Đánh giá sau đào tạo cho cán bộ y tế cấp tỉnh chịu trách nhiệm về điều tra các vụ ngộ độc thực phẩm
TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hiện nay vẫn còn một số lượng đáng kể các vụ NĐTP chưa được điều tra nguyên nhân. Do đó xác định nguyên nhân cũng như những rào cản của những vụ NĐTP không được điều tra là cần thiết để cải thiện các khóa đào tạo và xác định sự cần thiết của nhu cầu đào tạo cho nguồn lực điều tra NĐTP. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và nhu cầu đào tạo tập huấn về NĐTP Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, gồm định lượng và định tính, thực hiện tại 7 tỉnh phía nam trên những cán bộ của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh (TTYTDP) và Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh (CCATVSTP) đã tham gia tập huấn điều tra NĐTP và một số chưa tham gia tập huấn. Kết quả nghiên cứu: 88,2% học viên còn nhớ về độ nhạy và độ đặc hiệu của một chẩn đoán, định nghĩa vụ dịch với 82,4%, đặc tính của một vụ NĐTP có nguồn chung với 58,8%. Kiến học viên quên nhiều nhất là kỹ năng tính toán thông kê trong dịch tễ. Điểm trung bình về kiến thức và kỹ năng về điều tra dịch đã giảm 19,2% sau 2 năm tham gia tập huấn, tuy nhiên vẫn cao hơn điểm đầu vào khi tham gia tập huấn. Nhân viên có tham dự tập huấn có điểm đạt gấp 1,5 lần so với người không được tập huấn. Khó khăn chủ yếu trong điều tra nguyên nhân NĐTP do năng lực hình thành giả thuyết dịch tễ, thu thập và xử lý số liệu, thiếu nhân lực và cán bộ thiếu kinh nghiệm
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sau đào tạo cho cán bộ y tế cấp tỉnh chịu trách nhiệm về điều tra các vụ ngộ độc thực phẩm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 147 ĐÁNH GIÁ SAU ĐÀO TẠO CHO CÁN BỘ Y TẾ CẤP TỈNH CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ ĐIỀU TRA CÁC VỤ NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM Đặng Văn Chính*, Hồ Hữu Tính* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hiện nay vẫn còn một số lượng đáng kể các vụ NĐTP chưa được điều tra nguyên nhân. Do đó xác định nguyên nhân cũng như những rào cản của những vụ NĐTP không được điều tra là cần thiết để cải thiện các khóa đào tạo và xác định sự cần thiết của nhu cầu đào tạo cho nguồn lực điều tra NĐTP. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và nhu cầu đào tạo tập huấn về NĐTP Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, gồm định lượng và định tính, thực hiện tại 7 tỉnh phía nam trên những cán bộ của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh (TTYTDP) và Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh (CCATVSTP) đã tham gia tập huấn điều tra NĐTP và một số chưa tham gia tập huấn. Kết quả nghiên cứu: 88,2% học viên còn nhớ về độ nhạy và độ đặc hiệu của một chẩn đoán, định nghĩa vụ dịch với 82,4%, đặc tính của một vụ NĐTP có nguồn chung với 58,8%. Kiến học viên quên nhiều nhất là kỹ năng tính toán thông kê trong dịch tễ. Điểm trung bình về kiến thức và kỹ năng về điều tra dịch đã giảm 19,2% sau 2 năm tham gia tập huấn, tuy nhiên vẫn cao hơn điểm đầu vào khi tham gia tập huấn. Nhân viên có tham dự tập huấn có điểm đạt gấp 1,5 lần so với người không được tập huấn. Khó khăn chủ yếu trong điều tra nguyên nhân NĐTP do năng lực hình thành giả thuyết dịch tễ, thu thập và xử lý số liệu, thiếu nhân lực và cán bộ thiếu kinh nghiệm. Từ khóa: ngộ độc thực phẩm, điều tra vụ dịch ABSTRACT POST‐TRAINING EVALUATION FOR PROVINCIAL HEALTH STAFF RESPONSIBLE FOR FOOD‐ POISONING OUTBREAKS INVESTIGATION IN SOUTHERN VIET NAM Dang Van Chinh, Ho Huu Tinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 148 – 154 Backgound:There was a considerable number of foods – poisoning outbreaks (FPO) which were not investigated. Therefore, the need for understanding why FPOs was not investigated, identifying the gaps and difficulties in investigating FPO was important because it helps improve FPO training and helps decision‐makers to develop and implement strategies. Objectives:To evaluate the effectiveness of the training courses and determine the need fortraining. Methods:This evaluation was a cross‐sectional study including quality study and quantity study. The study subjects included trained and untrained staffs of Provincial Preventive Medicine Centers (PMC) and Food Safe Agencies (FSA) in 7 provinces in Southern Vietnam. Results: In all, 88,2% staffs still had knowledge of test sensitivity and specificity, 82,4 % outbreak definition, 58,8 % characteristics of FPO onset. Most staffs couldn’t remember how to calculate basic statistics.Two years after training, the mean scores of knowledge and skills for FPO decreased by 19,2%. However, these mean scores were still higher than those in the pretest evaluation. The scores of trained staff *Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS. Đặng Văn Chính ĐT: 0908414986 Email: dangvanchinh@ihph.org.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 148 were 1,5 times as high as those of untrained staff.The difficulties of food poisoning outbreak investigation were due to incompetence in making hypothesis, conducting and analyzing data,andlack of experience and manpower. Keywords: food poisoning, outbreak investigation ĐẶT VẤN ĐỀ Các vụ NĐTP luôn là một gánh nặng bệnh tật đáng kể cho Việt Nam. Trong năm 2010, đã có 82 vụ NĐTP xảy ra tại 20 tỉnh thành phía Nam(2). Hao tổn về kinh tế và con người do các vụ NĐTP gây ra rất lớn. Tuy nhiên, việc ngăn ngừa bệnh và tử vong do NĐTP vẫn là một thách thức lớn cho y tế công cộng tại Việt Nam. Năm 2009 – 2010 được sự phối hợp của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 4 khóa tập huấn về điều tra NĐTP đã được VYTCC Tp. HCM tổ chức cho 110 nhân viên của CCATVSTP và TTYTDP cấp tỉnh. Mục đích nhằm cung cấp kiến thức và kỹ năng cho cán bộ điều tra và giúp cho cán bộ quản lý chỉ đạo, phối hợp hiệu quả trong điều tra vụ dịch giữa các đơn vị có liên quan. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn có một số lượng đáng kể các vụ NĐTP chưa được điều tra. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2011 đã xảy ra 26 vụ NĐTP, ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của 8.681 người, có 9/26 vụ NĐTP không được điều tra nguyên nhân(1). Đa số các vụ NĐTP xảy ra tại bếp ăn tập thể trong các nhà máy, trường mẫu giáo và tại các buổi tiệc nên ảnh hưởng đến nhiều người. Vì vậy, nhu cầu tìm hiểu lý do tại sao các vụ NĐTP không được điều tra, xác định những rào cản và khó khăn trong việc điều tra NĐTP là rất quan trọng. Điều này rất cần thiết trong việc cải thiện các khóa đào tạo điều tra NĐTP, giúp các nhà hoạch định chính sách phát triển và thực hiện chiến lược để cải thiện vấn đề này. Mục tiêu chung Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và làm thế nào để nhân viên y tế áp dụng kiến thức vào thực tế khi xảy ra vụ NĐTP. Xác định sự cần thiết của nhu cầu đào tạo và nguồn lực cho điều tra NĐTP. Mục tiêu cụ thể Đánh giá kiến thức và kỹ năng mà người tham gia tập huấn còn lại sau khi được đào tạo tại khóa học về điều tra NĐTP. Xác định điều kiện và nguồn lực cần thiết của CCATVSTP và TTYTDP cho quản lý các vụ NĐTP. Đánh giá sự cần thiết của chương trình tập huấn điều tra vụ NĐTP. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang, bao gồm nghiên cứu định lượng để đánh giá kiến thức và kỹ năng trong điều tra vụ dịch NĐTP và xác định nhu cầu đào tạo. Nghiên cứu định tính để xác định những khó khăn và thách thức trong công tác điều tra NĐTP. Đánh giá này được thực hiện tại 7 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Tây Ninh, Tiền Giang, Bến Tre, Long An và Đồng Nai‐ là những tỉnh đã có nhiều vụ NĐTP xảy ra trong năm 2010 – 2012. Đối tượng tham gia là những học viên đã tham dự lớp tập huấn năm 2009 và 2010 còn công tác tại CCVSATTP và TTYTDP và một số nhân viên không tham gia lớp tập huấn. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm nhân sự của CCATVSTP và TTYTDP ở 6 tỉnh theo học vấn và ngành đào tạo 2012 Đặc điểm FSA (n=112) PMC (n=524) Chung (n=636) TB % TB % TB % Học vấn Trung sơ cấp 4 18,4 52 58,9 56 52,4 Đại học 13 70,0 26 29,8 39 36,3 Ngành y 3 20,0 13 51,3 16 41,1 Ngành khác 10 80,0 13 48,7 23 58,9 Sau đại học 2 11,6 10 11,3 12 11,3 Ngành y 2 100 9 94,9 11 95,8 Ngành khác 0 0,0 1 5,1 1 4,2 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 149 Đặc điểm FSA (n=112) PMC (n=524) Chung (n=636) TB % TB % TB % Tổng số 19 87 106 Nhân viên điều tra 4 23,2 13 15,0 17 16,5 * Không tính Thành phố Hồ Chí Minh vì TTYTDP có 172 người và CCATVSTP có 148 người Không tính thành phố Hồ Chí Minh, trung bình ở mỗi tỉnh có 106 người làm việc ở CCVSATTP và TTYTDP, trong đó TTYTDP chiếm hơn 80% (87/106) (Bảng 1). Hơn 1/10 số nhân viên có trình độ sau đại học, gần 4/10 có trình độ đại học và còn lại hơn 1/2 nhân viên có trình độ trung và sơ cấp.Trong nhóm có trình độ đại học, hơn 4/10 là số nhân viên được đào tạo trong ngành y và gần 6/10 là được đào tạo từ chuyên ngành khác như hóa, hóa thực phẩm, sinh học, công nghệ sinh học và thực phẩm. Trong nhóm trình độ sau đại học hơn 9/10 là số nhân viên được đào tạo trong ngành y. Số trung bình nhân viên liên quan đến điều tra NĐTP ở mỗi tỉnh có 17 người trong đó TTYTDP 13 người và CCVSATP là 4 người. Số nhân viên này chược chia thành 2‐3 đội kiểm soát dịch bệnh. Mỗi đội có 5‐6 người cho TTYTDP và 2‐3 người cho CCVSATTP. Nhân viên phụ trách điều tra dịch của TTYTDP Tp.HCM là 32 (18,6%) người. CCATVSTP Tp.HCM có 148 nhân viên và có 10 (6,8%) nhân viên phụ trách điều tra ngộ độc. Bảng 2: Các vụ NĐTP được báo cáo ở 7 tỉnh năm 2010‐2012 (n=119) Đặc điểm TB vụ /năm Phần trăm Năm 2010 (n=52) 7 41 2011(n=40) 6 35 2012 (n=27) 4 24 Vụ dưới 30 người 4 67 Vụ trên 30 người 2 33 Tổng số người mắc/tỉnh 310 Vụ tìm được nguyên nhân 5 83 Vụ không tìm được nguyên nhân 1 17 *: Tổng số người mắc trong 3 năm 2010 – 2012: 6521 người Trong 3 năm 2010 – 2012, có 119 vụ NĐTP đã được báo cáo ở 7 tỉnh, trung bình có 6 vụ/tỉnh/năm với tổng số người mắc trong 3 năm là 6521 người, trung bình có 310 người mắc/tỉnh/năm. Có 1/3 vụ có hơn 30 người mắc bệnh. 83% số vụ được báo cáo là tìm thấy nguyên nhân, trong đó nguyên nhân vi sinh, chiếm tỷ lệ khoảng 70%. Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và làm thế nào để nhân viên y tế áp dụng kiến thức vào thực tế khi xảy ra vụ NĐTP Hình 1: Điểm lượng giá theo các chủ đề Phần hiểu biết và kỹ năng mà các học viên còn nhớ nhiều như kiến thức đúng về độ nhạy và độ đặc hiệu của một chẩn đoán với 88,2%, định nghĩa vụ dịch với 82,4%, đặc tính của một vụ NĐTP có nguồn chung với 58,8%. Tuy nhiên các kiến thức mà các học viên quên nhiều nhất là 5.9 11.6 17.7 20.6 20.6 23.5 33.8 44 58.8 82.4 88.2 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Tính chi bình phương và giá trị ngưỡng Hiểu thông tin cần trong định nghĩa ca Mô tả các loại định nghĩa ca trong vụ dịch Điều kiện cần để đánh giá giả thuyết vụ Hiểu về cơ hội và giá trị thống kê Mô tả các bước điều tra dịch Tính OR, RR Hiểu về đường cong dịch tễ Đặc điểm của vụ ngộ độc thực phẩm Mô tả định nghĩa vụ dịch Hiểu độ nhạy, độ đặc hiệu của chẩn đoán BIỂU ĐỒ CHẤM ĐIỂM CÁC CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 150 kỹ năng tính toán thông kê trong dịch tễ (kiểm định khi bình phương (5,9%); định nghĩa ca bệnh và thông tin liên quan (11,6%); mô tả các loại định nghĩa ca bệnh (17,7%); hình thành giả thiết (20,6%). Bảng 3: Điểm trung bình lượng giá giá sau tập huấn so với trước đây Đặc điểm Điểm (/100 điểm) ĐTB * đầu vào 02 lớp tập huấn năm 2009 và 2010 26.8 Đánh giá ĐTB ra sau 02 lớp tập huấn 2009 và 2010 59.2 Kết quả ĐTBhiện nay (n=24) 40.0 Tham dự lớp tập huấn Có 40,0 Không 28,0 *: Điểm trung bình Kiến thức và kỹ năng về điều tra dịch đã giảm khoảng 19,2%. Điểm lượng giá trung bình các học viên là 40.0/100 điểm, năm 2012, trong khi đó, đánh giá đầu vào năm 2009 và 2010 là 26.8/100 và đầu ra cùng năm là 59.2/100 điểm (Bảng 3). Khi đánh giá sự khác biệt giữa nhân viên có tham dự lớp tập huấn và nhân viên không tham dự lớp tập huấn, nhân viên có tham dự tập huấn đạt 40/100 điểm, nhân viên không tham dự lớp tập huấn đạt 28/100 điểm. Mô tả môi trường và nguồn lực cần thiết cho điều tra NĐTP Từ năm 2010 trở đi, trách nhiệm điều tra NĐTP thuộc về CCVSATTP, cho nên trong nghiên cứu này chúng tôi mô tả chi tiết hơn nguồn lực và môi trường hiện nay cho điều tra NĐTP của chi cục. Mỗi chi cục có trung bình 2‐3 đội kiểm soát NĐTP, mỗi đội có 3‐5 người bao gồm: cán bộ kiểm soát ngộ độc, cán bộ lãnh đạo. Tùy tính chất của vụ dịch mà các thành viên khác có thể được mời tham gia như bác sỹ lâm sàng, thú ý, giáo dục và công an. Đội trưởng đội kiểm soát ngộ độc thường là cán bộ chuyên trách. Người phát ngôn trong vụ dịch là thuộc về Sở Y Tế. Có ban chỉ đạo trực tiếp của sở y tế khi vụ ngộ độc vượt quá quyền hạn của chi cục. Khi điều tra NĐTP, đội chuẩn bị một số dụng cụ lấy mẫu và lưu mẫu. CCVSATTP không có phòng xét nghiệm nên TTYTDP đảm nhận phần xét nghiệm. Năng lực của phòng xét nghiệm khác nhau tùy theo tỉnh: chủ yếu thực hiện được vi sinh, một số kim loại nặng, phần lớn chưa làm được độc chất. Nguồn lực sử dụng để điều tra dịch: cán bộ điều tra ngộ độc ở Chi cục, cán bộ hỗ trợ từ huyện và xã trong điều tra ca bệnh. Đôi khi phối hợp với thanh tra sở y tế. Tuy nhiên, cán bộ điều tra thường phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác của cơ quan. Các vụ NĐTP không điều tra theo 10 bước hướng dẫn trong điều tra vụ dịch, mà chủ yếu dựa trên Thông tư 39 của Bộ y tế, trong đó không định nghĩa ca bệnh, ca bệnh dựa vào chẩn đoán của bệnh viện, không hình thành giả thuyết, chỉ suy luận dựa trên xét nghiệm và tính toán các mối liên quan dựa trên khác biệt nguy cơ hơn nguy cơ tương đối hay tỉ số chênh. Tuy nhiên hầu hết các đơn vị nghiên cứu không thực hiện đo các mối liên quan. Chi cục phụ trách điều tra nguyên nhân, đề nghị các chỉ tiêu xét nghiệm.Khi không có ca mới thì làm báo cáo kết thúc.TTYTDP thường hỗ trợ với xét nghiệm. Kết luận nguyên nhân vụ dịch chủ yếu là dựa trên kết quả xét nghiệm, nếu xét nghiệm âm tính, thì báo cáo không rõ nguyên nhân. Các vụ dịch được báo cáo không tìm được nguyên nhân chủ yếu là do: không lấy được mẫu, bảo quản, lưu mẫu không đúng, kết quả xét nghiệm không phát hiện vi sinh vật gây bệnh hay vi khuẩn gây bệnh không vượt ngưỡng cho phép. Khó khăn trong quá trình điều tra dịch là phần lớn chỉ điều tra ca bệnh, ca chứng khó tiếp xúc vì phân bố rộng, khó liên lạc và khó khăn trong đi lại xác minh vì thiếu nhân lực và nhân lực kiêm nhiệm các công việc khác, đôi khi huy động nhân lực không đầy đủ vào cuối tuần và ngày lễ. Phát hiện thức ăn nguyên nhân chủ yếu bằng cách lấy mẫu và xét nghiệm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 151 Nhiều cán bộ VSATTP và dịch tễ chưa được đào tạo “chưa hề nghe về các bước điều tra NĐTP”: thiếu kinh nghiệm điều tra và kỹ năng thu thập, xử lý số liệu, không biết sử dụng phần mềm thống kê căn bản. Khó khăn trong lấy mẫu bệnh phẩm do bệnh viện không lấy và bệnh nhân không phối hợp. Vận dụng kiến thức khó khăn vì hạn chế trong hiểu biết các chuyên ngành liên quan vì thế khó khăn trong hình thành giả thuyết dịch tễ và tiến hành điều tra để thẩm định giả thuyết. Chính sách y tế chưa hỗ trợ như không có phụ cấp đặc thù ngành.Kinh phí để thực hiện điều tra NĐTP hạn chế. BÀN LUẬN Đánh giá kiến thức và kỹ năng mà người tham gia tập huấn còn lại sau khi được đào tạo tại khóa học về điều tra NĐTP Kiến thức và kỹ năng trong điều tra NĐTP sau 2 năm đánh giá giảm gần 1/5 so với sau tập huấn. Phần lớn kiến thức và kỹ năng giảm này liên quan đến các hiểu biết và tính toán các số đo thống kê trong điều traNĐTP, định nghĩa ca và hiểu biết về tính logic trong hình thành giả thuyết và kiểm định giả thuyết. Mặc dù điểm trung bình trả lời các câu hỏi sau hơn 2 năm thấp hơn so với ngay sau khóa tập huấn nhưng số học viên có tập huấn có điểm đạt là cao hơn so với nhóm không tập huấn (40/100 điểm so với 28/100 điểm). Hầu hết, các đơn vị tham gia nghiên cứu ghi nhận rằng ca bệnh của họ dựa trên chẩn đoán bệnh viện, không hình thành và kiểm định giả thuyết để xác định nguyên nhân và nguồn bệnh. Mối quan hệ giữa bệnh cảnh lâm sàng và tác nhân gây bệnh, nguồn lây thường lỏng lẻo và không được đánh giá thích hợp. Lý do không áp dụng kiến thức và kỹ năng vào trong thực tế vì học viên chỉ dựa vào các bước điều tra theo thông tư 39 mà có sự khác biệt đáng kể so với các bước hướng dẫn điều tra NĐTP của WHO và CDC. So với báo cáo NĐTP trước năm 2010, số vụ điều tra tìm nguyên nhân có nhiều hơn đáng kể, tuy nhiên các bằng chứng qui kết nguyên nhân thường thiếu thuyết phục vì chủ yếu duy nhất dựa trên kết quả xét nghiệm mà thiếu bằng chứng dịch tễ và lâm sàng đi cùng. Nguyên nhân vi sinh là thường báo cáo nhất vì tất cả các TTYTDP đều làm được các phát hiện vi khuẩn thường gặp như E.coli, Clostridium perfingen, Staphylococcus aureus, Bacillus cereus. Các nguyên nhân khác thường là nguyên nhân đã biết rõ chẳng hạn ngộ độc rượu do methanol, ngộ độc sam, cá nóc. Những vụ không tìm được nguyên nhân là do kết quả xét nghiệm không chỉ ra được tác nhân nào, tác nhân gây bệnh không vượt ngưỡng qui định hoặc do không lấy được mẫu xét nghệm. Vì không áp dụng thích hợp các bước trong điều tra tra dịch, một phần học viên chỉ dựa trên thông tư 39 của Bộ Y tế, mà phương pháp điều tra phức tạp, ít chú ý đến thiết kế nghiên cứu, tính logic và hiệu quả. Hơn nữa học viên gặp khó khăn trong kỹ năng tính toán các tỉ số nguy cơ, trong thiết kế điều tra, thu thập số liệu và xử lý số liệu. Đây có thể là kết quả thiếu nhân lực, kỹ năng cần thiết cho điều tra chưa hoàn thiện và ít thực hành. Các báo cáo điều tra mang tính hành chính hơn là một báo cáo khoa học và thiếu phản hồi ở cấp cao hơn vì thế chất lượng của các báo cáo chưa đáp ứng được nội dung như hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới. Đánh giá môi trường và nguồn lực cần thiết cho điều tra NĐTP Theo thông tư 39 của Bộ y tế, có sự phân biệt giữa định nghĩa NĐTP và dịch. CCVSATP có các đội thường trực kiểm soát NĐTP và TTYTDP có đội thường trực phòng chống dịch.Vì thế, trước năm 2010 việc điều tra NĐTP do TTYTDP tỉnh phụ trách, nhưng sau năm 2010 do Chi cục ATVSTP tỉnh thực hiện, TTYTDP tỉnh chỉ thực hiện xét nghiệm mẫu và hỗ trợ lấy mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra nhân sự trong điều tra NĐTP trong một tỉnh có thể đủ (khoảng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 152 17 người trực tiếp: 14 người ở TTYTDP và 4 người ở CCVSATTP), nhưng sự tách rời khái niệm dịch và NĐTP, đưa đến tách rời chức năng điều tra. Việc điều tra hầu như độc lập giữa 2 đơn vị, đưa đến thiếu nhân lực điều tra NĐTP ở CCVSATTP. CCVSATTP vừa mới thành lập, thiếu nhân sự và chuyên môn (4 người trong đó có 1‐2 cán bộ lãnh đạo), thiếu phương tiện lấy mẫu, bảo quản mẫu, lưu mẫu và chuyển mẫu. CCVSATTP chịu quản lý chuyên môn của Sở y tế, nhưng nhân sự phụ thuộc vào Sở nội vụ của tỉnh.Mặc dù, thiếu nhân sự trong kiểm soát NĐTP là nghiêm trọng, nhưng vấn đề này không được tỉnh giải quyết. Ở mỗi chi cục đều có khoảng 2 đến 3 đội điều tra NĐTP thường trực, mỗi đội gồm 3‐4 người, có đội chỉ có 1 người. Công việc chính của đội là ghi nhận ca bệnh từ bệnh viện, lấy mẫu, thanh tra vệ sinh cơ sở, lập biên bản và thông báo kết quả xét nghiệm. Hơn nữa khoảng 80% nhân sự đại học ở các chi cục là đào tạo chuyên môn ngoài ngành y tế, phần lớn chưa được bổ sung về kiến thức và kỹ năng trong điều tra dịch bao gồm: lâm sàng, dịch tễ, thu thập và xử lý số liệu làm cho cho họ khó có khả năng tiến hành điều tra một vụ NĐTP thích hợp. Rõ ràng đội điều tra NĐTP thiếu về số lượng và chất lượng. Mặc dù không có khó khăn nào được ghi nhận, trong phối hợp điều tra NĐTP giữa CCVSATTP và TTYTDP, nhưng trong các cuộc điều tra NĐTP chủ yếu là nhân viên CCVSATTP đảm nhiệm. Trong điều tra vụ dịch đòi hỏi một số lượng nhân viên cần có tối thiểu (4‐5 người) và có kiến thức và kỹ năng khác nhau, như lâm sàng, dịch tễ, thu thập số liệu, phân tích xử lý và giảng giải kết quả. Việc thiếu nhân viên có kỹ năng chắc chắn làm ảnh hưởng tuân thủ các bước và kết quả điều tra. Mặc dù điều tra NĐTP thường được tiến hành bởi các nhà dịch tễ, nhưng hoạt động này được phân loại như một hoạt động hành chính vì thế các chính sách cho quyền lợi đặc thù của nhân viên điều tra dịch không được áp dụng, làm giảm nhiệt tình nhân viên điều tra và gây khó khăn tuyển chọn nhân viên có năng lực. So với CCATVSTP, TTYTDP có nhân lực nhiều hơn, phương tiện và trang thiết bị đầy đủ hơn. Tuy nhiên, theo chức năng được Bộ Y tế phân công, TTYTDP có chức năng là điều tra dịch và CCVSATP điều tra NĐTP. Theo CDC và WHO một vụ NĐTP là một vụ dịch. Sự phân chia trên gây khó khăn trong việc xác định đâu là một vụ NĐTP gây ra bởi các vi khuẩn lây nhiễm qua đường thực phẩm chẳng hạn như viêm gan A, tả và thương hàn. Xác định nhu cầu đào tạo lại Kiến thức và kỹ năng trong điều tra NĐTP cũng là kiến thức và kỹ năng trong điều tra dịch đã giảm rất nhiều sau hai năm đào tạo cho cán bộ ở CCVSATP và TTYTDP. Điều đó chỉ ra nhu cầu đào tạo lại rất lớn, tuy nhiên cần có sự theo dõi hỗ trợ để các học viên có thể sử dụng kiến thức và kỹ năng đã học trong điều tra của họ. Số nhân lực hạn chế, số ca bệnh thường nhiều trong một vụ ngộ độc, và xử lý số liệu bằng tay nên các kỹ năng thiết kế, thu thập số liệu và xử lý số liệu bằng các phần mềm thống kê cần hoàn thiện để có thể giảm gánh nặng cho nhân viên điều tra. Thêm vào đó, trong CCVSATTP một số lớn các nhân viên không thuộc các chuyên ngành y tế, nên các hiểu biết lâm sàng, dịch tễ, cận lâm sàng, thống kê là một khoảng trống lớn; họ không được đào tạo thích hợp nhưng lại tham gia kiểm soát ngộ độc rõ ràng là một thách thức. Điều này đòi hỏi đội điều tra cần được đào tạo bổ sung các kỹ năng trên. Hầu hết các các học viên sau đánh giá chỉ ra nhu cầu được hướng dẫn thực tế trong điều tra và xử lý các vụ ngộ độc cụ thể, dựa trên nâng cao một số kỹ năng thực hành trong điều tra ngộ độc một hình thức như mô hình dịch tễ học thực địa.Đây là một giải pháp tốt. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính cho triệu tập và tính kịp thời để xác định nguyên nhân là một thách thức lớn. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 153 Cần làm rõ khái niệm một vụ NĐTP hay một vụ dịch về đường tiêu hóa. Cập nhật kiến thức hàng năm, đào tạo theo các chủ đề, đào tạo cho nhân viên ngoài nghành y về ATVSTP và điều tra dịch là cần thiết Cần trao đổi và học tập từ các vụ dịch đã điều tra giữa các tỉnh. Vì thế, nhu cầu đào tạo viết và trình bày một báo cáo ngộ độc hoàn chỉnh có thể giúp chia sẻ và phản hồi ý kiến chuyên gia có thể là một giải pháp cần xem xét. Đào tạo cho nhân lực VSATTP tuyến huyện về điều tra NĐTP để giúp họ tự điều tra các vụ ngộ độc dưới 30 người và hỗ trợ tuyến tỉnh trong các vụ ngộ độc lớn. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kiến thức và kỹ năng của cán bộ điều tra NĐTP là giảm nhiều sau 2 năm đánh giá, đặc biệt là kiến thức và kỹ năng liên quan đến các bước: định nghĩa ca bệnh, hình thành và kiểm định giả thuyết, trong đó tính toán các số đo dịch tễ chiếm một vai trò quan trọng. Thiếu nhân lực, nhu cầu đào tạo lại và đào tạo mới cho cán bộ của CCATTP là rất lớn để đáp ứng chức năng của họ. Nhu cầu đào tạo có thể mở rộng cho tuyến huyện. Nhu cầu hướng dẫn và trợ giúp điều tra ngộ độc trên thực địa là cần được triển khai. Các vụ điều tra NĐTP có thể chia sẻ và học hỏi từ các báo cáo khoa học ở các cuộc điều tra và phản hồi ở các chuyên gia sẽ giúp cho các kêt luận điều tra đáng tin cậy hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Khoa Dịch tễ Học (2011). Báo cáo các vụ bùng phát dịch có liên quan đến thực phẩm trong 6 tháng đầu năm 2011. Viện Vệ sinh Y tế công cộng Tp. Hồ Chí Minh. Tr 1‐12. 2. Viện Y tế công cộng Tp.HCM (2010). Thống kê các vụ bùng phát dịch có liên quan đến thực phẩm. Viện Y tế công cộng Tp. Hồ Chí Minh. Tr 1‐5. Ngày nhận bài báo: 19/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
- danh_gia_sau_dao_tao_cho_can_bo_y_te_cap_tinh_chiu_trach_nhi.pdf