Đánh giá hiệu quả hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine trong gây tê ngay dưới xương đòn

Tóm tắt

Mở đầu: Gây tê dưới xương đòn được Bazy thực hiện lần đầu tiên năm 1914.

Nhưng trong một thời gian dài kỹ thuật này không được chú ý. Từ năm 1995,

sau công trình nghiên cứu của Kilka (1995)[6] và Wilson(1998)[9], gây tê dưới

xương đòn được quan tâm trở lại. Năm 2007 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu

gây tê ngay dưới xương đòn bằng Lidocaine với máy kích thích thần kinh. Kết quả

cho thấy gây tê an toàn, chất lượng tê cao nhưng thời gian tác dụng ngắn (225,2

± 21,3 phút) nên ít có ý nghĩa giảm đau sau mổ[1].

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả hỗn hợp thuốc tê Lidocaine và

Levobupivacaine.

Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả. 80 bệnh nhân được gây tê ngay

dưới xương đòn (GTNDXĐ) bằng hỗn hợp Lidocaine 1% và Levobupivacaine

0,25% có pha Adrenaline 1/200.000, dụng cụ hỗ trợ là máy kích thích thần kinh.

Kết quả: Tỉ lệ thành công là 100%. Thời gian thực hiện kỹ thuật: 7,6 ± 4,1

phút, Thời gian tiềm tàng:8,7 ± 2,2 phút. Thời gian tác dụng tối đa: 295,3 ± 37,4

phút. Thời gian tác dụng: 457,5 ± 81,2 phút. Tỉ lệ chọc kim vào mạch máu: 1,25%.

Kết luận: Hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine an toàn và hiệu quả khi gây

tê ngay dưới xương đòn.

pdf 8 trang yennguyen 3520
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine trong gây tê ngay dưới xương đòn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine trong gây tê ngay dưới xương đòn

Đánh giá hiệu quả hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine trong gây tê ngay dưới xương đòn
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
14
Tóm tắt
Mở đầu: Gây tê dưới xương đòn được Bazy thực hiện lần đầu tiên năm 1914. 
Nhưng trong một thời gian dài kỹ thuật này không được chú ý. Từ năm 1995, 
sau công trình nghiên cứu của Kilka (1995)[6] và Wilson(1998)[9], gây tê dưới 
xương đòn được quan tâm trở lại. Năm 2007 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 
gây tê ngay dưới xương đòn bằng Lidocaine với máy kích thích thần kinh. Kết quả 
cho thấy gây tê an toàn, chất lượng tê cao nhưng thời gian tác dụng ngắn (225,2 
± 21,3 phút) nên ít có ý nghĩa giảm đau sau mổ[1].
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả hỗn hợp thuốc tê Lidocaine và 
Levobupivacaine. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả. 80 bệnh nhân được gây tê ngay 
dưới xương đòn (GTNDXĐ) bằng hỗn hợp Lidocaine 1% và Levobupivacaine 
0,25% có pha Adrenaline 1/200.000, dụng cụ hỗ trợ là máy kích thích thần kinh. 
Kết quả: Tỉ lệ thành công là 100%. Thời gian thực hiện kỹ thuật: 7,6 ± 4,1 
phút, Thời gian tiềm tàng:8,7 ± 2,2 phút. Thời gian tác dụng tối đa: 295,3 ± 37,4 
phút. Thời gian tác dụng: 457,5 ± 81,2 phút. Tỉ lệ chọc kim vào mạch máu: 1,25%. 
Kết luận: Hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine an toàn và hiệu quả khi gây 
tê ngay dưới xương đòn.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HỖN HỢP LIDOCAINE 
VÀ LEVOBUPIVACAINE TRONG GÂY TÊ 
NGAY DƯỚI XƯƠNG ĐÒN
Trần Viết Vinh1, Trần Quốc Việt1
Nguyễn Xuân Tiến1, Nguyễn Minh Thuật1
(1) Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Trần Viết Vinh (vietvinh65@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 18/12/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/12/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
15
Astract:
EVALUATION OF EFFICACY OF VERTICAL INFRACLAVICULAR 
BLOCKS WITH COMBINATION OF LIDOCAINE AND 
LEVOBUPIVACAINE
Background: The infraclavicular block was first performed by Bazy in 1914. 
But it has not been interested for a long duration. Since 1995, infraclavicular block 
has become a technique of increasing interest after the studies of Kilka(1995)
[6], Wilson(1998)[9] et al. In 2007 we performed the vertical infraclavicular 
block with Lidocaine. The block was successful but the duration of anesthetic 
action was short (225.2 ± 21.3minutes), so it was not significative for analgesia 
in postoperative time.
Objectives: To evaluate the efficacy of the combination of Lidocaine and 
Levobupivacaine in the vertical infraclavicular block.
Methods: Prospective, descriptive study; 80 patients underwent surgery from 
the middle third of the humerus to the hand; Nerve stimulator and the combination 
of Lidocaine and Levobupivacaine with Epinephrine 1/200.000 were used.
Results: The successful rate was 100%. Time to perform the block was 7.6 ± 
4.1 minutes, onset time was 8.7 ± 2.2 minutes, total anesthetic duration was 295.3 
± 37.4 minutes, duratin of anesthetic action was 457.5 ± 81.2 minutes. Arterial 
punture was 1 patient(1.25%). 
Conclusion: Combination of Lidocaine and Levobupivacaine was safe and 
effective in vertical infraclavicular block.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây tê đám rối thần kinh cánh tay 
dưới xương đòn là một trong bốn kỹ 
thuật chính của gây tê đám rối thần 
kinh cánh tay (gây tê gian cơ bậc 
thang, gây tê trên xương đòn, gây tê 
dưới xương đòn, gây tê nách). Hiện 
nay, khi sử dụng máy kích thích thần 
kinh (MKTTK) người ta chia gây tê 
dưới xương đòn thành ba nhóm kỹ 
thuật: 1. Gây tê ngay dưới xương đòn- 
vertical infraclavicular block (hay 
gây tê dưới xương đòn trong- medial 
infraclavicular block) gồm những kỹ 
thuật có điểm chọc kim gây tê nằm 
gần điểm giữa xương đòn; 2. Gây tê 
cạnh mỏm quạ-coracoid block (hay 
gây tê dưới xương đòn ngoài-lateral 
infraclavicular block) gồm những kỹ 
thuật có điểm chọc kim gây tê nằm 
gần mỏm quạ; 3. Gây tê dưới xương 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
16
đòn trung gian (sagittal infraclavicular 
block) gồm những kỹ thuật có điểm 
chọc kim nằm khoảng giữa hai nhóm 
kỹ thuật nêu trên. Năm 2007, chúng 
tôi đã thực hiện nghiên cứu so sánh 
hiệu quả gây tê dưới xương đòn trong 
và gây tê dưới xương đòn ngoài bằng 
Lidocaine 1,5% với dụng cụ hỗ trợ là 
MKTTK (nerve stimulator). Kết quả 
cho thấy gây tê dưới xương đòn trong 
có chất lượng tê cao hơn, kỹ thuật dễ 
thực hiện hơn, ít tai biến hơn so với gây 
tê dưới xương đòn ngoài. Tuy nhiên, 
gây tê bằng Lidocaine thời gian tê ngắn 
nên hiệu quả giảm đau sau mổ hạn chế. 
Để khắc phục những nhược điểm 
nêu trên, chúng tôi cho rằng cần phải 
sử dụng thuốc tê có tác dụng dài hơn 
Lidocaine trên nguyên tắc sử dụng 
thuốc với liều lượng, nồng độ tối 
thiểu mà vẫn hiệu quả, an toàn. Chúng 
tôi triển khai đề tài “Đánh giá hiệu 
quả hỗn hợp thuốc tê Lidocaine và 
Levobupivacaine trong gây tê ngay 
dưới xương đòn” nhằm mục tiêu sau:
Đánh giá chất lượng, thời gian vô 
cảm và tai biến, biến chứng của hỗn hợp 
thuốc tê lidocain và levobupivacain.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng:
80 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, 
xếp loại ASA I, II, không chống chỉ 
định gây tê, có chỉ định phẫu thuật từ 
1/3 giữa cánh tay đến bàn tay.
2. Phương pháp nghiên cứu:
2.1. Thiết kế nghiên cứu: 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt 
ngang.
2.2. Phương tiện, dụng cụ, thuốc:
* Dự phòng cấp cứu, gây mê, hỗ 
trợ trong mổ: tương tự như gây tê đám 
rối thần kinh cánh tay ở vị trí khác.
* Gây tê:
- Máy kích thích thần kinh 
Stimuplex DIG RC, kim gây tê chuyên 
dụng dài 05 cmvà 10 cm.
- Thuốc tê: hỗn hợp lidocain 1,0% 
và levobupivacain 0,25 % (lấy 1 ống 
10ml lidocain 2% pha với 1 ống 10ml 
levobupivacain - biệt dược chirocaine - 
0,5%, liều lượng lidocaine là 2,5-3 mg/
kg cân nặng, levobupivacaine là 0,8-
1,0mg/kg) pha adrenaline 1/200.000. 
2.3. Kỹ thuật gây tê:
* Xác định vị trí chọc kim:
+ Kẻ đường ngang đi qua sụn nhẫn, 
cắt bờ sau cơ ức đòn chũm (điểm 1).
+ Xác định điểm giữa xương đòn 
(điểm 2).
+ Nối 2 điểm với nhau và kéo dài 
xuống phía dưới xương đòn 0,5 cm là 
vị trí gây tê.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
17
* Thực hiện kỹ thuật:
- Kỹ thuật được lựa chọn là kỹ 
thuật 1 mũi: tiêm thuốc tê một lần khi 
dò tìm được thân nhì sau- bó sau (khởi 
nguồn thần kinh quay).
- Bệnh nhân nằm ngửa, tay để xuôi 
theo thân người hoặc trong tư thế giảm 
đau, đầu quay về bên đối diện. Người 
gây tê đứng phía đầu bệnh nhân, người 
phụ đứng bên cạnh bệnh nhân, cùng 
bên với bên gây tê. 
- Thực hiện các thao tác vô trùng.
- Bật MKTTK, đặt cường độ kích 
thích ở 0,7 -1,0 mA, tần số 1 Hz. Chọc 
kim theo chiều trước- sau. Khi thấy 
động tác duỗi bàn, ngón tay (thần kinh 
quay chi phối) thì dừng lại, đồng thời 
hạ cường độ kích thích xuống dưới 0,3 
mA mà vẫn còn có sự co cơ nhìn thấy 
được thì bơm thuốc tê (nếu hạ cường 
độ tới 0,2 mA mà vẫn còn có sự co cơ 
thì lui kim lại vì có nguy cơ tổn thương 
thần kinh). Trường hợp nghi ngờ kim 
đã vượt qua vị trí đám rối thần kinh 
cánh tay thì lui kim lại và di chuyển 
kim từ từ theo hướng trên-dưới chếch 
ngoài 30-45o so với đường dọc giữa 
tránh chọc thủng màng phổi.
2.4. Phương pháp đánh giá:
* Đánh giá mức độ ức chế cảm 
giác và vận động:
Đánh giá và phân chia mức độ ức 
chế cảm giác đau theo phân loại của 
Vester- Andersen[8], mức độ ức chế vận 
động theo phân loại của Bromage[3]:
- Độ 3: ức chế hoàn toàn.
- Độ 2: ức chế gần hoàn toàn.
- Độ 1: ức chế ít.
- Độ 0: không ức chế.
Ức chế cảm giác đau ở mức 2, 3 
được coi là gây tê thành công, mức 0, 1 
được coi là gây tê thất bại.
* Đánh giá các khoảng thời gian 
tê:
- Thời gian tiềm tàng (hoặc thời 
gian đạt tê phẫu thuật): tính từ lúc bơm 
thuốc tê tới khi thuốc có tác dụng tối 
đa (tác dụng cao nhất) về phạm vi và 
mức độ tê.
- Thời gian tác dụng tối đa (hoặc 
thời gian tê phẫu thuật): tính từ lúc 
thuốc bắt đầu đạt tác dụng tối đa tới 
khi bắt đầu phục hồi cảm giác.
- Thời gian tác dụng: tính từ lúc 
thuốc bắt đầu có tác dụng tới khi phục 
hồi hoàn toàn cảm giác, vận động.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
18
KẾT QUẢ
1. Các chỉ số kỹ thuật và các khoảng thời gian tê:
Bảng 3.1. Các chỉ số kỹ thuật và các khoảng thời gian tê
Chỉ số Kết quả
Thời gian thực hiện kỹ thuật (phút) 7,6 ± 4,1
Độ sâu kim gây tê (cm) 3,1 ± 1,2
Thời gian tiềm tàng (phút) 8,7 ± 2,2
Thời gian tác dụng tối đa (phút) 295,3 ± 37,4
Thời gian tác dụng (phút) 457,5 ± 81,2
2. Mức độ ức chế cảm giác đau:
2.1. Tỉ lệ ức chế cảm giác đau ở 20 phút và 30 phút sau gây tê:
Bảng 3.2. Kết quả ở 20 phút và 30 phút sau gây tê
Thời điểm Tỉ lệ ức chế cảm giác độ 2 và 3
20 phút sau tê 78,7%
30 phút sau tê 100,0%
2.2. Tỉ lệ ức chế cảm giác đau từ 1/3 giữa cánh tay trở xuống sau 30 phút 
gây tê:
Bảng 3.3. Tỉ lệ ức chế cảm giác đau từ 1/3 giữa cánh tay trở xuống
Thần kinh Mức độ ức chế cảm giác (%)
Bì-cánh tay trong,
bì –cẳng tay trong, cơ bì, quay, trụ, 
giữa
Độ 2 Độ 3
8,7 91,3
100,0
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
19
3. Mức độ ức chế vận động: 
Bảng 3.4. Mức độ ức chế vận động
Nhóm nghiên cứu
Độ 2 Độ 3
26,3 73,7
100,0
4. Mức độ dung nạp garô:
- Đặt garô nhóm nghiên cứu có 
46 BN (chiếm 57,5%), tất cả các bệnh 
nhân được đặt garô đều dung nạp tốt.
5. Các chỉ số mạch, huyết áp, 
nhịp thở, SpO2: 
Các chỉ số mạch, huyết áp, nhịp 
thở, SpO2 dao động trong giới hạn 
bình thường ở cả hai nhóm. Điện tâm 
đồ bình thường trước, trong, sau mổ ở 
tất cả các bệnh nhân.
6. Tai biến, biến chứng:
- Chọc kim vào mạch máu: 1 
trường hợp.
Ngoài ra không ghi nhận tai biến, 
biến chứng nào khác.
BÀN LUẬN
- Liều lượng, nồng độ thuốc tê: 
Lidocaine có nồng độ là 1%, liều 
2,5-3 mg/kg, Levobupivacaine có 
nồng độ 0,25 %, liều 0,8-1,0 mg/kg, 
thấp so với sử dụng Lidocaine hoặc 
Levobupivacaine đơn thuần, đây là 
nồng độ và liều tối thiểu theo khuyến 
cáo của nhà sản xuất trong gây tê thân 
thần kinh. Mục đích của việc sử dụng 
nồng độ và liều tối thiểu của hai thuốc 
tê có thời gian tác dụng khác nhau là 
nhằm đạt mục đích gây tê và hạn chế 
tai biến, biến chứng do thuốc tế gây ra.
- Lựa chọn thần kinh cần dò tìm:
 Chúng tôi bơm thuốc tê khi gặp bó 
sau(thân nhì sau). Kết quả cho thấy tỉ lệ 
ức chế cảm giác độ 3 (91,3%) cao hơn 
so với nghiên cứu của chúng tôi năm 
2007 (81,3%), chứng tỏ tiêm thuốc tê 
vào bó sau hiệu quả cao hơn tiêm thuốc 
tê vào các bó khác. Điều này là phù hợp 
vì về mặt giải phẫu bó sau nằm giữa bó 
trong và bó ngoài nên thuốc lan toả đều 
hơn. Nhận xét của chúng tôi phù hợp 
với nhận xét của Kilka[6]. 
- Thời gian thực hiện kỹ thuật là 
7,6 ± 4,1 phút. Thời gian thực hiện 
kỹ thuật dài hơn so với Borgeat (4,5± 
1,5 phút) [2] nhưng ngắn hơn so với 
Sandhu (10,8 ± 3,3 phút)[7].
- Thời gian tiềm tàng là 8,7± 2,2 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016
20
phút dài hơn kết quả của Sandhu (5,9 ± 
2,6 phút)[7], 
- Thời gian tác dụng tối đa (295,3 ± 
37,4 phút) dài hơn nhiều so với nghiên 
cứu của chúng tôi năm 2007 (172,8 
± 25,6 phút)[1], sự khác nhau này có 
ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả 
này cho thấy hỗn hợp Lidocaine và 
Levobupivacaine có thời gian tê phẫu 
thuật dài hơn nhiều so với Lidocaine 
đơn thuần và bảo đảm tốt cho các phẫu 
thuật có thời gian dài. 
- Thời gian tác dụng (457,5 ± 81,3 
phút) dài hơn nhiều so với nghiên cứu 
của chúng tôi năm 2007 (225,1 ± 21,3 
phút) sự khác nhau này có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05)[1]. Kết quả này cho thấy 
hỗn hợp Lidocaine và Levobupivacaine 
có thời gian giảm đau dài hơn nhiều so 
với Lidocaine đơn thuần và có ý nghĩa 
giảm đau sau mổ. Tuy nhiên thời gian 
tác dụng của hỗn hợp thuốc tê này 
ngắn hơn so với thời gian tác dụng 
của Levobupivacaine đơn thuần trong 
nghiên cứu của tác giả Piangatelli 
(684,0 ± 132,0 phút)[13]. Có sự khác 
biệt này là do sự khác nhau về nồng 
độ và thể tích thuốc tê so với nghiên 
cứu của chúng tôi, Piangatelli sử dụng 
Levobupivacaine nồng độ 0,5% và thể 
tích thuốc tê là 30 ml trong khi chúng 
tôi sử dụng Levobupivacaine nồng độ 
0,25% và thể tích 20 ml (bảng 3.1).
- Mức độ ức chế cảm giác chung 
(30 phút sau gây tê):
Tỉ lệ ức chế cảm giác mức 2, 3 (tỉ 
lệ gây tê thành công) từ 1/3 giữa cánh 
tay trở xuống là 100,0 %, cao hơn kết 
quả của Choon và cộng sự (96,6%) 
có thể do lựa chọn thần kinh khi bơm 
thuốc tê khác các tác giả trên. Tỉ lệ ức 
chế cảm giác ở mức 3 là 91, 3% thấp 
hơn so với Borgeat (97,0%)[2], Kilka 
(94,8%)[6]. 
- Mức độ ức chế vận động: 
Tất cả các bệnh nhân đều có ức chế 
vận động ở mức 2 hoặc 3. Tỉ lệ ức chế 
vận động hoàn toàn ( mức 3) là 73,7%. 
Kết quả này cho thấy gây tê bằng hỗn 
hợp Lidocaine và Levobupivacaine 
đủ độ mềm cơ, tạo thuận lợi cho phẫu 
thuật.
- Tai biến, biến chứng:
Chọc kim vào mạch máu gặp ở 1 
bệnh nhân, ngoài tai biến chọc kim vào 
mạch máu chúng tôi không thấy các tai 
biến, biến chứng khác. 
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 80 bệnh nhân 
chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 
Gây tê đám rối thần kinh cánh tay 
đường dưới xương đon bằng hỗn hợp 
Lidocaine và Levobupivacaine trong 
phẫu thuật chi trên có kết quả tốt 100%.
Tai biến, biến chứng: chỉ ghi nhận 
tai biến chọc kim vào mạch máu với tỉ 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
21
lệ 1,25%. Không ghi nhận các tai biến, 
biến chứng khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Viết Vinh, Nguyễn Hồng 
Sơn, Nguyễn Văn Chừng, Cao Văn 
Thịnh(2008). “ Đánh giá hiệu quả gây 
tê dưới xương đòn bằng Lidocaine”. 
Tạp chí Y học Tp Hồ Chí Minh. Vol 
12, tr. 64-71.
2. Borgeat A., Georgios E., 
Dumont C.(2001). “An evaluation of 
the infraclavicular block via modified 
approach of the Raj technique”.
Anesthesia & Analgesia , 93, pp. 436-
441.
3. Bromage P.R. and Gertel 
M.(1989) “Improved brachial 
plexus blockade with Bupivacaine 
Hydrochloride and Carbonated 
Lidocaine”. Anesthesiology, 36, pp. 
479-485.
4. Desroches J.(2003). “The 
infraclavicular brachial plexus block 
by the coracoid approach is clinically 
effective: An observational study of 
150 patients”. Canadian Journal of 
Anesthesia , 50, pp.253-257.
5. Klaastad O., Finn G., Jan S., 
Harald B.(2000).“A manegtic resonance 
imaging study of modifications to the 
infraclavicular brachial plexus block”. 
Anesthsia & Analgesia, 91, pp.929-
933.
6. Kilka H.G., Geiger P., Mehrkens 
H.H.(1999). “Infraclavicular vertical 
brachial plexus blockade. A new 
technique of regional anesthesia”. 
Anesthesist, 44, pp.339-344.
7. Sandhu N.S., Charanjeet 
S.(2006).“ Feasibility of an 
infraclavicular block with a reduced 
volume of Lidocaine with sonographic 
guidance”. J Ultrasound Med , 25, 
pp.51-56.
7. Vester-Andersen-T., Eriksen-C. 
et al(1984). “Perivascular axillary 
block III: Blockade of following 40ml 
of 0,5%,1% or 1,5% Mepivacaine with 
Adrenaline”. Acta-Anaesth-Scand, 28, 
pp.95-98.
8. Wilson J.L., Brown 
D.L., Wong G.Y., Cahill 
D.R.(1998).“Infraclavicular brachial 
plexus block: parasagittal anatomy 
impotant to the coracoid technique”. 
Anesthesia & Analgesia, 87, pp.870-
873.
9. Choon Kyu Cho, Joong 
Yeoun Kim, Sung Mee Jung, Hee 
Uk Kwon et al(2009). “Infraclavicular 
brachial plexus block with 0.5% 
levobupivacaine and 0.5% ropivacaine 
for upper limb surgery”. Korean J 
Anesthesiology, 56, pp. 162- 168.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_hon_hop_lidocaine_va_levobupivacaine_trong.pdf