Đặc trưng cơ bản của thổ cẩm các tộc người tại chỗ Trường Sơn - Tây Nguyên thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Trường Sơn - Tây Nguyên (TS - TN) là khu vực lịch sử, dân tộc học đặc biệt, gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai,

Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng và phần miền núi phía Tây các

tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Phước. Đây là nơi cư trú lâu đời

của 15 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, ngữ hệ Nam Á1

và 5 tộc người nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôniledi, ngữ hệ Nam

Đảo2. Thổ cẩm của các tộc người trên dải đất này cũng là một

chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm. Và sau nhiều năm

nghiên cứu, tác giả bài viết muốn khẳng định một số đặc trưng

cơ bản của thổ cầm - nghề dệt và sản phẩm dệt các tộc người

tại chỗ trên TS - TN, nhận diện một số vấn đề đang đặt ra với

nghề dệt, sản phẩm dệt ở đây qua đó định hướng giải pháp

nhằm bảo tồn, phát triển nghề dệt, sản phẩm dệt của các tộc

người tại chỗ trên vùng đất này.

pdf 6 trang yennguyen 5540
Bạn đang xem tài liệu "Đặc trưng cơ bản của thổ cẩm các tộc người tại chỗ Trường Sơn - Tây Nguyên thực trạng và một số vấn đề đặt ra", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc trưng cơ bản của thổ cẩm các tộc người tại chỗ Trường Sơn - Tây Nguyên thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Đặc trưng cơ bản của thổ cẩm các tộc người tại chỗ Trường Sơn - Tây Nguyên thực trạng và một số vấn đề đặt ra
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
113Volume 8, Issue 1
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA THỔ CẨM
CÁC TỘC NGƯỜI TẠI CHỖ TRƯỜNG SƠN - TÂY NGUYÊN
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Phạm Văn Lợi
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
Email: ploivme@gmail.com
Ngày nhận bài: 15/2/2019
Ngày phản biện: 21/2/2019
Ngày duyệt đăng: 13/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/274
Trường Sơn - Tây Nguyên (TS - TN) là khu vực lịch sử, dân tộc học đặc biệt, gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, 
Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng và phần miền núi phía Tây các 
tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Phước. Đây là nơi cư trú lâu đời 
của 15 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, ngữ hệ Nam Á1 
và 5 tộc người nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôniledi, ngữ hệ Nam 
Đảo2. Thổ cẩm của các tộc người trên dải đất này cũng là một 
chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm. Và sau nhiều năm 
nghiên cứu, tác giả bài viết muốn khẳng định một số đặc trưng 
cơ bản của thổ cầm - nghề dệt và sản phẩm dệt các tộc người 
tại chỗ trên TS - TN, nhận diện một số vấn đề đang đặt ra với 
nghề dệt, sản phẩm dệt ở đây qua đó định hướng giải pháp 
nhằm bảo tồn, phát triển nghề dệt, sản phẩm dệt của các tộc 
người tại chỗ trên vùng đất này.
Từ khóa: Trường Sơn – Tây Nguyên; Tộc người; Thổ cẩm; 
Nghề dệt, sản phẩm dệt; Bảo tồn nghề dệt thổ cẩm.
1. Đặt vấn đề
Thổ cẩm hay sản phẩm dệt, nghề dệt của các 
tộc người trên đất nước ta, từ lâu đã trở thành chủ 
đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu 
và nhiều công trình khoa học được hoàn thành/xuất 
bản. Nghiên cứu về thổ cẩm của các tộc người ở 
Việt Nam nói chung, có thể kể tới các tác phẩm: “Y 
phục và trang sức các dân tộc Việt Nam” của tác 
giả Ngô Đức Thịnh; “Tổng tập nghề và làng nghề 
truyền thống Việt Nam”, tập 5: “Nghề đan lát; nghề 
thêu, dệt; nghề làm giấy; đồ mã và nghề làm tranh 
dân gian” do Viện Nghiên cứu Văn hóa xuất bản... 
Với thổ cẩm của từng tộc người, có thể kể tới các 
nghiên cứu: “Hoa văn Mường” (Trần Từ, 1978), 
“Tìm hiểu trạng phục Việt Nam (dân tộc Việt)” 
(Đoàn Thị Tình, 1987), “Hoa văn Thái” (Hoàng 
Lương, 1988), “Nghệ thuật trang phục Thái” (Lê 
Ngọc Thắng, 1990), “Nghề dệt của người Thái ở 
Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại” (Nguyễn Thị 
Thanh Nga, 2003) Với thổ cẩm các tộc người 
tại chỗ trên TS - TN, cần kể tới “Hoa văn các dân 
tộc Giarai – Bana” (Trần Từ, 1986), “Hoa văn cổ 
truyền Đắc Lắc” (Chu Thái Sơn (chủ biên, 2000), 
1. Các dân tộc Bru-Vân Kiều, Tà ôi, Cơ tu, Giẻ-Triêng, Ba na, Xơ 
đăng, Brâu, Rơ măm, Co, Hrê, Mnông, Cơ ho, Mạ, Xtiêng, Chơ ro.
2. Các dân tộc Chăm, Gia rai, Ê đê, Chu ru và Ra glai.
“Nghề dệt và trang phục cổ truyền của dân tộc 
Cơ Tu tỉnh Quảng Nam” (Trần Tấn Vịnh, 2009), 
“Nghề dệt truyền thống của người Tà ôi trong bối 
cảnh kinh tế thị trường (Nghiên cứu trường hợp 
xã Nhâm, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” 
(Nguyễn Trường Giang, 2016), “Nghề dệt và sản 
phẩm dệt của người Bana ở làng Kon Rờ Bàng, 
thành phố Kon Tum” (Phạm Văn Lợi, 2017)... 
Trên cơ sở các công trình khoa học đã được 
công bố và vốn kiến thức được tích lũy trong hơn 
20 năm triển khai các đề tài nghiên cứu, sưu tầm về 
các tộc người tại chỗ trên TS - TN, tác giả bài viết 
khẳng định một số đặc trưng cơ bản của thổ cẩm 
của các tộc người tại chỗ trên TS - TN và đề xuất 
một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát triển nghề dệt, 
sản phẩm dệt của các tộc người tại chỗ TS - TN.
2. Đặc trưng của thổ cẩm các tộc người tại 
chỗ trên Trường Sơn - Tây Nguyên
2.1. Nguyên vật liệu
Trong tác phẩm của mình, các tác giả, nhà 
nghiên cứu đều khẳng định: Với các tộc người 
tại chỗ trên TS - TN, nguyên liệu dành cho nghề 
dệt phổ biến nhất là sợi bông. Trong xã hội truyền 
thống, các gia đình cư dân thuộc các tộc người tại 
chỗ trong khu vực mỗi năm thường tìm chọn, phát 
đốt, dọn một đám rẫy phù hợp để gieo trỉa, chăm 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
114 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
sóc bông, lấy sợi bông làm nguyên liệu dệt, tạo 
ra các sản phẩm dệt phục vụ nhu cầu mặc và sử 
dụng của gia đình. Một số công trình nghiên cứu và 
truyền thông đề cập đến một vài loại vải của các tộc 
người tại chỗ nơi đây được chế tác bằng các nguyên 
liệu khác như: Vỏ cây (người Ê đê, Xơ đăng, Bru - 
Vân Kiều), sợi tơ tằm (ở khu vực Bảo Lộc, tỉnh 
Lâm Đồng). Tuy nhiên, có thể khẳng định, một số 
tộc người tại chỗ trên TS - TN trong xã hội truyền 
thống có sử dụng vỏ cây để làm khố, áo, tấm đắp 
nhưng không sử dụng sợi vỏ cây để dệt vải. Nghề 
dệt lụa bằng sợi tơ tằm ở khu vực Bảo Lộc (trước 
kia là huyện, rồi thị xã, nay là thành phố), tỉnh Lâm 
Đồng, mới xuất hiện và phát triển chừng nửa thế kỷ 
gần đây và cũng chỉ tập trung chủ yếu ở cộng đồng 
người Việt1. Các tộc người tại chỗ ở đây như Cơ ho, 
Mạ, Chu ru trong xã hội truyền thống vẫn chủ 
yếu dệt bằng sợi bông và tạo ra y phục, đồ dùng (thổ 
cẩm) bằng vải bông.
Bên cạnh nguyên liệu chính là sợi bông, để tạo 
ra sản phẩm dệt, các tộc người tại chỗ trên TS - TN 
còn sử dụng một số loại nguyên liệu khác như mầu 
nhuộm, hạt cườm và các hạt kim loại. Mầu nhuộm 
là các loại thân, củ, quả, rễ cây người dân thu hái 
trên rừng hoặc trồng trên rẫy. Hạt cườm cũng là một 
sản phẩm họ thu hái dưới tán rừng. Chỉ có kim loại 
(chì, bạc) là sản phẩm mua về từ các cộng đồng 
cư dân khác, qua quá trình chế tác tương đối đặc 
biệt trước khi đưa vào dệt, tạo hoa văn. Các loại 
hạt cườm (hiện đã là loại hạt công nghiệp) hiện vẫn 
được một số cộng đồng tộc người trên TS - TN sử 
dụng (Cơ tu, Tà ôi, Giẻ - Triêng). Riêng hạt kim 
loại hầu như không còn được chế tác, sử dụng. Bảo 
tàng Dân tộc học Việt Nam hiện đang lưu giữ một 
số sản phẩm dệt của người Cơ Tu có sử dụng hạt 
kim loại, cả chì và bạc, để tạo hoa văn. Đây là một 
loại sản phẩm, hoa văn tương đối đặc biệt, độc đáo, 
tương tự sản phẩm dệt có sử dụng sợi vàng của một 
số tộc người ở Lào, Thái Lan, Indonesia...
2.2. Công cụ 
Do các tộc người tại chỗ trên TS - TN đều dệt 
vải bằng sợi bông nên bộ công cụ tách bông ra khỏi 
hạt, làm nhuyễn bông và kéo bông thành sợi của họ 
về cơ bản giống nhau và giống bộ công cụ của các 
tộc người khác trong cả nước (cả ở người Việt). Cụ 
thể, để tách bông ra khỏi hạt họ đều dùng một dụng 
cụ bằng gỗ, phần chính là 2 trục xoay ngược chiều, 
dưới tác động của lực quay tay. Để làm cho bông 
nhuyễn vào nhau, thì đều sử dụng cái “bật bông”, 
tương tự chiếc cung nhỏ. Người dân một tay cầm 
chắc phần thân tre, kéo sợi dây áp sát vào thân tre 
rồi thả tay ra cho sợi dây bật ngược chiều nhiều lần 
vào số bông cần làm nhuyễn. Sau khi sợi bông đã 
1. https://tuoitre.vn/to-lua-viet-nam-su-menh-moi-cua-thu-phu-to-
tam-bao-loc-20180115135309194.htm, truy cập ngày 17/11/2018.
nhuyễn, cư dân sẽ sử dụng những chiếc “sa” quay 
tay để kéo bông thành sợi. Quá trình kéo bông có 
thể có thêm một vài công cụ nữa được sử dụng và 
có thể có ít nhiều khác nhau giữa các tộc người. 
Tuy nhiên, về cơ bản, 3 công cụ trên là chính, quan 
trọng, đều được các tộc người trong khu vực sử 
dụng.
Với người Việt, những chiếc khung dệt đã được 
chế tác và sử dụng ở mức độ cao thấp khác nhau, 
tùy thuộc vào từng làng và loại sản phẩm dệt. Loại 
khung đơn giản chỉ có một go, không tạo hoa văn 
trang trí trên mặt vải; Loại khung dệt phức tạp như 
của cư dân làng Vạn Phúc (Hà Nội) gồm nhiều go, 
có thể tạo ra nhiều loại hoa văn trên mặt vải. Với 
người Thái, về cơ bản có 2 loại khung để dệt 2 loại 
vải/lụa, một loại có hoa văn trang trí và một loại 
không có hoa văn trang trí. Nhiều tộc người khác 
chỉ có một loại khung dệt tạo ra vải không có hoa 
văn trang trí (bằng kỹ thuật dệt), như người Mông, 
Tày, Nùng Dù sao thì các tộc người này cũng đã 
đạt đến những tầng bậc nhất định trong chế tác loại 
khung dệt có khung cố định bằng gỗ. Trong khi đó, 
khung dệt của các tộc người tại chỗ trên TS – TN 
(trong cả xã hội truyền thống và hiện nay), chỉ là 
các chi tiết tách rời, được kết nối với nhau khi mắc 
sợi dọc vào. Đặc biệt, với các tộc người Việt, Thái, 
Mường người dệt hoàn toàn độc lập với khung 
dệt, trong khi đó người dệt ở các tộc người tại chỗ 
trên TS - TN buộc phải trở thành một bộ phận quan 
trọng của khung dệt. Với nhiều tộc người ở đây, 
người dệt phải dùng cả lưng và chân để làm căng/ 
chùng hàng sợi dọc. Với một số tộc người khác, 
một đầu hàng sợi dọc được cố định vào một chỗ nào 
đó (ngôi nhà, cây cối), đầu còn lại cố định vào 
lưng người thợ dệt. Đây là loại khung dệt đơn giản 
nhất có thể thấy được trên đất nước Việt Nam, loại 
khung dệt được các nhà khoa học gọi là “khung dệt 
Anhdônêdiêng/ Indônêdiên”2. Loại khung dệt này 
có thể giúp người dân dệt được các tấm vải (loại 
vải) với chiều rộng khác nhau (có thể trên 100cm, 
nhưng cũng có thể chỉ 3-5cm), nhưng nó làm cho 
tốc độ dệt của người thợ dệt không cao, người dệt 
nhanh mệt mỏi do cả thân người phải làm việc liên 
tục, căng thẳng.
2.3. Kỹ thuật và mầu sắc
Về kỹ thuật, nghề dệt của các tộc người tại chỗ 
trên TS - TN về cơ bản đều đơn giản, tương tự 
kỹ thuật dệt một go, không cải hoa văn ở các tộc 
người khác trên cả nước. Kỹ thuật dệt này tương tự 
kỹ thuật đan lóng một (cất một, đè một) giữa một 
hàng sợi dọc và những đường sợi ngang. Vì vậy, 
hầu hết các tộc người tại chỗ trên TS - TN, từ xã 
hội truyền thống cho đến hiện nay, vẫn gọi nghề/
2. Trần Từ (1986), Hoa văn các dân tộc Giarai - Bana, tr.17 và Chu 
Thái Sơn (Chủ biên, 2000), Hoa văn cổ truyền Đắk Lắk, tr. 46
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
115Volume 8, Issue 1
kỹ thuật dệt với tên gọi có nghĩa là đan (như tanh 
trong ngôn ngữ của người Triêng, thuộc tộc người 
Giẻ - Triêng). Tuy vậy, ngay trong xã hội truyền 
thống, các tộc người này đã duy trì kỹ thuật dệt tạo 
hoa văn bằng sợi nhuộm màu, trên cả 2 mặt của sản 
phẩm. Tùy thuộc vào sản phẩm và hoa văn cần dệt, 
những thợ dệt có thể mắc các sợi dọc nhuộm màu 
vào vị trí cần cải hoa văn. Khi dệt, họ cũng sử dụng 
các sợi ngang có mầu phù hợp đưa vào các vị trí 
cụ thể để tạo hoa văn theo yêu cầu. Trong xã hội 
truyền thống, các nhà khoa học ghi nhận các tộc 
người nơi đây thường sử dụng kết hợp 3 màu đỏ, 
đen, trắng để tạo hoa văn, trong đó màu đen (hoặc 
chàm đen) thường là màu nền; màu đỏ và trắng 
thường là màu cải hoa văn. Không chỉ vậy, trong 
một số trường hợp, sản phẩm đặc biệt, một số nhóm 
người/tộc người còn sử dụng kỹ thuật dệt hoa văn 
trên một mặt sản phẩm, như người Ba na làng Kon 
Rờ Bàng, xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum, tỉnh 
Kon Tum. “Với kỹ thuật dệt hoa văn này, mặt sau 
của tấm vải vẫn giữ nguyên màu nền và hoa văn chỉ 
hiện lên trên mặt trước (mặt chính, mặt phải của 
tấm vải)3. Để có thể tạo được hoa văn bằng kỹ thuật 
này, người thợ dệt phải có bàn tay khéo léo, con mắt 
tinh tế và khối óc có khả năng hình tượng hóa. Kỹ 
thuật này thường được sử dụng để dệt tạo hoa văn 
trên các dải vải có độ rộng từ 2-3 đến 5-7cm, như 
dải hoa văn trên đuôi khố lễ hội của người đàn ông 
hay những dải hoa văn quan trọng, chính yếu trên 
váy của các cô gái và người phụ nữ.
Có thể khẳng định, kỹ thuật dệt đặc trưng nhất 
của các tộc người tại chỗ trên TS – TN cần được đề 
cập ở đây là kỹ thuật dệt hoa văn bằng hạt cườm, 
hạt kim loại. Thực ra kỹ thuật dệt này khá gần với 
kỹ thuật dệt hoa văn trên một mặt vải: Cần sự cẩn 
trọng, tỉ mỉ, tinh tế trong việc đặt từng hạt cườm, 
hạt chì, hạt bạc; Cần sự sắp xếp hình khối hợp lý từ 
trong ý thức (khối óc) người thợ dệt. Tuy vậy với 
kỹ thuật này, người thợ phải mất nhiều thời gian 
tìm kiếm hạt cườm, chế tác hạt kim loại, sử dụng 
các loại hạt này tạo hoa văn trên đồ dệt. Muốn dệt 
hoa văn bằng hạt cườm, phải chọn đúng mùa, vào 
rừng thu hái hạt cườm; tìm cách tạo lỗ xuyên qua 
tâm hạt; Muốn dệt hoa văn hạt chì hoặc bạc (đặc 
biệt là bạc) phải chuẩn bị tiền hoặc của cải có giá trị 
để trao đổi. Sau đó phải dùng lửa nấu chảy chì hoặc 
bạc, dùng các thân cỏ nhỏ, đều nhúng vào dung dịch 
chì/bạc, nhấc nhanh ra, nhúng vào nước lạnh. Tiếp 
đó dùng dao sắc cắt các ống chì/bạc nhỏ đó (thân 
cỏ phía trong đã bị sức nóng của dung dịch chì/ bạc 
đốt cháy thành tro) thành những hạt chì/ bạc theo 
yêu cầu. Cuối cùng, dùng các sợi bông luồn qua 
lỗ đã được tạo trên hạt cườm, hạt chì hoặc hạt bạc. 
Khi dệt, các sợi bông đã được luồn hạt cườm, chì 
3. Phạm Văn Lợi (2017), Nghề dệt và sản phẩm dệt của người Bana 
ở làng Kon Rờ Bàng, thành phố Kon Tum, tr. 45.
hoặc bạc sẽ được đưa vào giữa 2 hàng sợi dọc nhờ 
go và thoi. Tuy nhiên, để tạo ra hoa văn, người thợ 
phải dùng tay đếm và đặt những hạt cườm, hạt chì, 
hạt bạc vào đúng vị trí, đúng số lượng hạt cần thiết. 
Sau khi đã sắp xếp xong vị trí các hạt cườm (chì 
hay bạc) trên một sợi ngang, người thợ mới dùng 
thanh gỗ mảnh đập nhẹ, ép cho các sợi ngang giáp 
vào nhau rồi chuyển go, bắt đầu một sợi ngang mới. 
Cứ thế, từng sợi ngang với số hạt cườm, chì hoặc 
bạc (cần thiết) sẽ lần lượt được xếp, đặt vào đúng 
vị trí, đúng số lượng để tấm vải hoàn thành, các mô 
típ hoa văn hiện lên theo mong muốn của người dệt. 
Đây là công việc đòi hỏi sự chi tiết, cẩn trọng và 
chính xác, vì các mẫu hoa văn không được vẽ thiết 
kế cụ thể, rõ ràng mà chỉ được hình thành/hình dung 
trong đầu người thợ, trước khi hiện ra trên sản phẩm 
dệt nhờ đôi tay khéo léo và khối óc tinh tế, tài hoa 
của họ. 
2.4. Sản phẩm và hoa văn
Về góc độ sản phẩm, điểm khác biệt đầu tiên, 
quan trọng nhất giữa nghề dệt của các tộc người 
tại chỗ trên TS - TN với nghề dệt của các tộc người 
khác trong đất nước Việt Nam là: Các tộc người 
khác dệt ra vải, trong khi các tộc người tại chỗ trên 
TS - TN dệt ra trang phục. Cụ thể hơn, nghề dệt của 
các tộc người tại chỗ trên TS - TN dệt trực tiếp ra 
khố, váy, tấm đắp, tấm khoác, tấm địu Trước khi 
dệt, họ thường xác định sẽ dệt khố, váy, tấm đắp, 
tấm khoác hay tấm địu trên cơ sở đó tính toán 
sử dụng khung rộng hay hẹp, mắc sợi dọc dài hay 
ngắn và sắp xếp các sợi mầu vào đúng vị trí nhằm 
tạo ra các dải hoa văn phù hợp với từng loại sản 
phẩm. Khi dệt xong, người ta chỉ cần cắt bỏ phần 
sợi dọc ngăn cách giữa các sản phẩm là có thể sử 
dụng. Gần đây, một số tộc người trong khu vực đã 
cắt may cả áo nam và áo nữ, nhưng cũng thường sử 
dụng nguyên các tấm vải gấp lại, theo chiều ngang 
thành thân áo; theo chiều dọc thành tay áo. Họ chỉ 
cần khâu ghép một số chỗ (vai, eo,), cắt rời một 
số vị trí (cổ, chỗ xỏ tay hoặc chỗ nối tay áo) là được 
những chiếc áo theo yêu cầu. Đây là những chiếc áo 
cắt, may đơn giản, cơ bản vẫn giữ được đặc điểm 
“dệt ra sản phẩm” của nghề dệt của các tộc người 
tại chỗ nơi đây.
Về hoa văn hay nghệ thuật trang trí hoa văn, 
cần khẳng định, sản phẩm dệt (y phục và đồ dùng 
bằng vải) của các tộc người tại chỗ trên TS - TN 
có đặc điểm chung là nghệ thuật trang trí dải - bố 
cục thành dải. Nhà nghiên cứu Chu Thái Sơn còn 
phân các dải trang trí trên y phục 2 tộc người Êđê 
và Mnông ở Đắc Lắc thành 2 loại: Dải diềm và dải 
hoa văn chính4. Trần Tấn Vịnh cho rằng “Chỉ màu 
(các dải màu) chẳng những tạo đường viền mà còn 
4. Chu Thái Sơn (2000), Hoa văn cổ truyền Đắk Lắk, Nxb. Khoa học 
Xã hội, tr. 91-93.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
116 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
đóng khung, bố cục, phân cách các dải hoa văn hạt 
cườm”5. Cách bố cục này kết hợp với cách sử dụng 
y phục làm xuất hiện nét đặc trưng nổi bật của nghề 
dệt và sản phẩm dệt của các tộc người tại chỗ TS - 
TN là các dải màu và dải hoa văn trang trí chạy song 
song với mặt đất, chia thân thể người mặc thành 
nhiều phần/khoảng khác nhau. Còn nhà nghiên cứu 
Trần Từ thì cho rằng các dải màu/hoa văn có độ dày 
mỏng, đậm nhạt khác nhau “cho khớp với những 
tầm cao thấp khác nhau trên trục dọc của thân thể 
người mặc. Bên cạnh cách bố cục thành dải, trên y 
phục các tộc người nơi đây cũng đã xuất hiện kỹ 
thuật bố cục “ô”, nơi tập trung một hoặc một vài mô 
típ hoa văn chính, quan trọng, tạo ra các điểm nhấn 
cho y phục (thổ cẩm/ đồ dệt).
Về các mô típ hoa văn, trong công trình nghiên 
cứu, các nhà nghiên cứu đã vẽ lại/mô tả rất nhiều 
mô típ hoa văn khác nhau. Ở đó, nhiều mô típ là 
riêng có của từng tộc người, nhưng cũng gồm nhiều 
mô típ hoa văn tương tự nhau, xuất hiện ở hầu hết 
các tộc người tại chỗ trong khu vực. Trong số này 
có 2 mô típ hoa văn chung, tiêu biểu, phổ biến cho 
cả khu vực, cần phải được đề cập. Đó là mô típ 
hoa văn sao 4 cánh hay 8 cánh (ch’menh/ ch’tur) 
ở người Cơ tu, “ngôi sao tám cánh” ở người Ba na 
hay “hoa chàm” ở người Gia Rai” và mô típ hoa 
văn “hình thoi” hay “quả trám” với nhiều biến thể 
khác nhau. Còn lại là rất nhiều mô típ hoa văn phản 
ánh môi trường tự nhiên, cuộc sống sinh hoạt, cách 
nhìn nhận về bản thân con người, tộc người (nhân 
sinh quan) và thế giới tự nhiên xung quanh (thế giới 
quan) khác nhau, ở từng tộc người, từng khu vực 
cư trú.
3. Nghề dệt và sản phẩm dệt
Vấn đề đầu tiên, các nguyên liệu truyền thống 
đã và đang bị hạn chế sử dụng trong nghề dệt của 
các tộc người tại chỗ TS - TN. Hiện tại, hầu hết các 
tộc người tại chỗ trên địa bàn không còn trồng bông 
dùng cho nghề dệt, mà chấp nhận mua sợi công 
nghiệp trên thị trường về dệt. Không chỉ vậy, các 
nguyên liệu truyền thống dùng để nhuộm màu cho 
sợi cũng dần bị loại bỏ, để lựa chọn các loại màu 
công nghiệp bán sẵn trên thị trường. Ngay cả hạt 
cườm tự nhiên sử dụng trong dệt cải hoa văn cũng 
đã vắng bóng. Nghề dệt của các tộc người tại chỗ 
TS - TN vốn sản xuất ra các sản phẩm thân thiện 
với môi trường, an toàn với con người đã từng bước 
dệt ra các sản phẩm không thân thiện, thậm chí còn 
có tác động xấu đến môi trường và con người. Điều 
này một phần do diện tích rừng bị thu hẹp, việc 
tìm, phát, đốt rừng làm rẫy trồng bông; tìm kiếm 
các nguyên vật liệu tự nhiên ngày càng khó khăn; 
phần khác do sự tiện lợi, dễ kiếm, dễ mua, giá cả 
5. Trần Tấn Vịnh (2009), Nghề dệt và trang phục cổ truyền của dân 
tộc Cơ Tu tỉnh Quảng Nam, tr. 112
phải chăng của các nguyên liệu công nghiệp. Để 
giải quyết vấn đề này không thể vận động cư dân 
trồng bông, kéo sợi như xưa mà cần vận động người 
dân tiếp tục sử dụng các loại thân, vỏ, quả, rễ 
cây để nhuộm màu cho sợi, không sử dụng thuốc 
nhuộm hóa học, góp phần duy trì tính thân thiện với 
môi trường, với con người của sản phẩm dệt. Nếu 
cộng đồng tộc người nào, khu vực nào còn (hoặc 
còn muốn) duy trì hoạt động trồng bông, cũng nên 
vận động đưa công cụ, kỹ thuật mới vào giúp họ có 
thể chế tác được sợi bông với chất lượng cao hơn, 
cả kỹ và mỹ thuật. Thậm chí, có thể tính tới phương 
án xây dựng/thành lập vùng chuyên canh bông, nhà 
máy chế biến bông cung cấp cho các tộc người tại 
chỗ trong khu vực, đảm bảo sản phẩm dệt/thổ cẩm 
của họ có chất lượng kỹ, mỹ thuật cao hơn, đáp ứng 
nhu cầu ngày càng cao của cư dân và khách du lịch.
Thứ hai, về công cụ, bộ khung dệt Anhđônêdiêng 
tạo cơ hội cho người dệt mở rộng hoặc thu hẹp 
chiều rộng khổ vải, tạo ra các sản phẩm phù hợp 
với nhu cầu sử dụng, từ những dải vải có chiều rộng 
từ 2 - 3cm đến những chiếc khố có chiều rộng dao 
động từ 20 - 40cm và những chiếc váy, tấm đắp, 
tấm khoác rộng từ 80 - 100cm, rộng gấp đôi, gấp ba 
khổ vải do khung dệt truyền thống của người Việt 
và nhiều tộc người khác dệt ra trong xã hội truyền 
thống. Tuy vậy, bộ khung dệt này lại bị hạn chế về 
độ dài của sợi dọc (có nghĩa là hạn chế số lượng 
sản phẩm) trong một lần mắc6, đặc biệt ở những 
tộc người sử dụng cả chân và lưng người dệt như 
là điểm đầu và điểm cuối của khung dệt. Bộ khung 
dệt Anhđônêdiêng còn làm cho người dệt căng cứng 
cả chân và thân người; chỉ có thể dệt trong những 
khoảng thời gian ngắn, khiến năng suất dệt không 
cao, dẫn tới giá thành sản phẩm cao, khó cạnh tranh 
với các sản phẩm dệt công nghiệp. Thêm nữa, cứ 
mỗi lần dệt hoặc nghỉ dệt, người thợ lại phải buộc 
khung dệt vào/tháo khung dệt ra khỏi thân thể, làm 
ảnh hưởng ít nhiều đến độ ken, khít giữa các hàng 
sợi ngang và ảnh hưởng (ít nhiều) tới chất lượng kỹ, 
mỹ thuật của sản phẩm. Để duy trì ưu điểm, hạn chế 
nhược điểm của khung dệt, cần tuyên truyền để cư 
dân cố định một đầu khung dệt vào một vị trí nào 
đó, hạn chế việc sử dụng cả chân và lưng người dệt 
vào việc căng/chùng hàng sợi dọc. Có thể tạo dựng 
hệ thống giá đỡ để tách 2 hàng sợi dọc bằng tác 
động của đôi chân, như khung dệt truyền thống của 
các tộc người Việt, Mường, Thái nhằm giảm bớt 
vất vả cho đôi tay người thợ, để họ tập trung vào 
việc điều chỉnh hệ thống sợi, tạo hoa văn trang trí, 
góp phần tăng năng suất, nâng cao chất lượng kỹ, 
mỹ thuật cho sản phẩm.
Thứ ba, về kỹ thuật dệt cải hoa văn, từ dệt cải 
hoa văn bằng sợi nhuộm màu trên 2 mặt sản phẩm 
6. Trần Từ (1986), Hoa văn các dân tộc Giarai - Bana, tr. 17, 19
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
117Volume 8, Issue 1
đến dệt cải hoa văn trên một mặt sản phẩm (cũng 
bằng sợi nhuộm màu) và dệt cải hoa văn bằng hạt 
cườm (chì hoặc bạc) hoàn toàn thủ công. Điều này 
có thể tạo ra những sản phẩm riêng biệt, duy nhất 
(khác với sản phẩm công nghiệp, sản xuất hàng 
loạt), nhưng lại hạn chế rất lớn về tốc độ, năng suất, 
làm giá thành các sản phẩm dệt có hoa văn, đặc biệt 
là hoa văn một mặt và hoa văn hạt cườm (chì, bạc) 
cao hơn nhiều so với các sản phẩm dệt công nghiệp. 
Điều này chỉ được giải quyết nếu người dân (với sự 
trợ giúp của các chuyên gia) chuyển từ dệt y phục 
sang dệt các sản phẩm phục vụ trang trí nội thất, các 
sản phẩm du lịch, bán cho du khách trong và ngoài 
nước như các tác phẩm nghệ thuật độc bản.
Thứ tư, về sản phẩm, việc có thể dệt ra các tấm 
vải có chiều rộng, chiều dài phù hợp, sử dụng làm y 
phục ngay không cần qua cắt may hoặc chỉ cần cắt 
may một cách đơn giản là một đặc trưng, một thế 
mạnh của nghề dệt các tộc người tại chỗ TS - TN 
trong xã hội truyền thống - xã hội tương đối khép 
kín, tự cung tự cấp. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện 
nay, khi TS - TN đã hội nhập với cả nước và quốc 
tế, với cơ chế thị trường, đặc trưng này đã và đang 
trở thành điểm yếu, là một trong những nguyên 
nhân làm cho y phục truyền thống của các tộc người 
nơi đây ngày càng thất thế trong cuộc cạnh tranh 
với y phục cắt may đa dạng về mầu sắc, kiểu dáng, 
hoa văn Nhưng đây lại là một thế mạnh trong 
sản xuất các sản phẩm trang trí như tấm trải bàn, 
tấm bọc đệm, tranh vải mang tính độc bản, như 
những tác phẩm nghệ thuật. Đây chính là những 
loại hình sản phẩm rất được khách du lịch trong và 
ngoài nước ưa chuộng; có thể đem lại cho cư dân 
thu nhập cao (tương tự như nghề dệt tại một số làng 
của người Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế và người Cơ Tu 
ở Quảng Nam hiện nay), cần được áp dụng, phát 
huy và phát triển.
4. Một số vấn đề đặt ra
4.1. Nghề dệt và sản phẩm dệt của các tộc người 
tại chỗ trên TS - TN có những đặc trưng tiêu biểu 
cả trên góc độ nguyên liệu, công cụ, kỹ thuật, lẫn 
màu sắc, sản phẩm và hoa văn. Về nguyên liệu, đó 
là sợi bông, các loại thân, vỏ, quả, rễ cây và hạt 
cườm để dệt, nhuộm và cải hoa văn. Về công cụ, 
đó là bộ công cụ thô sơ, thủ công, đặc biệt là chiếc 
khung dệt Anhđônêdiêng, bao gồm nhiều chi tiết 
hoàn toàn tách rời nhau. Về kỹ thuật, đó là kỹ thuật 
dệt đơn giản, tương tự kỹ thuật đan và các kỹ thuật 
tạo hoa văn bằng nan nhuộm màu trên một mặt và 2 
mặt sản phẩm, tạo hoa văn bằng hạt cườm, hạt kim 
loại. Về màu sắc, đó là 3 mầu truyền thống, cơ bản, 
gồm đen (hoặc chàm đen) – màu nền và hai màu đỏ 
và vàng chủ yếu được sử dụng để dệt cải hoa văn. 
Về sản phẩm, cần đặc biệt nhấn mạnh việc người 
dân nơi đây có thể dệt trực tiếp ra khố, váy, tấm đắp, 
tấm khoác phục vụ nhu cầu của các thành viên 
trong gia đình. Về hoa văn, đó là 2 mô típ hoa văn 
chung của các tộc người trong khu vực, mô típ hoa 
văn hình sao, mô típ hoa văn hình thoi/hình trám và 
nhiều mô típ hoa văn phản ánh môi trường tự nhiên, 
cuộc sống sinh hoạt, nhân sinh quan, thế giới quan 
riêng có ở từng tộc người, từng khu vực.
4.2. Các vấn đề đặt ra với nghề dệt và sản phẩm 
dệt của các tộc người tại chỗ trên TS - TN cũng bắt 
đầu từ nguyên liệu, công cụ, kỹ thuật, sản phẩm và 
hoa văn. Cụ thể, người dân đã và đang lựa chọn 
các loại nguyên liệu mới thay thế cho nguyên liệu 
truyền thống, tạo ra các sản phẩm không thân thiện 
với môi trường, con người. Bộ công cụ thô sơ và 
kỹ thuật dệt đơn giản của các tộc người tại chỗ nơi 
đây góp phần làm năng suất lao động của người 
thợ thấp, giá thành sản phẩm cao, không cạnh tranh 
được với các sàn phẩm dệt, may công nghiệp bán 
sẵn trên thị trường. Truyền thống dệt trực tiếp ra y 
phục hoặc chỉ cắt may đơn giản cũng góp phần làm 
cho thổ cẩm các tộc người tại chỗ ở TS – TN ngày 
càng ít được sử dụng, ngay trong chính các cộng 
đồng cư dân, trong cuộc sống lao động, sinh hoạt 
thường ngày.
4.3. Để giải quyết các vấn đề này, cần vận động 
người dân tiếp tục sử dụng thân, vỏ, quả, rễ cây 
để nhuộm mầu cho sợi; tuyên truyền để cư dân cố 
định một đầu khung dệt vào một vị trí cố định, hạn 
chế việc sử dụng cả chân và lưng người thợ như 
những bộ phận của khung dệt; áp dụng cách tách 2 
hàng sợi dọc bằng sức mạnh của đôi chân, để người 
thợ sử dụng đôi tay vào việc điều chỉnh các hàng 
sợi, tạo hoa văn trang trí cho sản phẩm; vận động, 
hỗ trợ cư dân chuyển từ dệt y phục sang dệt các sản 
phẩm trang trí nội thất, sản phẩm du lịch bán cho du 
khách trong và ngoài nước./.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
118 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Trường Giang (2016), Nghề dệt truyền 
thống của người Tàôi trong bối cảnh kinh tế 
thị trường (Nghiên cứu trường hợp xã Nhâm, 
huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Bảo 
tàng và Nhân học, số 1, tr. 42-49.
Hoàng Lương (1988), Hoa văn Thái, Nxb. Văn 
hóa Dân tộc, Hà Nội.
Hoàng Lương (1987), Hoa văn mặt chăn Thái ở 
Mường Tấc (Phù Yên-Sơn La), Luận án Phó 
tiến sĩ Sử học.
Phạm Văn Lợi (2017), Nghề dệt và sản phẩm 
dệt của người Bana ở làng Kon Rờ Bàng, 
thành phố Kon Tum, Bảo tàng và Nhân học, 
số 1, 43- 51.
Nguyễn Thị Thanh Nga (2003), Nghề dệt của 
người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện 
đại, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đoàn Thị Tình (1987), Tìm hiểu trạng phục Việt 
Nam (dân tộc Việt), Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục 
Thái, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Lê Ngọc Thắng (1990), Trang phục cổ truyền 
của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án 
Phó tiến sỹ Sử học, Hà Nội.
Ngô Đức Thịnh (1994), Y phục và trang sức 
các dân tộc Việt Nam, Nxb. Văn hóa Dân 
tộc, Hà Nội.
Trần Từ (1978), Hoa văn Mường, Nxb. Văn hóa 
Dân tộc, Hà Nội.
Trần Từ (1986), Hoa văn các dân tộc Giarai-
Bana, Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Gia Lai, 
Kon Tum.
Chu Thái Sơn (chủ biên, 2000), Hoa văn cổ 
truyền Đắc Lắc, Nxb. Khoa học Xã hội.
Trần Tấn Vịnh (2009), Nghề dệt và trang phục 
cổ truyền của dân tộc Cơ Tu tỉnh Quảng 
Nam, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Chuyên 
ngành Văn hóa dân gian, Lưu tại Thư viện 
Quốc gia.
BASIC FEATURES OF THE BROCADE OF THE LOCAL ETHNIC 
GROUPS ON TRUONG SON - TAY NGUYEN
REAL SITUATION AND SOME ISSUES
Pham Van Loi
Institute of Vietnamese Studies and 
Development Science
Email: ploivme@gmail.com
Received: 15/2/2019
Revised: 21/2/2019
Accepted: 13/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/274
Abstract: Truong Son - Tay Nguyen is a special historical 
and ethnographic region, including 5 provinces of Kon Tum, 
Gia Lai, Dak Lak, Dac Nong, Lam Dong and the western 
mountainous areas from Quang Binh province to Binh Phuoc 
province. This is the oldest residence of the 15 ethnic groups 
of the Mon - Khmer language group, the South Asian linguistic 
family and the 5 ethnic groups of the Malayo-Polonian language 
group, the Nam Dao linguistic family. Brocades of ethnic groups 
on this strip of land are also a topic of interest to many scientists. 
And after many years of research, the author of the article wants 
to confirm some basic features of brocade - weaving and textile 
products of local ethnic groups, identify some issues that are 
posing with weaving and textile products here, thereby orienting 
solutions to preserve and develop weaving and textile products 
of the local ethnic groups on this land.
Keywords: Truong Son – Tay Nguyen; Ethnic group; 
Procade; Weaving and textile products; Preserve brocade 
weaving.

File đính kèm:

  • pdfdac_trung_co_ban_cua_tho_cam_cac_toc_nguoi_tai_cho_truong_so.pdf