó để đo lường các đặc điểm, các ưu tiên và thiên kiến, sở thích và “sở ghét” đang tồn tại của con người. Chúng ta không thể nói rằng sản phẩm nào đó sẽ được ưa chuộng, nhưng chúng ta biết cách nhanh chóng tìm ra và bán nó hiệu quả nhất. Các cuộc phiêu lưu có thể thất bại, nhưng đó không phải là thảm họa. Thua lỗ, khi xảy ra, đều không đáng kể. Và nguyên nhân không liên quan gì đến quảng cáo. Quảng cáo đã thăng hoa dưới những điều kiện mới này. Nó đã phát triển lên gấp nhiều lần, cả về lượng, về uy tín và về sự coi trọng. Các mối hiểm nguy gần như đều đã bị loại bỏ, kết quả đã tăng lên nhiều lần. Chỉ bởi trò đánh bạc đó đã trở thành một môn khoa học mà việc dự đoán đã trở thành một ngành kinh doanh thủ cựu. Những thực tế này nên được tất cả mọi người nhận ra. Đây không phải là nơi thích hợp dành cho những lời ngụy biện hay lý thuyết, hay cho bất kỳ ảo tưởng hão huyền nào khác. Người mù mà lại đi dẫn dắt người mù thì thật lố bịch. Điều đó thật đáng thương trong một lĩnh vực có tiềm năng lớn đến vậy. Nếu một người không được định hướng bằng các quy luật mà bất biến như quy luật của trọng lực thì thành công sẽ hiếm khi xảy ra, thành công tối đa lại càng không thể. Vì vậy, mục đích chính của chúng tôi ở đây là ghi ra những quy luật đó, và nói cho bạn biết làm thế nào bạn tự chứng minh được chúng, phía sau đó là hàng nghìn biến thể khác nhau. Không có hai chiến dịch quảng cáo nào từng được tiến hành mà giống hệt nhau. Tính độc đáo là mấu chốt. Sự bắt chước là một điều sỉ nhục. Những biến thể đó, phụ thuộc vào tính khéo léo, không có chỗ trong một cuốn sách giáo trình về quảng cáo. Cuốn sách này chỉ dành cho những nền tảng. Chúng tôi hy vọng sẽ giúp quảng cáo tiếp tục phát triển thông qua việc giúp mọi người am hiểu hơn. Hy vọng sẽ đặt được nó trên một nền tảng kinh doanh và mọi người sẽ công nhận nó là một trong những lĩnh vực kinh doanh an toàn nhất, chắc chắn nhất, đem lại lợi nhuận lớn. Hàng nghìn thành công rõ ràng đã cho thấy tiềm năng của nó. Sự đa dạng của chúng thể hiện phạm vi gần như vô hạn của ngành quảng cáo. Song hàng nghìn người cần nó – những người mà không thể đạt được các phần thưởng mà không có quảng cáo – vẫn nghĩ các thành tựu của mình là nhờ một chút may mắn. Trước đây như vậy, nhưng hiện tại thì không. Chúng tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ đem lại một vài tia sáng mới về chủ đề này. CHƯƠNG 2 CHỈ LÀ BÁN HÀNG THÔI ể hiểu đúng quảng cáo hay nắm được những nguyên lý cơ bản của nó, phải bắt đầu từ khái niệm đúng. Quảng cáo là bán hàng, các nguyên tắc của nó là các nguyên tắc của bán hàng. Thành công và thất bại trong cả hai đều đến từ những nguyên nhân tương tự nhau. Do đó, mỗi câu hỏi về quảng cáo nên được trả lời theo các tiêu chuẩn của người bán hàng. Hãy để chúng tôi nhấn mạnh điểm này. Mục đích duy nhất của quảng cáo là tạo ra doanh thu. Việc nó sinh lời hay không tùy thuộc vào việc thật sự nó giúp bán được bao nhiêu. Nó không phải để tạo ra hiệu ứng chung, không phải để mọi người luôn nhìn thấy tên bạn. Nó không phải để trợ giúp những người bán hàng khác của bạn. Hãy coi nó là một người bán hàng. Hãy bắt nó tự chứng minh. Hãy so sánh với những người bán hàng khác, xem xét các chi phí và kết quả và không chấp nhận bất kỳ lý do nào mà những người bán hàng giỏi không đưa ra. Như vậy, bạn sẽ không bị đi quá chệch hướng. Sự khác nhau chỉ nằm ở mức độ. Quảng cáo là việc bán hàng được nhân lên nhiều lần. Nó có thể thu hút hàng ngàn người trong khi một nhân viên bán hàng chỉ nói chuyện với một người. Nó đi kèm một chi phí tương ứng. Một số người đã chi 10 đô-la trên một từ cho một quảng cáo trung bình. Do đó, mọi quảng cáo đều là những siêu nhân bán hàng. Sai lầm của một người bán hàng có thể không gây ra thiệt hại nhiều, nhưng thiệt hại từ sai lầm trong quảng cáo có thể gấp một nghìn lần. Do đó, hãy cẩn trọng hơn, chính xác hơn. Một người bán hàng chỉ có thể ảnh hưởng đến một phần nhỏ công việc kinh doanh của bạn. Còn quảng cáo ảnh hưởng đến toàn bộ việc buôn bán của bạn. Nhiều người nghĩ quảng cáo chỉ là viết quảng cáo. Những yêu cầu về văn chương liên quan đến nó không nhiều hơn so với tài hùng biện liên quan đến bán hàng. Một người phải có khả năng thể hiện ý kiến của mình một cách ngắn gọn, rõ ràng và thuyết phục, giống như một người bán hàng. Tuy nhiên, viết tốt là một bất lợi rõ rệt. Văn phong độc đáo cũng vậy. Chúng lấy đi sự chú ý ra khỏi chủ thể. Chúng làm lộ lưỡi câu. Bất kỳ nỗ lực bán nào, nếu rõ ràng, đều tạo ra sự phản ứng tương đương. Mọi chuyện đều như vậy trong cả bán hàng trực tiếp lẫn bán hàng qua quảng cáo. Những người nói hay hiếm khi là những người bán hàng tốt. Họ truyền cho người mua nỗi sợ bị điều khiển. Họ khiến người ta ngờ vực rằng họ đang cố bán các sản phẩm khác chứ không phải bán giá trị. Những người bán hàng thành công hiếm khi là những người nói hay. Họ gần như không có những phẩm chất để diễn thuyết. Họ ngay thẳng và chân thành, họ hiểu khách hàng và sản phẩm của mình. Điều tương tự cũng diễn ra trong việc viết quảng cáo. Nhiều người tài năng nhất trong quảng cáo đều từng là người bán hàng. Người giỏi nhất chúng tôi biết là một người bán hàng tại nhà. Họ có thể mù tịt về ngữ pháp hay thuật hùng biện, nhưng họ biết cách sử dụng những từ ngữ thuyết phục. Có một cách đúng đắn và đơn giản để trả lời cho nhiều câu hỏi về quảng cáo. Hãy tự hỏi “Điều này có giúp một người bán hàng bán được sản phẩm không?”; “Nó có giúp tôi bán được chúng khi tôi trực tiếp gặp người mua không?” Trả lời đúng những câu hỏi đó sẽ giúp tránh được vô số sai lầm. Khi một người cố tìm cách khoe khoang, hay làm điều gì đó chỉ để làm hài lòng bản thân, anh ta gần như không thể chạm đúng sợi dây cảm xúc lôi kéo mọi người chi tiền. Một số người thích những khẩu hiệu, một số lại ưa những thứ dí dỏm thông minh. Bạn có sử dụng chúng khi bán hàng trực tiếp không? Bạn có thể tưởng tượng ra một khách hàng sẽ thấy ấn tượng bởi những thứ như vậy không? Nếu không, đừng dựa vào chúng để bán hàng trên giấy. Một số người nói “Hãy thật ngắn gọn. Mọi người sẽ đọc nhưng đọc rất ít”. Bạn có nói điều đó với một nhân viên bán hàng không? Khi một khách hàng tiềm năng đang đứng trước mặt anh ta, bạn có giới hạn anh ta trong một số lượng từ nhất định không? Điều đó sẽ tạo ra một chướng ngại vật khó có thể tưởng tượng được. Trong quảng cáo cũng vậy. Những độc giả duy nhất mà chúng ta có được là những người hứng thú với chủ thể của chúng ta. Không ai đọc quảng cáo để cười, dù ngắn hay dài. Hãy coi họ là những khách hàng tiềm năng đang đứng trước mặt bạn để tìm thông tin. Hãy cho họ đủ để họ hành động. Một số người ưa khổ to và dòng tít lớn, song họ lại không khâm phục những người bán hàng nói to. Mọi người đọc mọi thứ họ quan tâm trong cỡ chữ 8. Các tờ báo và tạp chí của chúng ta đều được in trong kích cỡ đó. Người ta đã quen với nó. Bất cứ thứ gì lớn hơn đều giống như một lời nói lớn, không gây được sự chú ý nào có giá trị. Nó có thể không khiến người khác khó chịu, nhưng nó vô ích và lãng phí. Nó làm tăng chi phí cho câu chuyện của bạn và với nhiều người, nó có vẻ giống những lời la lối ầm ĩ. Những người khác tìm kiếm thứ gì đó lạ lùng và bất thường. Họ muốn có những quảng cáo độc đáo trong phong cách hay hình minh họa. Bạn có muốn điều đó ở một người bán hàng không? Không phải người ăn mặc và hành động bình thường sẽ gây được ấn tượng tốt hơn nhiều sao? Một số khăng khăng rằng quảng cáo phải hào nhoáng. Điều đó đúng ở một mức độ nào đó, nhưng nó không quan trọng lắm. Một số quảng cáo có hình thức xoàng xĩnh, giống như những người ăn mặc xoàng xĩnh, lại là những người bán hàng xuất sắc. Ăn diện quá đà trong cả hai trường hợp đều là sai lầm. Hãy làm tương tự với vô số câu hỏi. Hãy đánh giá chúng trên tiêu chuẩn của người bán hàng, chứ không phải trên tiêu chuẩn gây hài. Quảng cáo khô ... hưa chứng minh được nó là lá thư tốt nhất dựa trên tiêu chí lợi nhuận thực. Việc viết thư liên quan rất nhiều đến quảng cáo. Viết thư cho người hỏi hàng, viết thư để bám sát khách hàng. Chúng nên được thử nghiệm ở bất cứ đâu có thể. Ở những nơi không thể thử nghiệm, chúng nên được dựa trên những kiến thức thu được qua các thử nghiệm. Trong các bức thư, chúng tôi nhận thấy một sự khác biệt giống như trong các quảng cáo. Một số thuyết phục được khách hàng hành động, một số thì không. Một số chốt được đơn hàng, một số lại đánh mất ấn tượng đã đạt được. Những bức thư mà luôn được gửi đến những người đã thuyết phục được một nửa, có tầm quan trọng rất lớn. Kinh nghiệm nói chung cho thấy rằng bức thư có giá 2 xu không thu được nhiều sự chú ý hơn bức thư có giá 1 xu. Giấy bút tốt cũng không hơn giấy bút tồi. Sức hấp dẫn nằm cả ở nội dung. Người ta còn phát hiện ra rằng giấy bút tốt và các cuốn sách đẹp làm giảm hiệu quả. Chúng thể hiện rằng người viết đang cố bán các sản phẩm khác chứ không phải đang bán giá trị. Trong các bức thư, điều đó cũng gây ra tác dụng tương tự như trong các quảng cáo. Một lá thư được gửi cho một người hỏi mua hàng cũng giống như một nhân viên bán hàng đi đến gặp một khách hàng tiềm năng quan tâm đến sản phẩm. Bạn biết điều gì tạo ra sự quan tâm đó, hãy bám sát nó trong sản phẩm đó, chứ không phải một lý lẽ nào khác. Hãy hoàn thiện ấn tượng đã được tạo ra. Đừng tiến hành cái khác dựa trên suy đoán. Trong thư cũng như trong quảng cáo, điều tuyệt vời là thuyết phục được khách hàng hành động ngay lập tức. Con người luôn trì hoãn, và một hành động bị trì hoãn sẽ rất thường xuyên bị lãng quên. Hãy làm điều gì đó nếu có thể để khách hàng hành động ngay lập tức. Hãy cung cấp một ưu đãi nào đó. Hay chỉ ra việc trì hoãn có thể khiến họ mất gì. Hãy chú ý xem có bao nhiêu bức thư bán hàng thành công đặt giới hạn lên một lời đề nghị, nó hết hạn vào một ngày nhất định. Tất cả những việc đó đều được thực hiện để khiến khách hàng quyết định nhanh, vượt qua thói quen trì hoãn. Một nhà quảng cáo đặt hàng qua thư đã đề nghị cung cấp một catalog. Người hỏi hàng có thể viết thư để xin ba hoặc bốn catalog tương tự. Anh ta phải cạnh tranh để bán được hàng. Vì vậy, anh ta đã viết một bức thư khi gửi catalog đi, kèm theo một tấm thiệp riêng. Anh ta nói: “Bạn là một khách hàng mới, và chúng tôi muốn hoan nghênh bạn. Vì vậy, khi bạn gửi đơn hàng của mình, xin hãy gửi kèm tấm thiệp này. Người viết muốn chắc rằng bạn nhận được một món quà kèm theo đơn hàng – một thứ gì đó bạn có thể giữ”. Với một khách hàng cũ, anh ta đưa ra một lý do khác cho món quà. Đề nghị này gây ra sự tò mò. Nó khiến catalog của anh ta được ưa thích hơn. Nếu không có một lý do hấp dẫn nào đó để đặt hàng ở nơi khác, người phụ nữ sẽ gửi đơn hàng cho anh ta. Món quà đã đem lại lợi ích còn lớn hơn chi phí của nó vài lần nhờ làm tăng doanh số tính trên một catalog. Có rất nhiều cách để thuyết phục khách hàng hành động. Cùng một cách hiếm khi có thể được áp dụng vào hai sản phẩm. Tuy nhiên, các nguyên tắc là chung. Hãy rèn sắt khi còn nóng, hãy khiến khách hàng quyết định ngay lúc đó. Khi có thể, hãy để quyết định đó được theo sau bởi một hành động nhanh chóng. Bạn thà mất tiền để chi trả cho việc thuyết phục khách hàng hành động nhanh còn hơn mất tiền do bị trì hoãn. Một nhà quảng cáo đã khiến hàng trăm nghìn phụ nữ mua sáu gói sản phẩm của anh ta và gửi cho anh ta các nhãn, để được tham gia chương trình nhận phần thưởng chỉ diễn ra trong một tuần. CHƯƠNG 20 MỘT CÁI TÊN HỮU ÍCH ột lợi thế lớn trong những cái tên có khả năng kể được một câu chuyện. Cái tên luôn được trưng bày rất nổi bật. Để chứng minh nó xứng đáng với khoảng không gian mình có, nó phải có ích cho quảng cáo. Một vài cái tên mà bản thân chúng đã gần như là các quảng cáo hoàn chỉnh. Người ta có thể bảo vệ những cái tên như vậy, song do bản thân cái tên đã mô tả rõ sản phẩm, nên nó là một sự trưng bày có giá trị. Cũng có những cái tên vô nghĩa, như Kodak, Karo, Mazda, Sapolio, Vaseline, Kotex, Lux, Postum, Chúng có thể được bảo vệ và nếu quảng cáo trong thời gian dài, chúng có thể được gán cho một ý nghĩa. Khi làm được điều này, chúng trở nên rất có giá trị, nhưng đa số không bao giờ đạt đến được trạng thái đó. Những cái tên như vậy không giúp ích gì cho việc quảng cáo. Rất khó để tin rằng chúng có thể chứng minh chúng đáng được phô bày. Tác dụng của sản phẩm, chứ không phải cái tên, mới là điều quan trọng trong quảng cáo. Một lượng lớn không gian bị lãng phí vào việc trưng bày những cái tên cùng các hình ảnh mà không kể ra một câu chuyện bán hàng nào. Xu hướng của quảng cáo hiện đại là loại bỏ sự lãng phí đó. Những cái tên khác thể hiện những thành phần mà bất kỳ ai cũng có thể sử dụng, như Coconut Oil Shampoo (Dầu gội đầu dầu dừa), Palmolive Soap Những sản phẩm như vậy có thể thống trị một thị trường nếu có giá hợp lý, nhưng chúng phải đủ sức cạnh tranh ở một mức độ nào đó. Chúng mời gọi sự thay thế và tự nhiên được xếp vào cùng loại với những sản phẩm khác có thành phần tương tự, vì vậy, mức giá phải giữ nguyên trong loại đó. Toasted Corn Flakes và Malted Milk là những ví dụ về những cái tên không may mắn. Trong mỗi trường hợp, nhà quảng cáo đều đã tạo ra một nhu cầu mới. Khi nhu cầu được tạo ra, những người khác chia sẻ nó vì họ có thể dùng cái tên đó. Người tạo ra ban đầu chỉ dựa vào một nhãn hiệu. Việc đoán xem một cái tên lẽ ra đã có thể sinh lời được thêm bao nhiêu là rất thú vị. Với một sản phẩm được cấp bằng sáng chế, phải nhớ rằng khi bằng sáng chế hết hạn thì quyền đối với cái tên cũng hết. Những cái tên như Castoria, Aspirin, Shredded Wheat Biscuit, đã trở thành tài sản chung. Đây là một điểm rất quan trọng cần phải xem xét. Nó thường xuyên biến một bằng sáng chế trở thành một sự bảo vệ không mong muốn. Một lỗi nghiêm trọng khác về những cái tên là tính phù phiếm. Khi tìm kiếm sự độc đáo, người ta thường thu được thứ gì đó tầm thường, và đó là một khuyết điểm chí mạng trong một sản phẩm nghiêm túc. Nó gần như ngăn cản mọi người tôn trọng sản phẩm. Khi một sản phẩm phải được gọi bằng một cái tên chung, thì cái tên phụ tốt nhất là tên người. Nó tốt hơn nhiều so với một cái tên được nghĩ ra, vì nó cho thấy có một người tự hào về sản phẩm của anh ta. Do đó, câu hỏi nên đặt tên gì vô cùng quan trọng trong việc đặt các nền tảng cho một thương vụ mới. Một số cái tên đã trở thành yếu tố chủ chốt tạo nên thành công. Một số cái tên lại khiến người tạo ra nó đánh mất 4/5 số khách hàng mà họ đã phát triển. ó một dòng suối chảy xiết ngang qua ngôi nhà. Dòng suối làm quay một bánh xe gỗ và bánh xe này làm quay một cối xay. Dưới phương pháp thô sơ đó, gần như toàn bộ tiềm năng của dòng nước bị lãng phí. Sau đó có người áp dụng các phương pháp khoa học với dòng suối đó – đặt một tua-bin và các máy phát điện. Giờ, không cần thêm nước, không cần thêm sức mạnh, nó giúp một nhà máy sản xuất lớn vận hành. Chúng tôi nghĩ về dòng suối đó khi nhìn thấy những sức mạnh quảng cáo bị lãng phí, và chúng tôi thấy điều đó ở khắp nơi – hàng trăm ví dụ. Những tiềm năng khổng lồ – hàng triệu số báo được phát hành – được sử dụng để quay một cái bánh xe cối xay. Trong khi những người khác sử dụng cùng sức mạnh đó với hiệu quả cao hơn gấp nhiều lần. Chúng tôi thấy vô số quảng cáo chạy từ năm này qua năm khác mà biết rõ là không sinh lời. Có những người chi 5 đô-la để làm một việc mà chỉ cần đến 1 đô-la. Có những người thu về được 30% chi phí của họ trong khi đáng ra họ có thể thu về 150%. Các thực tế này có thể được chứng minh một cách dễ dàng. Chúng tôi nhìn thấy những không gian bị lãng phí, sự phù phiếm, những lời nói dí dỏm thông minh, tính giải trí. Những trang báo đắt đỏ chứa đầy những lời nói ba hoa mà, nếu được một người bán hàng áp dụng, sẽ làm hại đến sự đứng đắn của anh ta. Những quảng cáo đó luôn không có điểm nhấn, tiền được chi một cách mù quáng, chỉ để thỏa mãn một ý tưởng quảng cáo bộc phát nào đó. Không chỉ những nhà quảng cáo mới, nhiều nhà quảng cáo có kinh nghiệm cũng không biết hoặc biết nhưng rất ít về các kết quả quảng cáo của mình. Công ty đang phát triển nhờ tổng hòa của nhiều nỗ lực và công lao của quảng cáo cũng được ghi nhận. Một nhà quảng cáo có chỗ đứng trong nhiều năm, tiêu đến 700.000 đô-la một năm, đã nói với người viết rằng anh ta không biết liệu việc quảng cáo của mình có giá trị gì hay không. Đôi khi anh ta nghĩ rằng, công ty của anh ta vẫn có thể phát triển lớn đến như vậy mà không cần nó. Người viết trả lời: “Tôi biết chứ. Các quảng cáo của anh hoàn toàn không sinh lời, và tôi có thể chứng minh điều đó với anh trong một tuần. Vào cuối một quảng cáo, anh hãy đề nghị trả 5 đô-la cho bất kỳ ai viết thư cho anh để nói rằng người đó đã đọc hết quảng cáo. Lượng phản hồi sẽ hiếm đến mức khiến anh ngạc nhiên đấy”. Hãy suy nghĩ về một lời tự thú đáng kinh ngạc như vậy – rằng hàng triệu đô-la đang được chi mà không biết kết quả ra sao. Nếu một chính sách tương tự được áp dụng trong mọi yếu tố của một công ty thì sự hủy hoại sẽ đến ngay lập tức. Bạn đã thấy các quảng cáo khác mà bạn có thể cũng không thích. Chúng có vẻ chen chúc hoặc dài dòng. Chúng không hấp dẫn bạn vì bạn đang tìm kiếm thứ gì đó để ngưỡng mộ, thứ gì đó để giải trí. Nhưng bạn sẽ nhận thấy rằng các quảng cáo đó có điểm nhấn. Người quảng cáo biết rằng chúng hiệu quả. Nhiều khả năng là trong rất nhiều quảng cáo được theo dõi, loại mà bạn thấy là loại hiệu quả nhất. Nhiều quảng cáo khác mà hiện tại đang không có điểm nhấn đã có điểm nhấn lúc đầu. Chúng được dựa trên những dữ liệu thống kê rõ ràng, và giành chiến thắng trên quy mô nhỏ trước khi được chạy trên quy mô lớn. Những nhà quảng cáo đó đang tận dụng triệt để sức mạnh khổng lồ của họ. Thoạt nhìn đã thấy việc quảng cáo chứng minh rằng người trả tiền cho nó tin rằng quảng cáo là tốt. Nó đã từng mang đến những kết quả cao cho những người khác, vậy chắc hẳn nó phải tốt với anh ta. Vì vậy, anh ta coi nó giống như một phương thuốc bí mật đã được những người khác xác nhận. Nếu công ty phát triển, công lao thuộc về phương thuốc đó. Nếu không, thất bại là do số phận. Điều này nghe có vẻ khó tin. Thậm chí, ngay cả người chủ một cửa hàng khi chèn một quảng cáo có giá 20 đô-la cũng biết nó có hiệu quả hay không. Mỗi dòng trong quảng cáo của một cửa hàng lớn đều được tính chi phí vào bộ phận phù hợp. Song phần lớn các quảng cáo ở quy mô quốc gia đều được thực hiện mà không phải chứng minh. Người ta chỉ giả sử là nó có hiệu quả. Một thử nghiệm nhỏ có thể cho thấy một cách để làm tăng lợi nhuận lên gấp nhiều lần. Những phương pháp như vậy, giờ vẫn phổ biến, không ở quá xa điểm kết thúc của chúng. Người làm quảng cáo nào dùng chúng đều sẽ thấy sắp có một điều tồi tệ xảy ra. Thời điểm đó đang đến rất nhanh khi những người chi tiền đang muốn biết họ thu được gì. Quảng cáo sẽ phải tốt về mặt kinh doanh và phải có hiệu quả. Con người và các phương pháp sẽ được đo lường bằng các kết quả rõ ràng và chỉ những người có năng lực mới có thể sống sót. Những quảng cáo lớn đang được thực hiện theo các cách khoa học. Thành công của nó là kiến thức phổ thông. Những nhà quảng cáo làm theo các cách khác sẽ sớm không còn cảm thấy hài lòng nữa. Chúng tôi, những người có thể đáp ứng các thử nghiệm, hoan nghênh những điều kiện bị thay đổi này. Sẽ ngày càng có nhiều những nhà quảng cáo thấy rằng quảng cáo có thể an toàn và chắc chắn, những khoản kinh phí nhỏ được chi dựa trên suy đoán sẽ phát triển thành những khoản kinh phí lớn dựa trên một sự chắc chắn. Cách kinh doanh của chúng tôi sẽ tốt hơn, thuần khiết hơn, khi yếu tố đánh cược bị loại bỏ. Và chúng tôi sẽ tự hào hơn về nó khi chúng tôi được phán xét dựa trên giá trị. Nước mềm: Nước không chứa can-xi và ma-giê – hai chất không tốt cho sức khỏe. Cà chua do Alexander W. Livingston phát triển từ giống cà chua dại. Sau nhiều lần nhân giống , ông đã tạo ra giống cà chua cho quả rất to và phát triển mạnh. Hãng ô tô hoạt động từ 1908 đến 1963, với mẫu xe nổi tiếng nhất là xe Jeep. Hoạt động từ 1905 đến 1975, là một trong bốn hãng xe bán chạy nhất tại Mỹ đến năm 1907. Do ảnh hưởng của cuộc Đại suy thoái, từ năm 1936, công ty chỉ còn sản xuất xe tải và đến năm 1975 thì dừng hoạt động. Sarah Bernhardt (1844-1923): Nghệ sĩ sân khấu người Pháp. Được mệnh danh là giọng ca vàng và được xem như một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất của thế kỷ XIX. Hãng ô tô được thành lập năm 1900 tại Racine, Wisconsin, Mỹ, và bắt đầu sản xuất ô tô vào năm 1903. Công ty đã gặp khủng hoảng với mẫu xe E-40 và đóng cửa vào năm 1923. Studebaker là nhà sản xuất xe ngựa lớn nhất thế giới. Năm 1904, công ty bắt đầu sản xuất ô tô chạy bằng động cơ xăng, nhưng chỉ đến năm 1913 mới bắt đầu sản xuất xe gắn nhãn Studebaker. Công ty có thời gian hoạt động từ 1852 đến 1967. Công ty chuyên sản xuất lốp xe được thành lập vào năm 1898, được đặt tại Akron, Ohio, Mỹ. Nhãn hiệu đèn sợi đốt được hãng General Electric đăng ký vào năm 1909. Đèn sợi đốt. Thương hiệu kem đánh răng vị bạc hà được công ty Pepsodent giới thiệu lần đầu ở Mỹ vào năm 1915. Tác giả có quãng thời gian sống và làm việc trong rừng để có hiệu quả làm việc cao. Warren Gamaliel Harding (1865-1923): Tổng thống thứ 29 của Hoa Kỳ. Tên hai nhân vật được hai tác giả và họa sĩ người Mỹ tạo ra năm 1902, được sử dụng trong quảng cáo và xây dựng sản phẩm ngũ cốc Force và bơ lạc. Chiến dịch quảng cáo xà bông Sapolio do James Kenneth Fraser tiến hành. Edna Wallace Hopper (1872-1959): Nữ diên viên phim câm người Mỹ, được biết đến với vẻ đẹp nổi bật, đồng thời là tác giả cuốn My Secrets of Youth and Beauty (Tạm dịch: Những bí mật về nét thanh xuân và sắc đẹp của tôi). Maud Ballington Booth (1865-1948): Người đồng sáng lập tổ chức Tình nguyện viên Hoa Kỳ. Tên được đặt cho người mẫu nam trong các quảng cáo quần áo của hãng Cluett Peabody & Company of Troy. Hình mẫu này là sản phẩm hợp tác của hãng sản xuất New York và công ty quảng cáo Calkins and Holden. Giúp đỡ mà không cần đền đáp. Trường Chủ nhật (Sunday school): Tổ chức do Robert Raikes đề xuất và nhận được sự ủng hộ từ rất nhiều tu sĩ, được thành lập với mục đích dạy cho các thanh thiếu niên hiểu về Kinh Thánh. James Lucey là người thợ đóng giày, thường xuyên nói chuyện và đưa ra những lời khuyên cho Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ, Calvin Coolidge (1872 - 1933), khi ông còn trẻ. Trong bức thư đầu tiên được gửi từ Nhà Trắng sau khi nhậm chức, ông đã gửi cho James Lucey, trong đó có câu “Nếu không có anh, tôi đã không có ngày hôm nay”. William Jennings Bryan (1860-1925): Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ. Charlie Chaplin (1889-1977): Đạo diễn, diễn viên hài người Anh, nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Ông được xem là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử ngành điện ảnh. Robert Mantell (1854-1928): Diễn viên kịch người Anh, ông đã sản xuất một vài bộ phim câm. After the Ball: Bài hát được Charles K. Harris, nhạc sĩ dòng nhạc pop, viết năm 1891. Bài hát có ¾ giai điệu theo hướng nhạc cổ điển. Moonlight Sonata (Bản sonata Ánh Trăng): Bản sonata số 14 op. 27 No. 2 ở cung Đô thăng thứ của Ludwig van Beethoven viết cho đàn dương cầm.
File đính kèm:
- cau_chuyen_cua_toi_trong_nganh_quang_cao_phan_1.pdf