Chuyên đề Đường lối phát triển giáo dục & Đào tạo Việt Nam

1.1.1. Bối cảnh quốc tế

Thế giới đang bước vào giai đoạn thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia cũng gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên. buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động.

Kinh tế toàn cầu bất ổn, Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triểngq (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã đạt đỉnh điểm và đối mặt với sự suy giảm, từ mức 3,7% năm 2018 xuống còn 3,5% vào năm 2019 và 2020; Thị trường chứng khoán toàn cầu xuống dốc từ năm 2018 sẽ tiếp tục trong năm nay.

Tình trạng nợ công và thất nghiệp liên tục gia tăng tại một số nước, tăng trưởng tiền lương thấp; tổng nợ toàn cầu lên tới 247.000 tỷ USD, cao gấp hơn 3 lần cách đây 20 năm;

Về chính trị, năm 2019 sẽ là một năm đầy thách thức với châu Âu khi nhiều nước ở EU và Nghị viện châu Âu (EP) bước vào mùa bầu cử; Anh rời EU sẽ làm mất 1,5 - 10,5% GDP của nước này trong 5 năm, tùy thuộc vào cách thức Brexit. Khả năng tồi tệ nhất là một Brexit rối loạn, không có thỏa thuận, gây tổn thất kinh tế nặng nề cho cả hai bên.Trong khi đó, căng thẳng giữa Nga và Ukraine gia tăng, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng có thể lan sang cả EU.

Bán đảo Triều Tiên tuy có tiến triển tích cực, nhưng sẽ còn nhiều gian nan, bởi quan điểm khác biệt của hai bên đối với tiến trình phi hạt nhân hóa. Sự đối đầu giữa Mỹ và Nga vẫn sẽ tiếp diễn khi hai nước ngày càng có nhiều bất đồng. Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế mỗi nước và kinh tế toàn cầu.

 Kinh tế Việt Nam sẽ bị tác động mạnh mẽ của cuộc chiến này trên cả hai hướng: tích cực và tiêu cưc. Bối cảnh quốc tế trên đã có những tác động nhiều mặt đến nước ta, tạo cho Việt Nam vị thế mới với những thuận lợi và những khó khăn mới trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời gian tới.

 

doc 19 trang yennguyen 4820
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Đường lối phát triển giáo dục & Đào tạo Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Đường lối phát triển giáo dục & Đào tạo Việt Nam

Chuyên đề Đường lối phát triển giáo dục & Đào tạo Việt Nam
Chuyên đề 
ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VIỆT NAM
1. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội 
1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay 
1.1.1. Bối cảnh quốc tế 
Thế giới đang bước vào giai đoạn thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia cũng gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên... buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động.
Kinh tế toàn cầu bất ổn, Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triểngq (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã đạt đỉnh điểm và đối mặt với sự suy giảm, từ mức 3,7% năm 2018 xuống còn 3,5% vào năm 2019 và 2020; Thị trường chứng khoán toàn cầu xuống dốc từ năm 2018 sẽ tiếp tục trong năm nay. 
Tình trạng nợ công và thất nghiệp liên tục gia tăng tại một số nước, tăng trưởng tiền lương thấp; tổng nợ toàn cầu lên tới 247.000 tỷ USD, cao gấp hơn 3 lần cách đây 20 năm;
Về chính trị, năm 2019 sẽ là một năm đầy thách thức với châu Âu khi nhiều nước ở EU và Nghị viện châu Âu (EP) bước vào mùa bầu cử; Anh rời EU sẽ làm mất 1,5 - 10,5% GDP của nước này trong 5 năm, tùy thuộc vào cách thức Brexit. Khả năng tồi tệ nhất là một Brexit rối loạn, không có thỏa thuận, gây tổn thất kinh tế nặng nề cho cả hai bên.Trong khi đó, căng thẳng giữa Nga và Ukraine gia tăng, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng có thể lan sang cả EU.
Bán đảo Triều Tiên tuy có tiến triển tích cực, nhưng sẽ còn nhiều gian nan, bởi quan điểm khác biệt của hai bên đối với tiến trình phi hạt nhân hóa. Sự đối đầu giữa Mỹ và Nga vẫn sẽ tiếp diễn khi hai nước ngày càng có nhiều bất đồng. Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế mỗi nước và kinh tế toàn cầu.
 Kinh tế Việt Nam sẽ bị tác động mạnh mẽ của cuộc chiến này trên cả hai hướng: tích cực và tiêu cưc. Bối cảnh quốc tế trên đã có những tác động nhiều mặt đến nước ta, tạo cho Việt Nam vị thế mới với những thuận lợi và những khó khăn mới trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời gian tới.
1.1.2. Tình hình đất nước
*. Thành tựu:
Các chỉ tiêu kinh tế- xã hội cơ bản đã được thực hiện. Cụ thể:
- Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý: sau giai đoạn suy thoái, từ năm 2013  kinh tế dần được phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên. Tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm (2011-2015) đạt trên 5,9%/năm; 3 năm trở lại đây được duy trì ở mức độ cao, trên 6%/năm (năm 2016 đạt 6,21%; năm 2017: 6,81%; năm 2018 7,08% )
- Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định: tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn 4,74% năm 2016 (năm 2017 tăng 3,53%; năm 2018 tăng 3,54%) . Mặt bằng lãi suất giảm, dự trữ ngoại hối tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
- Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực
+  Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh có bước được cải thiện
+ Phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ đạt được những kết quả tích cực, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ tiếp tục được hoàn thiện.
+ Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng;
- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,9% năm 2011 lên 85,4% vào năm 2018; tỉ trọng nông nghiệp giảm từ 20,1% xuống còn 14,6%. 
- Văn hóa, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện
- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường
- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính đạt những kết quả tích cực; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chú trọng
- Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững
-  Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực.
*. Hạn chế, yếu kém:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế nước ta còn một số hạn chế, yếu kém sau:
- Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc: Việc kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự bền vững. Cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn; Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; sử dụng vốn vay ở một số dự án kém hiệu quả và còn thất thoát, lãng phí. Đóng góp của khu vực kinh tế trong nước vào tăng trưởng xuất khẩu thấp. 
- Kinh tế phục hồi còn chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp; Số doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể còn lớn. Nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng, hiệu quả hoạt động chưa cao; hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao (năm 2018 là 6,17). 
Nhiều tiêu chí để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt như: GDP bình quân đầu người, tỉ trọng công nghiệp chế tạo và tỉ trọng nông nghiệp trong GDP, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội, tỉ lệ đô thị hóa, điện sản xuất bình quân đầu người, chỉ số phát triển con người, chỉ số bất bình đẳng thu nhập, tỉ lệ lao động qua đào tạo, tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch(có 10/15 tiêu chí không đạt)
Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, trong đó có những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, gồm: 
- Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước;
- Bệnh thành tích còn nặng; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm; quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém; tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; tổ chức thực hiện kém hiệu quả, nhiều việc nói chưa đi đôi với làm;
- Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi.
1.2. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 
Ngày 17/3/2011, toàn văn các văn kiện Đại hội XI của Đảng đã được công bố, trong đó có Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2011-2020 với những nội dung sau:
1.2.1. Quan điểm phát triển 
Chiến lược đã đề ra 5 quan điểm phát triển như sau: 
Một là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững. Đây là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Nội dung: tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường; 
 Hai là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; 
 Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; 
 Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện QHSX và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;
 Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. 
1.2.2. Mục tiêu chiến lược và khâu đột phá
*. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
*. Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm (NQ ĐH 12 có hạ xuống 6,5-7%/năm). GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD. (năm 2018: 2587USSD/người)
Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. 
Về văn hóa, xã hội
Đến năm 2020, chỉ số HDI đạt nhóm trung bình cao của thế giới (năm 2015 chỉ số HDI của VN là 0.666, đứng thứ 116 thế giới - cao nhất là Na Uy: 0.944 điểm); tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. 
1.3. Các đột phá chiến lược
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
(2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
2. Định hướng chiến lược phát triển GD & ĐT giai đoạn 2011 -2020 
Ngày 13/6/2012, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển GD & ĐT giai đoạn 2011 -2020 
2.1. GD&ĐT trong thế kỷ 21 
2.1.1. Xu hướng phát triển giáo dục thế giới 
Giáo dục nước ta trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế về giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế trí thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo dục trên thế giới. 
Năm 1996, Chủ tịch Ủy ban UNESCO Jacques  Delors đã đưa ra khuyến nghị giáo dục toàn thế giới trong thế kỷ XXI được xây trên bốn trụ cột, đó là “học để biết, học để làm việc, học để chung sống với nhau và học để làm người”. 
 Học để biết, tức là biết thu nhận thông tin, tiếp thu trí thức, biết tạo lập và sử dụng thành thạo tri thức như là một công cụ tâm lý bằng cách kết hợp giữa vốn văn hoá chung đủ rộng và hiểu biết sâu trên một số lĩnh vực. Điều này cũng có nghĩa là học cách học, nhằm tận dụng các cơ hội giáo dục suốt đời mang lại. Ngày nay điều đó có ý nghĩa nhiều hơn là học một kiến thức chuyên biệt. Người học cần phải có cách tiếp cận với bản thân việc học, phải nắm những công cụ sử dụng kiến thức và cách rèn luyện những khả năng ghi nhớ, chú ý, tư duy, tư tưởng.
 Học để làm: Học để làm liên quan mật thiết đến câu hỏi làm thế nào để giáo dục và  đào tạo có thể trang bị cho người học các kiến thức và kỹ năng cần thiết  cho công việc sau này. Đặc biệt, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng hậu công nghiệp ở thế kỷ XXI khi mà xã hội xuất hiện các công việc và dịch vụ mới đòi hỏi các nhà trường phải nhanh chóng chuyển từ đào tạo kỹ năng sang hình thành một trình độ chuyên môn cao. Khi đó người lao động phải có kỹ năng làm việc nhóm, trong đó mỗi cá nhân có một công việc đặc thù, đồng thời phải có hành vi xã hội và luôn sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh, thách thức, giải quyết mâu thuẫn. Khi đó đòi hỏi giáo dục phải trang bị cho người học biết cách thích nghi với hoàn cảnh xã hội luôn biến đổi.
Học nhằm nắm được những kỹ năng nghề nghiệp nhất định, đồng thời có khả năng giải quyết được những tình huống nảy sinh trong cuộc sống và trong công việc hàng ngày. Học để làm cũng có nghĩa là học những kinh nghiệm về xã hội và lao động. 
 - Học để cùng chung sống với nhau:
Học để chung sống là học cách hiểu người khác, khoan dung với người khác, thông qua sự hiểu chính mình. Chính vì thế, giáo dục dù tiến hành ở nhà trường, ở gia đình hay cộng đồng cũng phải làm cho người học có một cái nhìn đúng đắn về thế giới, phải giúp họ tự khám phá ra mình, đặt mình vào địa vị của người khác để hiểu rõ những tác động qua lại và có thái độ đúng đẵn, từ đó có thể cùng chung sống với nhau trong sự tôn trong lẫn nhau. Học để cùng chung sống với nhau còn có nghĩa là mong muốn làm việc với nhau lâu dài, cảm nhận sâu sắc được tính phụ thuộc lẫn nhau trong công việc với tinh thần đoàn kết, tôn trong những giá trị của sự đa phương, đa dạng ở mỗi con người và cộng đồng.
Xã hội đông đúc, mà mỗi con người lại có cá tính riêng, đòi hỏi mỗi người phải học cách để sống chung với người khác. Thực ra, trong cuộc sống hàng ngày, từ nhỏ cho đến lớn, phần lớn chúng ta vẫn tiến bộ các kiến thức và kĩ năng xã hội mà ta không biết. Học để sống chung là học để giao tiếp, đồng cảm, học để bao dung, tha thứ Học để biết sống theo nguyên tắc, để biết yêu cái đẹp, những điều chân thiện mỹ Học để ghét những điều xấu xa, độc ác Học để yêu quê hương, đất nước, con người Học để yêu thiên nhiên, muôn thú, cây cỏ Chúng ta học để chung sống với nhau trong thế giới tự nhiên.
- Học để tự khẳng định mình hay học để làm người
Nhân loại sinh ra không ai giống ai, mỗi một cá nhân có một điểm đặc sắc riêng. Thời đại văn minh và đông đúc, nhu cầu khẳng định bản thân của mỗi người càng cao hơn. Mà để khẳng định bản thân, mỗi người phải phát triển được giá trị của riêng mình. Muốn làm được điều đó thì phải học.
Học để tự khẳng định mình là tạo sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong phú của nhân cách từng người và toàn bộ các hình thái thể hiện mình... Hiện nay, do tốc độ phát triển nhanh của khoa học, kĩ thuật và kinh tế nên nhiều khi các giá trị nhân bản bị đảo lộn, các quan niệm về đạo đức, nhân văn truyền thống bị xem thường và dễ bị buông trôi. Vì vậy vai trò của khoa học xã hội và nhân văn phải được đặt đúng tầm; phải là nền tảng của giáo dục, định hướng các giá trị ... ghệ và sản xuất; thành lập các doanh nghiệp khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo. Nâng cao năng lực của các cơ sở nghiên cứu khoa học, trong đó ưu tiên đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm trong các trường đại học. 
2.4.6. Tăng cường hỗ trợ phát triển giáo dục đối với các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội
a) Xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội học tập, hỗ trợ và ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo.
b) Có chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn. 
c) Phát triển giáo dục từ xa, giáo dục nghề nghiệp, mở rộng hệ thống dự bị đại học. Phát triển hệ thống cơ sở giáo dục đặc biệt dành cho người khuyết tật, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV và trẻ em lang thang đường phố, các đối tượng khó khăn khác. 
d) Tăng đầu tư cho giáo dục đặc biệt; có chính sách đãi ngộ đối với giáo viên giáo dục đặc biệt và học sinh khuyết tật. 
2.4.7. Phát triển khoa học giáo dục 
a) Ưu tiên nghiên cứu cơ bản về khoa học giáo dục; tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và xu thế phát triển giáo dục trong và ngoài nước, nghiên cứu đón đầu nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược và chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước;
b) Phát triển mạng lưới cơ sở nghiên cứu khoa học giáo dục, tập trung đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia và các viện nghiên cứu trong các trường sư phạm trọng điểm. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục thông qua đào tạo trong và ngoài nước, trao đổi hợp tác quốc tế. 
c) Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục; thực hiện tốt chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng phục vụ đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam.
2.4.8. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục 
a) Tăng chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước cho các trường đại học trọng điểm và viện nghiên cứu quốc gia, ưu tiên các ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn. Khuyến khích và hỗ trợ công dân Việt Nam đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng kinh phí tự túc.
b) Khuyến khích các cơ sở giáo dục trong nước hợp tác với các cơ sở giáo dục nước ngoài để nâng cao năng lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ khoa học và quản lý giáo dục; tăng số lượng học bổng cho học sinh, sinh viên đi học nước ngoài. 
c) Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư, tài trợ cho giáo dục, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ góp phần đổi mới giáo dục ở Việt Nam. Xây dựng một số trường đại học, trung tâm nghiên cứu hiện đại để thu hút các nhà khoa học trong nước, quốc tế đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về GD&ĐT 
3.1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của giáo dục
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con người và hướng tới việc xây dựng con người mới - con người XHCN. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền giáo dục mới sẽ “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” .
Nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo hướng phục vụ Tổ quốc và nhân dân. Vai trò này được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt là  “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc dạy và học phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn cuộc sống. 
 Trong thư gửi các cháu lưu học sinh Việt Nam học ở Mát-xcơ-va (19/7/1955), Người căn dặn: “Các cháu học kỹ thuật và học tiếng Nga cần nhận rõ mình học cốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Về sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trò của giáo dục là phát triển toàn diện con người để giúp đời, phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Đó là một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của học sinh; là con đường làm cho con em chúng ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn tốt, và mai sau là những công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ chủ nghĩa xã hội.
   	 Thứ hai, về nội dung giáo dục
Nội dung của giáo dục theo tư tưởng của Hồ Chí Minh bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động . Bên cạnh đó Người yêu cầu xây dựng một nền giáo dục bao gồm cả đức, trí, thể, mỹ, nhưng phải đặt đạo đức, lý tưởng, tình cảm cách mạng, lối sống XHCN lên hàng đầutức là một nền giáo dục toàn diện 
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra những con người xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng vừa chuyên". Đây là một tư tưởng then chốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục.
Giáo dục phải tạo ra được những người lao động mới. Đó là những người có lòng yêu nước nồng nàn, "trung với nước, hiếu với dân", có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, "những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên".
Thứ ba, về phương pháp, phương châm giáo dục
Phương châm giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam; học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn; học tập kết hợp với lao động; phải phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người. 
Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.
Ðể thực hiện mục đích giáo dục đào tạo con người Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp bảo đảm sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Cụ thể, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một số phương pháp sau:
Một là: Phải biết dạy từ dễ đến khó, biết kết hợp học tập với vui chơi
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện, phải ra sức làm nhưng không được vội vã, làm phải có kế hoạch, có từng bước. Giáo dục thế hệ trẻ thì việc gì cũng thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp đến cao. 
Để đảm bảo tính vừa sức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình giảng dạy phải căn cứ vào đặc điểm của đối tượng vì trình độ người học không đều nhau; do đó, cần có tài liệu thích hợp với từng đối tượng, nếu tài liệu không thích hợp thì học không có lợi ích gì. Đây là vấn đề mà trong những năm gần đây chúng ta rất chú trọng, bởi vì không phải chúng ta dạy được cái gì mà cần phải dạy những cái gì mà học sinh cần, muốn vậy thì phải căn cứ vào nhu cầu người học để từ đó có chương trình dạy phù hợp với từng đối tượng, tránh tình trạng học sinh thì “ngồi nhầm lớp”, thầy dạy những cái học sinh không cần
Về cách dạy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe các cháu. Học và chơi là hai nhu cầu của tuổi trẻ. Giáo dục thế hệ trẻ phải thực hành phương pháp đáp ứng với những nhu cầu đó thì giáo dục mới hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học”, “ Thanh niên phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần vui chơi, Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thú vui chơi văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng”.
Hai là: Dạy học nhằm phát triển trí tuệ, tính độc lập sáng tạo và tích cực của người học
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần bày tỏ quan điểm chống lại cách dạy, cách học không hướng vào sự phát triển của người học, không kích thích sự suy nghĩ trong học tập. Với người dạy, Người đề nghị: phải tuyệt đối tránh nhồi sọ; với người học, Người khuyên: không nên học từng câu, từng chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc cần phải tránh là thiếu sự chủ động và độc lập, trong học tập “tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”.
Về việc học, Người khuyên “ phải đào sâu suy nghĩ” , phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ, suy nghĩ chín chắn kỹ càng, mạnh dạn đề xuất vấn đề và thảo luận cho thông suốt vỡ lẽ. Người căn dặn: phải thường xuyên đặt câu hỏi “vì sao?” đối với bất cứ điều gì
Đây là một trong những phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong giáo dục hiện đại, điều đó chứng tỏ tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với những vấn đề cách mạng to lớn mà ngay cả trong việc học, làm thế nào để học tập có hiệu quả cũng được Người đặc biệt quan tâm. Việc sư dụng tốt phương pháp này sẽ tránh được lối học thụ động, học vẹt, học một chiều theo kiểu thầy dạy trò chép như đang diễn ra tương đối phổ biến trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay và đông thời với nó có thể khơi dậy, phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học.
Ba là: Giáo dục phải hướng đến mối quan hệ nhân ái – dân chủ thầy trò
Đây là phương pháp mạng đậm dấu ấn và phong cách Hồ Chí Minh, là phương pháp hướng dẫn, động viên, thuyết phục bằng tình cảm. Người rất chú trọng đến phương pháp này, nó được thấm nhuần bằng một tình cảm chân thành dựa trên sự yêu thương, tôn trọng con người và ứng xử với con người một cách tinh tế.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực hiện phương pháp này tốt, nhà giáo và người tổ chức phải có khả năng hiểu biết và nắm vững đặc điểm, tâm lý của đối tượng giáo dục, dạy học. Người quan niệm: muốn làm bạn phải hiểu nhau. Nếu không hiểu nhau không thành bạn. Người tuyên truyền không điều tra, không phân tích, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì nói nấy nhất định thất bại. Kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy: muốn dạy học, giáo dục học sinh thành công thì điều trước tiên đối với người dạy là phải tạo được mối quan hệ đó “phải yêu thương học sinh như những người ruột thịt của mình”.
Trong quá trình dạy học cần phải dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò phải cùng nhau bàn bạc, thầy phải quý trò phải tôn trọng thầy. Có như vậy mới có thể lắng nghe được mọi ý kiến và tâm tư nguyện vọng của trò, còn trò có thể nói hết những suy nghĩ của mình với thầy. Tinh thần lại càng thêm thân thầy và trò ngày càng gắn bó với nhau hơn theo đúng nghĩa “ cô giáo như mẹ hiền”.
Bốn là: Giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu gương
Phương pháp này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác từ truyền thống giáo dục của dân tộc và phát triển lên theo yêu cầu của cách mạng, là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, khi giáo dục thế hệ trẻ thì tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ và học mau. Ngoài tri thức phải có đạo đức cách mạng. Vì vậy, thầy giáo phải làm kiểu mẫu cho học trò. Làm được như vậy mới hoàn thành nhiệm vụ giáo dục. Người viết: “ dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ một phần, cái chính là phải làm cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”.
Đối với học trò, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết học ở các thầy giáo đồng thời phải biết học ở nhân dân, học theo những thanh niên gương mẫu trong quân đội, dân công và trong các ngành hoạt động khác.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Tiếp thu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò hết sức quan trọng của giáo dục, coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân. Trong bối cảnh mới với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trên cơ sở tổng kết và kế thừa việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (04/11/2013) Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, các quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong tình hình mới là:
 (1) Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; 
(2) Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; 
(3) Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;
 (4) Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ KH&CN; phù hợp quy luật khách quan; 
(5) Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo;
 (6) Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển giáo dục và đào tạo;
 (7) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ thúc đẩy giáo dục phát triển. Điển hình là ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Giáo dục năm 2005, Luật Dạy nghề năm 2006, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014,  Luật Giáo dục đại học năm 2012; ban hành các cơ chế, chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; về phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; về cơ hội tiếp cận giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; về đảm bảo bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo,
Mặc dù ra đời cách đây nhiều thập kỷ, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vẫn rất có ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển giáo dục của nước ta hiện nay. Chúng ta không chỉ tìm thấy trong tư tưởng của Người những gợi ý để tháo gỡ các vướng mắc cụ thể về vai trò, nội dung của giáo dục, mà còn có thể học được từ đó phương pháp luận giải quyết vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các phương pháp này rất gần với những gì đang được nói tới hiện nay như mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội,

File đính kèm:

  • docchuyen_de_duong_loi_phat_trien_giao_duc_dao_tao_viet_nam.doc