Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số - Sự tham gia của các trường đại học

Tóm tắt

Thế giới đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới, thời đại mà con người tiếp xúc, tiêu thụ nội dung

số ngày càng nhiều hơn. Làn sóng công nghệ số đang phát triển nhanh chóng và có tác động mạnh mẽ tới

tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh việc hàng ngày phải tiếp nhận và ứng dụng công nghệ số để

nâng cao năng lực cạnh tranh, những yêu cầu đặt ra về phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương

hiệu của doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan đến các nội dung số cũng là thách thức không nhỏ đối

với các các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo và chính bản thân các doanh nghiệp. Bài viết

dưới đây đề cập đến một số nội dung cơ bản như: Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư;

Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ số hóa nền kinh tế; Những giải pháp chiến lược

phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số.

pdf 7 trang yennguyen 6240
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số - Sự tham gia của các trường đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số - Sự tham gia của các trường đại học

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số - Sự tham gia của các trường đại học
.+2$+&9j&1*1*+…ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
1SỐ 4 (2018)8
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NHẰM 
XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU DOANH NGHIỆP TRONG 
KỶ NGUYÊN SỐ - SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT STRATEGY TO BUILD THE BRAND
OF ENTERPRISES IN THE DIGITAL ERA – THE PARTICIPATION OF UNIVERSITIES
VŨ XUÂN TRƯỜNG *
1. Mở đầu 
Với 25 tỷ thiết bị kết nối Internet; 3,3 tỷ cư dân 
mạng xã hội và online trung bình 2 giờ mỗi ngày; 
1.200 tỷ video trên Youtube và cần 3.400 năm để 
một người xem hết số video này... Thế giới số, 
không gian số, khách hàng số, hành vi tiêu dùng số 
đã đặt ra nhu cầu, xu hướng tự nhiên cho các doanh 
nghiệp muốn xây dựng và quảng bá thương hiệu 
của mình, đem sản phẩm đến gần nhất với người 
tiêu dùng thì không thể bỏ qua hoạt động liên quan 
đến số hóa. Theo báo cáo của Google & Tamasek, 
thị trường quảng cáo trực tuyến Việt Nam đạt 330 
triệu USD năm 2015 và ước đạt con số 2 tỷ USD 
vào năm 2025. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam cũng 
vừa công bố, nước ta hiện nay có khoảng 7.000 
công ty quảng cáo, nhân lực đáp ứng nhu cầu cho 
ngành này ít nhất là 70.000 lao động. 
Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, khu 
vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò 
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, khi chiếm 
đến 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên 
cả nước (doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh 
nghiệp nhỏ chiếm 29,6% và còn lại 68,2% là siêu 
nhỏ), sử dụng tới trên 50% lao động xã hội, đóng 
góp trên 40% GDP, 31% xuất khẩu, 29% các khoản 
thu vào ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra hàng 
triệu việc làm mỗi năm, huy động các nguồn lực xã 
hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo...
Liên quan đến công nghệ số, nền kinh tế Việt 
Nam đang đứng trước sự tích hợp hai làn sóng đổi 
mới là cải cách thể chế và làn sóng công nghệ số. 
Nếu tận dụng tốt cơ hội này, cơ hội phát triển kinh 
tế Việt Nam nói chung và phát triển doanh nghiệp 
nhỏ và vừa nói riêng sẽ tăng theo cấp số nhân. Theo 
Tóm tắt 
Thế giới đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới, thời đại mà con người tiếp xúc, tiêu thụ nội dung 
số ngày càng nhiều hơn. Làn sóng công nghệ số đang phát triển nhanh chóng và có tác động mạnh mẽ tới 
tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh việc hàng ngày phải tiếp nhận và ứng dụng công nghệ số để 
nâng cao năng lực cạnh tranh, những yêu cầu đặt ra về phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương 
hiệu của doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan đến các nội dung số cũng là thách thức không nhỏ đối 
với các các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo và chính bản thân các doanh nghiệp. Bài viết 
dưới đây đề cập đến một số nội dung cơ bản như: Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; 
Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ số hóa nền kinh tế; Những giải pháp chiến lược 
phát triển nguồn nhân lực nhằm xây dựng thương hiệu doanh nghiệp trong kỷ nguyên số. 
Từ khóa: Xây dựng thương hiệu, phát triển nguồn nhân lực, kỷ nguyên số.
Summary
The world is transforming itself into a new era, in which people exposure and consume the digital 
content more and more. The digital wave is growing rapidly and has a strong impact on all Vietnamese 
businesses. In addition to the daily need to receive and apply the digital technology to enhance the com-
petitiveness, the requirements of the human resource development to build the brand of enterprises in the 
fields related to the internal Capacity is also a challenge not only for the state management agencies, 
training institutions but also enterprises themselves. The article addresses some of the basic issues such 
as: The context of the Fourth Industrial Revolution; Vietnam's human resources situation during the digi-
tization period; Strategic solutions to develop human resources to build business brand in the digital era.
Keywords: branding, human resources development, digital era.
điều tra của VCCI (Phòng Thương mại và Công 
nghiệp Việt Nam), công nghệ số có vai trò và tác 
động lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp. 
Hiện có tới trên 95% doanh nghiệp Việt Nam đã sử 
dụng Internet. Những doanh nghiệp ứng dụng công 
nghệ thông tin hiệu quả thường dễ tiếp cận thông 
tin chính sách, pháp luật hơn, thực hiện thủ tục 
hành chính nhanh chóng hơn và quan trọng là có 
kết quả kinh doanh tốt hơn. Đối với các cơ quan nhà 
nước trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính 
công, nếu áp dụng công nghệ thông tin tốt, cũng 
cung cấp thông tin tới doanh nghiệp nhanh chóng 
và thuận lợi hơn, với thời gian thực hiện thủ tục 
hành chính cho doanh nghiệp được rút ngắn. 
Có thể thấy, thời đại công nghệ số đã làm thay 
đổi phương thức kinh doanh truyền thống sang 
phương thức kinh doanh mới. Dự kiến, trong vài 
năm tới, con số người Việt thường xuyên tiếp cận 
Internet có thể tăng lên 70% dân số (hiện tại là 
45%), trong bối cảnh đó, công nghệ số sẽ giúp 
doanh nghiệp ngày càng dễ dàng hơn trong việc tiếp 
cận với khách hàng và thị trường trên toàn thế giới. 
2. Bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư 
và sức ép đối với nguồn nhân lực Việt Nam 
Nhìn lại lịch sử, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII chứng 
kiến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sự 
ra đời của động cơ hơi nước và năng lượng nước đã 
thay đổi diện mạo nền công nghiệp thế giới với việc 
cơ giới hoá sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí. 
Giai đoạn sau của thế kỷ XIX là sự bùng nổ của 
kỹ thuật điện, dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng 
loạt, đánh dấu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 
hai. Giữa thế kỷ XIX là thời điểm bắt đầu của cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ ba, công nghệ thông 
tin bắt đầu bùng nổ nhanh chóng và quá trình sản 
xuất được tự động hóa dựa trên hệ thống quản lý 
máy tính, được xúc tác bởi sự phát triển của chất 
bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. 
Thời điểm hiện tại là giai đoạn đầu của cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
Cuộc cách mạng này được hình thành trên nền 
tảng thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng thứ ba, 
xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật 
số và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí 
tuệ nhân tạo, tự động hóa - robot, và Internet of 
Things (IoT). 
Sự dịch chuyển khoa học kỹ thuật này mới bắt 
đầu và rục rịch chuyển mình, nhưng sẽ phức tạp và 
phạm vi ảnh hưởng vô cùng sâu rộng, sẽ phát triển 
và lan truyền với tốc độ chưa từng có tiền lệ so với 
ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đây. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được tạo 
nên bởi sự hội tụ của các công nghệ mới chủ yếu 
như IoT - Internet kết nối vạn vật, robot cao cấp, 
công nghệ in ấn 3D, điện toán đám mây, công nghệ 
di động không dây, trí tuệ thông minh nhân tạo, 
công nghệ nano, khoa học về vật liệu tiên tiến, lưu 
trữ năng lượng và tin học lượng tử... 
* Trường Đại học Thương mại; Email: truong2203@gmail.com
Ngày nhận bài: 5/5/2018; ngày thẩm định 10/7/2018; ngày duyệt đăng: 15/9/2018
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển 
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên 
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ 
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới 
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu 
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển 
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: 
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như 
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu 
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, 
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang 
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia 
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra 
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát 
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình 
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù 
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển 
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều 
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều 
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như 
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức 
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều 
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất 
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư. 
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những 
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản 
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; 
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; 
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin 
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình 
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong 
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi 
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu 
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm 
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành 
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá 
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc 
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút 
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác 
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính 
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự 
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông 
minh; E-Learning... 
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh 
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công 
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu 
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông 
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp 
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung 
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại 
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành 
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận 
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân 
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu 
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo 
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo 
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. 
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống 
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện 
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các 
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên 
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy 
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. 
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận 
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang 
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với 
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số 
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành 
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được 
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề 
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi 
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc 
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực 
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều 
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay 
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương 
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học 
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người 
học với nhau và với giảng viên. 
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
.+2$+&9j&1*1*+…ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
2 SỐ 4 (2018)
1. Mở đầu 
Với 25 tỷ thiết bị kết nối Internet; 3,3 tỷ cư dân 
mạng xã hội và online trung bình 2 giờ mỗi ngày; 
1.200 tỷ video trên Youtube và cần 3.400 năm để 
một người xem hết số video này... Thế giới số, 
không gian số, khách hàng số, hành vi tiêu dùng số 
đã đặt ra nhu cầu, xu hướng tự nhiên cho các doanh 
nghiệp muốn xây dựng và quảng bá thương hiệu 
của mình, đem sản phẩm đến gần nhất với người 
tiêu dùng thì không thể bỏ qua hoạt động liên quan 
đến số hóa. Theo báo cáo của Google & Tamasek, 
thị trường quảng cáo trực tuyến Việt Nam đạt 330 
triệu USD năm 2015 và ước đạt con số 2 tỷ USD 
vào năm 2025. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam cũng 
vừa công bố, nước ta hiện nay có khoảng 7.000 
công ty quảng cáo, nhân lực đáp ứng nhu cầu cho 
ngành này ít nhất là 70.000 lao động. 
Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, khu 
vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vai trò 
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, khi chiếm 
đến 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên 
cả nước (doanh nghiệp vừa chiếm 2,2%, doanh 
nghiệp nhỏ chiếm 29,6% và còn lại 68,2% là siêu 
nhỏ), sử dụng tới trên 50% lao động xã hội, đóng 
góp trên 40% GDP, 31% xuất khẩu, 29% các khoản 
thu vào ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra hàng 
triệu việc làm mỗi năm, huy động các nguồn lực xã 
hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo...
Liên quan đến công nghệ số, nền kinh tế Việt 
Nam đang đứng trước sự tích hợp hai làn sóng đổi 
mới là cải cách thể chế và làn sóng công nghệ số. 
Nếu tận dụng tốt cơ hội này, cơ hội phát triển kinh 
tế Việt Nam nói chung và phát triển doanh nghiệp 
nhỏ và vừa nói riêng sẽ tăng theo cấp số nhân. Theo 
Hình 2. Các lợi ích từ E-Learning 
Nguồn: Tác giả tự xây dựng 
Các công nghệ sẽ mang tính liên ngành sâu rộng, 
sức mạnh tiếp cận và xử lý số lượng lớn các yêu cầu 
từ khách hàng tại cùng một thời điểm, dung lượng 
lưu trữ dữ liệu không giới hạn, những bước tiến ấn 
tượng trong lĩnh vực tương tác giữa máy móc và thế 
giới sinh học, trí thông minh nhân tạo, và từ đó sẽ là 
nền tảng để xuất hiện các mô hình kinh doanh mới. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra 
sản phẩm theo yêu cầu cụ thể của khách hàng với 
chi phí phù hợp và xây dựng hệ thống sản xuất hàng 
loạt có khả năng linh hoạt điều chỉnh theo thay đổi 
của nhu cầu xã hội, tạo ra lợi ích và tối ưu nhất cho 
các bên liên quan. Chúng ta có thể nhìn nhận tác 
động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư 
trên một số khía cạnh sau đây: 
Thứ nhất, đối với các nhà sản xuất, cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 chứng kiến sự du nhập 
của các công nghệ tiên tiến giúp tạo ra các sản 
phẩm và dịch vụ mới, tăng hiệu quả sản xuất, thúc 
đẩy sáng tạo và phát triển của nền công nghiệp 
trong dài hạn. Chi phí vận chuyển và liên lạc giảm, 
dây chuyền cung cấp hiệu quả hơn, chi phí thương 
mại được giảm thiểu. 
điều tra của VCCI (Phòng Thương mại và Công 
nghiệp Việt Nam), công nghệ số có vai trò và tác 
động lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp. 
Hiện có tới trên 95% doanh nghiệp Việt Nam đã sử 
dụng Internet. Những doanh nghiệp ứng dụng công 
nghệ thông tin hiệu quả thường dễ tiếp cận thông 
tin chính sách, pháp luật hơn, thực hiện thủ tục 
hành chính nhanh chóng hơn và quan trọng là có 
kết quả kinh doanh tốt hơn. Đối với các cơ quan nhà 
nước trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính 
công, nếu áp dụng công nghệ thông tin tốt, cũng 
cung cấp thông tin tới doanh nghiệp nhanh chóng 
và thuận lợi hơn, với thời gian thực hiện thủ tục 
hành chính cho doanh nghiệp được rút ngắn. 
Có thể thấy, thời đại công nghệ số đã làm thay 
đổi phương thức kinh doanh truyền thống sang 
phương thức kinh doanh mới. Dự kiến, trong v ...  và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo 
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo 
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. 
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống 
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện 
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các 
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên 
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy 
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. 
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận 
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang 
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với 
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số 
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành 
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được 
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề 
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi 
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc 
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực 
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều 
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay 
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương 
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học 
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người 
học với nhau và với giảng viên. 
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
.+2$+&9j&1*1*+…ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
7SỐ 4 (2018)
4. Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn 
nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam trong kỷ 
nguyên số 
4.1. Đối với Nhà nước 
Để phát triển được nguồn nhân lực đáp ứng 
được những thách thức việc làm trong kỷ nguyên số.
Nhà nước Việt Nam cần thực thi cả những giải 
pháp chủ động lẫn các biện pháp kỹ thuật như sau: 
4.1.1. Giải pháp chủ động là các giải pháp giúp 
lao động trong nước có thể lấp đầy và nhanh chóng 
lấp đầy các vị trí việc làm trước khi lao động nước 
ngoài tràn vào. Các giải pháp chủ động liên quan 
đến việc chuẩn bị tốt nhất nguồn nhân lực cả về số 
lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng được yêu cầu 
tuyển dụng, giúp người sử dụng lao động có thể 
tuyển được lao động trong nước. 
Đầu tiên, giải pháp căn bản và lâu dài nhất là 
phải đầu tư nâng cao chất lượng và năng lực cạnh 
tranh của nguồn nhân lực Việt Nam. Theo đó, cần 
tiếp tục công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện hệ 
thống giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao vai 
trò và hàm lượng thực hành, thựa chính sách phát 
triển nguồn nhân lực, việc làm, giáo dục đào tạo và 
các chính sách kinh tế để làm sao thu hẹp được 
khoảng cách giữa các kỹ năng được đào tạo trong 
nhà trường với kỹ năng làm việc thực tế tại doanh 
nghiệp. Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa 
dạy nghề với thị trường lao động, hướng vào việc 
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng 
địa phương, từng ngành, đồng thời đáp ứng nhu 
cầu của doanh nghiệp. 
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp 
cần chú ý tới khung tham chiếu trình độ khu vực và 
quốc tế để nắm bắt các quy định về kỹ năng tay 
nghề, bằng cấp ở từng quốc gia khi áp dụng cho lao 
động của nước khác trong khu vực, nhằm chuẩn bị 
nguồn nhân lực có thể cạnh tranh với lao động 
nước ngoài ngay tại Việt Nam và xuất khẩu sang 
các nước trong khu vực và quốc tế. 
Hai là cần tổ chức tốt hơn hệ thống thông tin 
trên thị trường lao động trong nước để giới thiệu và 
chắp nối việc làm trong nước, giúp người lao động 
Việt Nam tiếp cận được các vị trí làm việc trong 
nước trong thời gian ngắn nhất; đồng thời phải 
cung cấp được thông tin thị trường lao động nước 
ngoài để giúp người lao động Việt Nam mở rộng 
cơ hội tiếp cận việc làm. 
Ba là hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm cũng 
cần tổ chức lại nhằm tăng cường sự liên kết, chia sẻ 
thông tin, hỗ trợ nhau trong công tác cung ứng và 
tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp, hạn 
chế tình trạng hết thời hạn tuyển dụng, các doanh 
nghiệp sẽ tuyển dụng lao động nước ngoài. 
Bốn là cần nâng cao năng lực của các trung tâm 
dịch vụ việc làm, ít nhất là ở chỗ đánh giá các yêu 
cầu của các vị trí tuyển dụng, thương lượng với 
người sử dụng lao động để đảm bảo các yêu cầu 
đặt ra là thực sự cần thiết, đúng với yêu cầu của vị 
trí việc làm, hạn chế tình trạng doanh nghiệp đặt 
yêu cầu quá cao nhằm tuyển dụng lao động nước ngoài. 
Năm là phải tăng cường và nâng cao chất lượng 
dự báo nhu cầu lao động; làm cơ sở cho đổi mới 
công tác kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo, kể cả 
đào tạo nghề, để chuẩn bị nguồn nhân lực được đào 
tạo hợp lý về số lượng, cơ cấu và kỹ năng, sẵn sàng 
đáp ứng nhu cầu của thị trường. 
4.1.2. Các giải pháp kỹ thuật là các quy định về 
điều kiện cấp phép để làm chậm lại việc lao động 
nước ngoài chiếm lĩnh các vị trí việc làm. Điều đó 
có nghĩa là chúng ta cần đặt ra các hàng rào kỹ 
thuật hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của 
thị trường lao động và năng lực của phía Việt Nam. 
Các hàng rào kỹ thuật cần đáp ứng được cả hai 
mục tiêu: một là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà 
đầu tư để Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn; hai là 
vẫn phải đạt được mục tiêu bảo vệ việc làm trong 
nước. Ít nhất có mấy vấn đề đặt ra, đó là: cấp giấy 
phép cho lao động nước ngoài làm việc tại Việt 
Nam; quản lý lao động nước ngoài làm việc lại 
Việt Nam sau khi được cấp phép, nhất là việc dịch 
chuyển vị trí và nơi làm việc; các biện pháp kỹ 
thuật khác, ví dụ chuẩn tiếng Việt tối thiểu để làm 
việc tại Việt Nam. 
4.2. Đối với doanh nghiệp 
Thứ nhất, gắn chặt hơn nữa sự gắn bó giữa các 
doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trở thành một 
nhu cầu bức bách cho sự phát triển của cả nhà 
trường và doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nên có 
chiến lược phát triển nhân lực của mình và đặt 
hàng cụ thể cho các cơ sở đào tạo. Trong sự gắn bó 
này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên 
gia đào tạo, trường đại học, và doanh nghiệp trong 
thiết kế và quản lý chương trình đào tạo. 
Thứ hai, các công ty cần xây dựng chiến lược 
phát triển của mình, tạo cơ sở để xác định đúng nhu 
cầu nhân lực, từ đó phát triển chiến lược đào tạo và 
phát triển nhân lực đáp ứng nhu cầu chiến lược của 
công ty. 
• Chiến lược đào tạo và phát triển nhân lực cần 
đặt trong tổng thể chiến lược nguồn nhân lực của 
doanh nghiệp: thu hút, hấp dẫn, động viên, đánh 
giá, đào tạo và phát triển sự nghiệp. 
• Chiến lược đào tạo và phát triển nhân lực cần 
chuyển chú trọng từ đào tạo, huấn luyện (training) 
sang việc chú trọng vào việc học tập (learning) 
thường xuyên liên tục của người lao động. 
• Bên cạnh các kỹ năng kỹ thuật, cần chú trọng 
phát triển các năng lực của người lao động hiện 
đại: giải quyết vấn đề sáng tạo, truyền đạt, đàm 
phán, quản lý xung đột, làm việc đồng đội, học tập 
liên tục, thích ứng... 
• Đổi mới các hoạt động quản lý việc thực hiện 
nhiệm vụ qua đó khuyến khích áp dụng những điều 
học được vào công việc, tạo môi trường thuận lợi 
để áp dụng những điều đã học vào công việc. 
Thứ ba, kỹ năng nhân lực phải trở thành năng 
lực của tất cả các cấp quản lý vì vậy cần nhanh 
chóng đào tạo cho các cấp quản lý những kỹ năng 
nhân lực: phỏng vấn, đánh giá việc thực hiện, kèm 
cặp và phát triển người dưới quyền. 
Thứ tư, đào tạo giới quản lý các năng lực chiến 
lược để xây dựng tầm nhìn, sứ mạng, văn hóa, và 
các chiến lược phát triển của doanh nghiệp. 
Thứ năm, đào tạo các nhà quản lý nhân lực với 
kiến thức và năng lực hiện đại, chú trọng vào quản 
lý tài năng (talent management) và nhân vốn 
(human capital management). 
Thứ sáu, đào tạo những người làm công tác 
quản lý đào tạo và phát triển nhân lực tại doanh 
nghiệp năng lực về xác định nhu cầu đào tạo, xây 
dựng chương trình đào tạo, quản lý đào tạo, đánh 
giá hiệu quả đào tạo... 
Thứ bảy, đào tạo các chuyên gia huấn luyện 
(trainers) tại doanh nghiệp về các năng lực đào tạo 
- đặc biệt là những phương pháp hiện đại trong 
huấn luyện. 
4.3. Sự tham gia của các trường đại học trong 
đào tạo nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số 
Thứ nhất, các trường đại học cần phải trang bị 
cho sinh viên ngay từ bây giờ 10 kỹ năng quan trọng 
nhất để đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Đó là: 
(1) Khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp; 
(2) Tư duy phản biện; 
(3) Sáng tạo; 
(4) Quản trị con người; 
(5) Khả năng phối hợp với mọi người; 
(6) Thông minh cảm xúc; 
(7) Kỹ năng phán đoán và ra quyết định; 
(8) Định hướng dịch vụ; 
(9) Kỹ năng đàm phán; 
(10) Khả năng nhận thức linh hoạt. 
Thứ hai, về mặt thời gian, cần tích hợp các môn 
học để giảm thời gian học, tăng kiến thức. Bên 
cạnh đó, tích hợp liên ngành cho phép sinh viên 
học nhiều ngành nghề khác nhau đáp ứng nhu cầu 
doanh nghiệp. 
Thứ ba, tư duy giảng dạy cũng cần được thay 
đổi, tiếp cận các công nghệ mới, các khoá học đào 
tạo online, nguồn tài nguyên kiến thức mở trên thế 
giới. Các phòng lab hiện nay cũng cho phép sinh 
viên làm việc đến khuya. Sinh viên có thể làm chủ 
quá trình học tập. 
Cuối cùng, nhà trường cần hợp tác chặt chẽ với 
doanh nghiệp. Cụ thể là các trường đại học cần kết 
hợp với doanh nghiệp để tăng cường các hợp tác 
nghiên cứu và ứng dụng, tăng cường hợp tác quốc 
tế, tăng cường kết nối với cựu sinh viên thành công 
đang làm việc, nghiên cứu ở nước ngoài. Đối với 
giảng viên, các cán bộ sẽ được phân theo các nhóm. 
Các thầy nghiên cứu tốt, được đào tạo tại nước 
ngoài sẽ làm việc với những sinh viên xuất sắc. 
Các thầy có quan hệ tốt với doanh nghiệp sẽ dẫn 
dắt một lượng nhất định số em có học lực khá giỏi. 
Cơ chế hợp tác chặt chẽ này sẽ giải quyết được vấn 
đề bất cập hiện nay là có những ngành nghề rất 
"hot" được nhiều sinh viên lựa chọn, nhưng cũng 
có những ngành nghề trụ cột quan trọng với quá 
trình công nghiệp hoá ví dụ như ngành cơ khí, vật 
liệu... lại không nhận được nhiều sự quan tâm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thủ Tướng Chính phủ (2011), Quyết định 
Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam 
thời kỳ 2011-2020, Số 579/QĐ-Ttg. 
2. Đặng Xuân Hoan (2015), Phát triển nguồn 
nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015- 2020 đáp ứng 
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
và hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản (2015) 
3. Nguyễn Thị Lệ Trâm (2015), Phát triển nguồn 
nhân lực của doanh nghiệp nhà nước giai đoạn hội 
nhập, Tạp chí Tài chính, Kỳ 2, Số tháng 2/2015. 
4. Một số bài viết tham khảo trên Internet: 
•
huong-nghe-nghiep-trong-ky- nguyen-so-2016061
3151015111.htm 
•
ncuu-Traodoi/2015/32972/Phat-trien-nguon-nhan
-luc-Viet-Nam -giai-doan-20152020-dap-ung.aspx 
•
70/0/35262/Mot_so_van_de_ve_phat_trien_nguo
n_nhan_luc_ chat_luong_cao_o_Viet_Nam 
•
n-lam-gi-trong-ky-nguyen- so/c/21799592.epi 
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển 
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên 
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ 
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới 
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu 
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển 
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: 
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như 
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu 
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, 
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang 
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia 
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra 
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát 
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình 
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù 
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển 
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều 
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều 
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như 
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức 
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều 
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất 
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư. 
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những 
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản 
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; 
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; 
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin 
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình 
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong 
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi 
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu 
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm 
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành 
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá 
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc 
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút 
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác 
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính 
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự 
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông 
minh; E-Learning... 
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh 
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công 
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu 
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông 
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp 
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung 
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại 
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành 
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận 
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân 
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu 
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo 
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo 
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. 
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống 
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện 
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các 
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên 
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy 
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. 
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận 
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang 
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với 
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số 
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành 
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được 
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề 
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi 
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc 
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực 
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều 
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay 
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương 
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học 
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người 
học với nhau và với giảng viên. 
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống

File đính kèm:

  • pdfchien_luoc_phat_trien_nguon_nhan_luc_nham_xay_dung_thuong_hi.pdf