Đánh giá sau đào tạo cho cán bộ y tế cấp tỉnh chịu trách nhiệm về điều tra các vụ ngộ độc thực phẩm

TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hiện nay vẫn còn một số lượng đáng kể các vụ NĐTP chưa được điều tra nguyên nhân. Do đó xác định nguyên nhân cũng như những rào cản của những vụ NĐTP không được điều tra là cần thiết để cải thiện các khóa đào tạo và xác định sự cần thiết của nhu cầu đào tạo cho nguồn lực điều tra NĐTP. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và nhu cầu đào tạo tập huấn về NĐTP Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, gồm định lượng và định tính, thực hiện tại 7 tỉnh phía nam trên những cán bộ của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh (TTYTDP) và Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh (CCATVSTP) đã tham gia tập huấn điều tra NĐTP và một số chưa tham gia tập huấn. Kết quả nghiên cứu: 88,2% học viên còn nhớ về độ nhạy và độ đặc hiệu của một chẩn đoán, định nghĩa vụ dịch với 82,4%, đặc tính của một vụ NĐTP có nguồn chung với 58,8%. Kiến học viên quên nhiều nhất là kỹ năng tính toán thông kê trong dịch tễ. Điểm trung bình về kiến thức và kỹ năng về điều tra dịch đã giảm 19,2% sau 2 năm tham gia tập huấn, tuy nhiên vẫn cao hơn điểm đầu vào khi tham gia tập huấn. Nhân viên có tham dự tập huấn có điểm đạt gấp 1,5 lần so với người không được tập huấn. Khó khăn chủ yếu trong điều tra nguyên nhân NĐTP do năng lực hình thành giả thuyết dịch tễ, thu thập và xử lý số liệu, thiếu nhân lực và cán bộ thiếu kinh nghiệm

pdf 7 trang yennguyen 3540
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá sau đào tạo cho cán bộ y tế cấp tỉnh chịu trách nhiệm về điều tra các vụ ngộ độc thực phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sau đào tạo cho cán bộ y tế cấp tỉnh chịu trách nhiệm về điều tra các vụ ngộ độc thực phẩm

Đánh giá sau đào tạo cho cán bộ y tế cấp tỉnh chịu trách nhiệm về điều tra các vụ ngộ độc thực phẩm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  147
ĐÁNH GIÁ SAU ĐÀO TẠO CHO CÁN BỘ Y TẾ CẤP TỈNH  
CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ ĐIỀU TRA CÁC VỤ NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM 
Đặng Văn Chính*, Hồ Hữu Tính* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hiện nay vẫn còn một số lượng đáng kể các vụ NĐTP chưa được điều tra nguyên nhân. Do đó 
xác định nguyên nhân cũng như những rào cản của những vụ NĐTP không được điều tra là cần thiết để cải 
thiện các khóa đào tạo và xác định sự cần thiết của nhu cầu đào tạo cho nguồn lực điều tra NĐTP. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và nhu cầu đào tạo tập huấn về NĐTP 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, gồm định lượng và định tính, thực hiện 
tại 7 tỉnh phía nam trên những cán bộ của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh (TTYTDP) và Chi cục an toàn vệ sinh 
thực phẩm tỉnh (CCATVSTP) đã tham gia tập huấn điều tra NĐTP và một số chưa tham gia tập huấn. 
Kết quả nghiên cứu: 88,2% học viên còn nhớ về độ nhạy và độ đặc hiệu của một chẩn đoán, định nghĩa vụ 
dịch với 82,4%, đặc tính của một vụ NĐTP có nguồn chung với 58,8%. Kiến học viên quên nhiều nhất là kỹ 
năng tính toán thông kê trong dịch tễ. Điểm trung bình về kiến thức và kỹ năng về điều tra dịch đã giảm 19,2% 
sau 2 năm tham gia tập huấn, tuy nhiên vẫn cao hơn điểm đầu vào khi tham gia tập huấn. Nhân viên có tham dự 
tập huấn có điểm đạt gấp 1,5 lần so với người không được tập huấn. Khó khăn chủ yếu trong điều tra nguyên 
nhân NĐTP do năng lực hình thành giả thuyết dịch tễ, thu thập và xử lý số liệu, thiếu nhân lực và cán bộ thiếu 
kinh nghiệm. 
Từ khóa: ngộ độc thực phẩm, điều tra vụ dịch 
ABSTRACT 
POST‐TRAINING EVALUATION FOR PROVINCIAL HEALTH STAFF RESPONSIBLE FOR FOOD‐
POISONING OUTBREAKS INVESTIGATION IN SOUTHERN VIET NAM 
Dang Van Chinh, Ho Huu Tinh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 148 – 154 
Backgound:There was  a  considerable number  of  foods – poisoning  outbreaks  (FPO) which were not 
investigated. Therefore,  the need  for understanding why FPOs was not  investigated,  identifying  the gaps 
and  difficulties  in  investigating  FPO was  important  because  it  helps  improve  FPO  training  and  helps 
decision‐makers to develop and implement strategies. 
Objectives:To evaluate the effectiveness of the training courses and determine the need fortraining. 
Methods:This evaluation was a cross‐sectional study including quality study and quantity study. The 
study subjects included trained and untrained staffs of Provincial Preventive Medicine Centers (PMC) and 
Food Safe Agencies (FSA) in 7 provinces in Southern Vietnam.  
Results:  In  all, 88,2%  staffs  still had  knowledge  of  test  sensitivity  and  specificity, 82,4 %  outbreak 
definition,  58,8 %  characteristics  of  FPO  onset. Most  staffs  couldn’t  remember  how  to  calculate  basic 
statistics.Two years after  training,  the mean  scores of knowledge and  skills  for FPO decreased by 19,2%. 
However, these mean scores were still higher than those in the pretest evaluation. The scores of trained staff 
*Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS. Đặng Văn Chính  ĐT: 0908414986    Email: dangvanchinh@ihph.org.vn 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 148 
were 1,5  times as high as  those of untrained staff.The difficulties of  food poisoning outbreak  investigation 
were due to  incompetence  in making hypothesis, conducting and analyzing data,andlack of experience and 
manpower.  
Keywords: food poisoning, outbreak investigation 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Các vụ NĐTP  luôn  là một gánh nặng bệnh 
tật đáng kể cho Việt Nam. Trong năm 2010, đã 
có  82  vụ NĐTP  xảy  ra  tại  20  tỉnh  thành  phía 
Nam(2). Hao tổn về kinh tế và con người do các 
vụ NĐTP gây  ra  rất  lớn. Tuy nhiên, việc ngăn 
ngừa  bệnh  và  tử  vong  do  NĐTP  vẫn  là một 
thách thức lớn cho y tế công cộng tại Việt Nam. 
Năm 2009 – 2010 được sự phối hợp của Tổ 
chức Y  tế Thế giới  (WHO), 4 khóa  tập huấn về 
điều  tra NĐTP  đã  được  VYTCC  Tp. HCM  tổ 
chức  cho  110  nhân  viên  của  CCATVSTP  và 
TTYTDP cấp tỉnh. Mục đích nhằm cung cấp kiến 
thức và kỹ năng cho cán bộ điều tra và giúp cho 
cán bộ quản lý chỉ đạo, phối hợp hiệu quả trong 
điều tra vụ dịch giữa các đơn vị có liên quan. 
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn có một số lượng 
đáng kể các vụ NĐTP chưa được điều tra. Riêng 
trong  6  tháng  đầu  năm  2011  đã  xảy  ra  26  vụ 
NĐTP, ảnh hưởng đến  tình  trạng sức khỏe của 
8.681 người, có 9/26 vụ NĐTP không được điều 
tra nguyên nhân(1). Đa số các vụ NĐTP xảy ra tại 
bếp ăn  tập  thể  trong các nhà máy,  trường mẫu 
giáo  và  tại  các  buổi  tiệc  nên  ảnh  hưởng  đến 
nhiều người. 
Vì vậy, nhu cầu tìm hiểu lý do tại sao các vụ 
NĐTP không được điều tra, xác định những rào 
cản và khó khăn trong việc điều tra NĐTP là rất 
quan trọng. Điều này rất cần thiết trong việc cải 
thiện các khóa đào tạo điều tra NĐTP, giúp các 
nhà  hoạch  định  chính  sách  phát  triển  và  thực 
hiện chiến lược để cải thiện vấn đề này. 
Mục tiêu chung 
Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo 
và  làm thế nào để nhân viên y tế áp dụng kiến 
thức vào thực tế khi xảy ra vụ NĐTP. 
Xác định sự cần thiết của nhu cầu đào tạo và 
nguồn lực cho điều tra NĐTP. 
Mục tiêu cụ thể 
Đánh  giá  kiến  thức  và  kỹ  năng mà  người 
tham gia tập huấn còn lại sau khi được đào tạo 
tại khóa học về điều tra NĐTP. 
Xác  định  điều  kiện  và  nguồn  lực  cần  thiết 
của CCATVSTP và TTYTDP cho quản lý các vụ 
NĐTP. 
Đánh giá sự cần  thiết của chương  trình  tập 
huấn điều tra vụ NĐTP. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang, bao gồm nghiên cứu 
định  lượng  để  đánh  giá  kiến  thức  và  kỹ năng 
trong  điều  tra vụ dịch NĐTP và xác  định nhu 
cầu đào  tạo. Nghiên cứu định  tính để xác định 
những  khó  khăn  và  thách  thức  trong  công  tác 
điều tra NĐTP. 
Đánh  giá  này  được  thực  hiện  tại  7  tỉnh: 
Thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Tây Ninh, 
Tiền Giang, Bến Tre, Long An và Đồng Nai‐  là 
những  tỉnh đã có nhiều vụ NĐTP xảy ra  trong 
năm 2010 – 2012. 
Đối  tượng  tham  gia  là  những  học  viên  đã 
tham  dự  lớp  tập  huấn  năm  2009  và  2010  còn 
công  tác  tại CCVSATTP và TTYTDP và một số 
nhân viên không tham gia lớp tập huấn. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm nhân sự của CCATVSTP và 
TTYTDP ở 6 tỉnh theo học vấn và ngành đào tạo 2012 
Đặc điểm FSA (n=112) PMC 
(n=524) 
Chung 
(n=636) 
TB % TB % TB %
Học vấn 
Trung sơ cấp 4 18,4 52 58,9 56 52,4
Đại học 13 70,0 26 29,8 39 36,3
Ngành y 3 20,0 13 51,3 16 41,1
Ngành khác 10 80,0 13 48,7 23 58,9
Sau đại học 2 11,6 10 11,3 12 11,3
Ngành y 2 100 9 94,9 11 95,8
Ngành khác 0 0,0 1 5,1 1 4,2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  149
Đặc điểm FSA (n=112) PMC 
(n=524) 
Chung 
(n=636) 
TB % TB % TB %
Tổng số 19 87 106 
Nhân viên điều 
tra 
4 23,2 13 15,0 17 16,5
* Không tính Thành phố Hồ Chí Minh vì TTYTDP có 172 
người và CCATVSTP có 148 người 
Không  tính  thành phố Hồ Chí Minh,  trung 
bình  ở  mỗi  tỉnh  có  106  người  làm  việc  ở 
CCVSATTP  và  TTYTDP,  trong  đó  TTYTDP 
chiếm hơn  80%  (87/106)  (Bảng  1). Hơn  1/10  số 
nhân viên  có  trình  độ  sau  đại học, gần 4/10  có 
trình độ đại học và còn lại hơn 1/2 nhân viên có 
trình độ trung và sơ cấp.Trong nhóm có trình độ 
đại học, hơn 4/10  là số nhân viên được đào  tạo 
trong ngành y và gần  6/10  là  được  đào  tạo  từ 
chuyên  ngành  khác  như  hóa,  hóa  thực  phẩm, 
sinh  học,  công  nghệ  sinh  học  và  thực  phẩm. 
Trong nhóm trình độ sau đại học hơn 9/10 là số 
nhân viên được đào tạo trong ngành y. 
Số trung bình nhân viên liên quan đến điều 
tra  NĐTP  ở  mỗi  tỉnh  có  17  người  trong  đó 
TTYTDP 13 người và CCVSATP  là 4 người. Số 
nhân  viên  này  chược  chia  thành  2‐3  đội  kiểm 
soát  dịch  bệnh.  Mỗi  đội  có  5‐6  người  cho 
TTYTDP và 2‐3 người cho CCVSATTP. 
Nhân  viên  phụ  trách  điều  tra  dịch  của 
TTYTDP  Tp.HCM  là  32  (18,6%)  người. 
CCATVSTP Tp.HCM có 148 nhân viên và có 10 
(6,8%) nhân viên phụ trách điều tra ngộ độc. 
Bảng 2: Các vụ NĐTP được báo cáo ở 7 tỉnh năm 
2010‐2012 (n=119) 
Đặc điểm TB vụ /năm Phần 
trăm 
Năm 
2010 (n=52) 7 41
2011(n=40) 6 35
2012 (n=27) 4 24
Vụ dưới 30 người 4 67
Vụ trên 30 người 2 33
Tổng số người mắc/tỉnh 310 
Vụ tìm được nguyên nhân 5 83
Vụ không tìm được nguyên nhân 1 17
*: Tổng số người mắc trong 3 năm 2010 – 2012: 6521 người 
Trong 3 năm 2010 – 2012, có 119 vụ NĐTP đã 
được  báo  cáo  ở  7  tỉnh,  trung  bình  có  6 
vụ/tỉnh/năm với tổng số người mắc trong 3 năm 
là  6521  người,  trung  bình  có  310  người 
mắc/tỉnh/năm. Có 1/3 vụ  có hơn 30 người mắc 
bệnh.  83%  số  vụ  được  báo  cáo  là  tìm  thấy 
nguyên  nhân,  trong  đó  nguyên  nhân  vi  sinh, 
chiếm tỷ lệ khoảng 70%.  
Đánh giá hiệu quả của chương trình đào tạo và làm thế nào để nhân viên y tế áp dụng kiến thức 
vào thực tế khi xảy ra vụ NĐTP 
Hình 1: Điểm lượng giá theo các chủ đề 
Phần hiểu biết và kỹ năng mà các học viên 
còn nhớ nhiều như kiến  thức đúng về độ nhạy 
và  độ  đặc  hiệu  của một  chẩn  đoán  với  88,2%, 
định nghĩa vụ dịch với 82,4%, đặc tính của một 
vụ NĐTP có nguồn chung với 58,8%. Tuy nhiên 
các kiến thức mà các học viên quên nhiều nhất là 
5.9
11.6
17.7
20.6
20.6
23.5
33.8
44
58.8
82.4
88.2
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Tính chi bình phương và giá trị ngưỡng
Hiểu thông tin cần trong định nghĩa ca 
Mô tả các loại định nghĩa ca trong vụ dịch
Điều kiện cần để đánh giá giả thuyết vụ 
Hiểu về cơ hội và giá trị thống kê
Mô tả các bước điều tra dịch
Tính OR, RR
Hiểu về đường cong dịch tễ
Đặc điểm của vụ ngộ độc thực phẩm 
Mô tả định nghĩa vụ dịch 
Hiểu độ nhạy, độ đặc hiệu của chẩn đoán
BIỂU ĐỒ CHẤM ĐIỂM CÁC CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 150 
kỹ năng  tính  toán  thông kê  trong dịch  tễ  (kiểm 
định  khi  bình  phương  (5,9%);  định  nghĩa  ca 
bệnh và  thông  tin  liên quan  (11,6%); mô  tả  các 
loại định nghĩa ca bệnh (17,7%); hình thành giả 
thiết (20,6%). 
Bảng 3: Điểm trung bình lượng giá giá sau tập huấn 
so với trước đây 
Đặc điểm Điểm (/100 điểm)
ĐTB * đầu vào 02 lớp tập huấn năm 
2009 và 2010 
26.8
Đánh giá ĐTB ra sau 02 lớp tập huấn 
2009 và 2010 
59.2
Kết quả ĐTBhiện nay (n=24) 40.0
Tham dự lớp tập huấn 
 Có 40,0
 Không 28,0
*: Điểm trung bình 
Kiến  thức  và  kỹ  năng  về  điều  tra  dịch  đã 
giảm khoảng 19,2%. Điểm lượng giá trung bình 
các học viên  là  40.0/100  điểm, năm 2012,  trong 
khi  đó,  đánh giá  đầu vào năm 2009 và 2010  là 
26.8/100  và  đầu  ra  cùng  năm  là  59.2/100  điểm 
(Bảng 3). Khi  đánh giá  sự khác biệt giữa nhân 
viên  có  tham  dự  lớp  tập  huấn  và  nhân  viên 
không tham dự lớp tập huấn, nhân viên có tham 
dự  tập huấn đạt 40/100 điểm, nhân viên không 
tham dự lớp tập huấn đạt 28/100 điểm. 
Mô tả môi trường và nguồn lực cần thiết cho 
điều tra NĐTP 
Từ  năm  2010  trở  đi,  trách  nhiệm  điều  tra 
NĐTP  thuộc  về  CCVSATTP,  cho  nên  trong 
nghiên  cứu  này  chúng  tôi mô  tả  chi  tiết  hơn 
nguồn  lực và môi trường hiện nay cho điều tra 
NĐTP của chi cục. Mỗi chi cục có trung bình 2‐3 
đội kiểm soát NĐTP, mỗi đội có 3‐5 người bao 
gồm: cán bộ kiểm soát ngộ độc, cán bộ lãnh đạo. 
Tùy  tính  chất  của  vụ  dịch mà  các  thành  viên 
khác có thể được mời tham gia như bác sỹ  lâm 
sàng, thú ý, giáo dục và công an. Đội trưởng đội 
kiểm  soát  ngộ  độc  thường  là  cán  bộ  chuyên 
trách. Người phát ngôn  trong vụ dịch  là  thuộc 
về Sở Y Tế. Có ban chỉ đạo trực tiếp của sở y tế 
khi vụ ngộ độc vượt quá quyền hạn của chi cục. 
Khi điều tra NĐTP, đội chuẩn bị một số dụng cụ 
lấy mẫu và lưu mẫu. 
CCVSATTP không có phòng xét nghiệm nên 
TTYTDP đảm nhận phần xét nghiệm. Năng lực 
của phòng xét nghiệm khác nhau tùy theo tỉnh: 
chủ yếu thực hiện được vi sinh, một số kim loại 
nặng, phần lớn chưa làm được độc chất. 
Nguồn lực sử dụng để điều tra dịch: cán bộ 
điều  tra  ngộ  độc  ở Chi  cục,  cán  bộ  hỗ  trợ  từ 
huyện và xã trong điều tra ca bệnh. Đôi khi phối 
hợp với thanh tra sở y tế. Tuy nhiên, cán bộ điều 
tra  thường  phải  kiêm  nhiệm  nhiều  công  việc 
khác của cơ quan. 
Các vụ NĐTP không điều  tra  theo 10 bước 
hướng dẫn  trong điều  tra vụ dịch, mà chủ yếu 
dựa  trên  Thông  tư  39  của  Bộ  y  tế,  trong  đó 
không định nghĩa ca bệnh, ca bệnh dựa vào chẩn 
đoán  của  bệnh  viện,  không  hình  thành  giả 
thuyết, chỉ suy luận dựa trên xét nghiệm và tính 
toán các mối  liên quan dựa trên khác biệt nguy 
cơ hơn nguy cơ tương đối hay tỉ số chênh. Tuy 
nhiên hầu hết các đơn vị nghiên cứu không thực 
hiện  đo  các mối  liên  quan. Chi  cục  phụ  trách 
điều  tra nguyên nhân,  đề nghị  các  chỉ  tiêu  xét 
nghiệm.Khi không có ca mới thì làm báo cáo kết 
thúc.TTYTDP thường hỗ trợ với xét nghiệm. 
Kết  luận  nguyên  nhân  vụ  dịch  chủ  yếu  là 
dựa trên kết quả xét nghiệm, nếu xét nghiệm âm 
tính, thì báo cáo không rõ nguyên nhân. Các vụ 
dịch được báo cáo không tìm được nguyên nhân 
chủ yếu  là do: không  lấy được mẫu, bảo quản, 
lưu mẫu không đúng, kết quả xét nghiệm không 
phát hiện vi sinh vật gây bệnh hay vi khuẩn gây 
bệnh không vượt ngưỡng cho phép. 
Khó  khăn  trong  quá  trình  điều  tra  dịch  là 
phần lớn chỉ điều tra ca bệnh, ca chứng khó tiếp 
xúc vì phân bố  rộng, khó  liên  lạc và khó khăn 
trong đi lại xác minh vì thiếu nhân lực và nhân 
lực kiêm nhiệm các công việc khác, đôi khi huy 
động nhân  lực không đầy đủ vào cuối  tuần và 
ngày lễ. Phát hiện thức ăn nguyên nhân chủ yếu 
bằng cách lấy mẫu và xét nghiệm. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  151
Nhiều cán bộ VSATTP và dịch tễ chưa được 
đào  tạo  “chưa  hề  nghe  về  các  bước  điều  tra 
NĐTP”: thiếu kinh nghiệm điều tra và kỹ năng 
thu thập, xử lý số liệu, không biết sử dụng phần 
mềm thống kê căn bản. Khó khăn trong lấy mẫu 
bệnh  phẩm  do  bệnh  viện  không  lấy  và  bệnh 
nhân không phối hợp. 
Vận  dụng  kiến  thức  khó  khăn  vì  hạn  chế 
trong hiểu  biết  các  chuyên ngành  liên  quan  vì 
thế khó khăn trong hình thành giả thuyết dịch tễ 
và tiến hành điều tra để thẩm định giả thuyết. 
Chính  sách y  tế  chưa hỗ  trợ như không  có 
phụ  cấp  đặc  thù ngành.Kinh phí  để  thực hiện 
điều tra NĐTP hạn chế. 
BÀN LUẬN 
Đánh  giá  kiến  thức  và  kỹ  năng mà  người 
tham gia  tập huấn còn  lại sau khi được đào 
tạo tại khóa học về điều tra NĐTP 
Kiến  thức và kỹ năng  trong điều  tra NĐTP 
sau 2 năm đánh giá giảm gần 1/5 so với sau tập 
huấn. Phần  lớn kiến thức và kỹ năng giảm này 
liên quan đến các hiểu biết và tính toán các số đo 
thống kê trong điều traNĐTP, định nghĩa ca và 
hiểu  biết  về  tính  logic  trong  hình  thành  giả 
thuyết và kiểm định giả thuyết.  
Mặc dù điểm  trung bình  trả  lời các câu hỏi 
sau hơn 2 năm  thấp hơn so với ngay sau khóa 
tập huấn nhưng số học viên có tập huấn có điểm 
đạt  là  cao  hơn  so  với  nhóm  không  tập  huấn 
(40/100 điểm so với 28/100 điểm). 
Hầu hết, các đơn vị tham gia nghiên cứu ghi 
nhận  rằng  ca bệnh  của họ dựa  trên  chẩn  đoán 
bệnh viện, không hình  thành và kiểm  định giả 
thuyết để xác định nguyên nhân và nguồn bệnh. 
Mối  quan  hệ  giữa  bệnh  cảnh  lâm  sàng  và  tác 
nhân  gây  bệnh,  nguồn  lây  thường  lỏng  lẻo  và 
không được đánh giá thích hợp. Lý do không áp 
dụng kiến thức và kỹ năng vào trong thực tế vì 
học  viên  chỉ  dựa  vào  các  bước  điều  tra  theo 
thông  tư 39 mà có sự khác biệt đáng kể so với 
các bước hướng dẫn  điều  tra NĐTP của WHO 
và CDC. 
So với báo cáo NĐTP trước năm 2010, số vụ 
điều tra tìm nguyên nhân có nhiều hơn đáng kể, 
tuy nhiên các bằng chứng qui kết nguyên nhân 
thường  thiếu  thuyết phục vì chủ yếu duy nhất 
dựa  trên  kết  quả  xét  nghiệm  mà  thiếu  bằng 
chứng  dịch  tễ  và  lâm  sàng  đi  cùng.  Nguyên 
nhân vi sinh là thường báo cáo nhất vì tất cả các 
TTYTDP đều  làm được các phát hiện vi khuẩn 
thường  gặp  như  E.coli,  Clostridium  perfingen, 
Staphylococcus aureus, Bacillus cereus. Các nguyên 
nhân  khác  thường  là  nguyên  nhân  đã  biết  rõ 
chẳng hạn ngộ độc rượu do methanol, ngộ độc 
sam, cá nóc. Những vụ không tìm được nguyên 
nhân là do kết quả xét nghiệm không chỉ ra được 
tác  nhân  nào,  tác  nhân  gây  bệnh  không  vượt 
ngưỡng qui định hoặc do không  lấy được mẫu 
xét nghệm. 
Vì không áp dụng thích hợp các bước trong 
điều tra tra dịch, một phần học viên chỉ dựa trên 
thông tư 39 của Bộ Y tế, mà phương pháp điều 
tra phức  tạp,  ít  chú ý  đến  thiết kế nghiên  cứu, 
tính  logic  và hiệu  quả. Hơn  nữa học  viên  gặp 
khó khăn trong kỹ năng tính toán các tỉ số nguy 
cơ, trong thiết kế điều tra, thu thập số liệu và xử 
lý số liệu. Đây có thể là kết quả thiếu nhân lực, 
kỹ năng cần  thiết cho điều  tra chưa hoàn  thiện 
và ít thực hành. Các báo cáo điều tra mang tính 
hành chính hơn là một báo cáo khoa học và thiếu 
phản hồi ở cấp cao hơn vì thế chất lượng của các 
báo  cáo  chưa  đáp  ứng  được  nội  dung  như 
hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới. 
Đánh giá môi trường và nguồn lực cần thiết 
cho điều tra NĐTP 
Theo thông tư 39 của Bộ y tế, có sự phân biệt 
giữa định nghĩa NĐTP và dịch. CCVSATP có các 
đội thường trực kiểm soát NĐTP và TTYTDP có 
đội thường trực phòng chống dịch.Vì thế, trước 
năm 2010 việc điều  tra NĐTP do TTYTDP  tỉnh 
phụ  trách,  nhưng  sau  năm  2010  do  Chi  cục 
ATVSTP  tỉnh  thực hiện, TTYTDP  tỉnh  chỉ  thực 
hiện xét nghiệm mẫu và hỗ trợ lấy mẫu.  
Kết  quả  nghiên  cứu  chỉ  ra  nhân  sự  trong 
điều tra NĐTP trong một tỉnh có thể đủ (khoảng 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 152 
17  người  trực  tiếp:  14  người  ở  TTYTDP  và  4 
người  ở  CCVSATTP),  nhưng  sự  tách  rời  khái 
niệm dịch và NĐTP, đưa đến tách rời chức năng 
điều  tra. Việc  điều  tra hầu như độc  lập giữa 2 
đơn vị, đưa đến thiếu nhân lực điều tra NĐTP ở 
CCVSATTP.  
CCVSATTP vừa mới  thành  lập,  thiếu nhân 
sự và chuyên môn (4 người trong đó có 1‐2 cán 
bộ  lãnh  đạo),  thiếu  phương  tiện  lấy mẫu,  bảo 
quản mẫu, lưu mẫu và chuyển mẫu. CCVSATTP 
chịu  quản  lý  chuyên môn  của  Sở  y  tế,  nhưng 
nhân sự phụ  thuộc vào Sở nội vụ của  tỉnh.Mặc 
dù,  thiếu  nhân  sự  trong  kiểm  soát  NĐTP  là 
nghiêm  trọng,  nhưng  vấn  đề  này  không  được 
tỉnh giải quyết. 
Ở mỗi  chi  cục  đều  có  khoảng  2  đến  3  đội 
điều  tra NĐTP  thường  trực, mỗi  đội  gồm  3‐4 
người, có đội chỉ có 1 người. Công việc chính của 
đội  là ghi nhận ca bệnh  từ bệnh viện,  lấy mẫu, 
thanh  tra vệ  sinh  cơ  sở,  lập biên bản và  thông 
báo kết quả xét nghiệm. Hơn nữa khoảng 80% 
nhân sự đại học ở các chi cục là đào tạo chuyên 
môn ngoài ngành y  tế, phần  lớn chưa được bổ 
sung về kiến thức và kỹ năng trong điều tra dịch 
bao gồm: lâm sàng, dịch tễ, thu thập và xử lý số 
liệu  làm cho cho họ khó có khả năng tiến hành 
điều  tra một vụ NĐTP  thích hợp. Rõ  ràng  đội 
điều tra NĐTP thiếu về số lượng và chất lượng. 
Mặc  dù  không  có  khó  khăn  nào  được  ghi 
nhận,  trong  phối  hợp  điều  tra  NĐTP  giữa 
CCVSATTP và TTYTDP, nhưng  trong các cuộc 
điều tra NĐTP chủ yếu là nhân viên CCVSATTP 
đảm nhiệm. Trong điều tra vụ dịch đòi hỏi một 
số  lượng nhân viên cần có  tối  thiểu (4‐5 người) 
và có kiến thức và kỹ năng khác nhau, như lâm 
sàng, dịch tễ, thu thập số liệu, phân tích xử lý và 
giảng giải kết quả. Việc  thiếu nhân viên  có kỹ 
năng  chắc  chắn  làm  ảnh  hưởng  tuân  thủ  các 
bước và kết quả điều tra. 
Mặc  dù  điều  tra NĐTP  thường  được  tiến 
hành bởi các nhà dịch tễ, nhưng hoạt động này 
được phân  loại như một hoạt động hành chính 
vì thế các chính sách cho quyền  lợi đặc thù của 
nhân  viên  điều  tra dịch  không  được  áp dụng, 
làm giảm nhiệt  tình nhân viên  điều  tra và gây 
khó khăn tuyển chọn nhân viên có năng lực. 
So  với  CCATVSTP,  TTYTDP  có  nhân  lực 
nhiều hơn, phương tiện và trang thiết bị đầy đủ 
hơn. Tuy nhiên,  theo  chức năng  được Bộ Y  tế 
phân  công,  TTYTDP  có  chức  năng  là  điều  tra 
dịch và CCVSATP điều tra NĐTP. Theo CDC và 
WHO một vụ NĐTP  là một vụ dịch.  Sự phân 
chia trên gây khó khăn trong việc xác định đâu 
là một  vụ NĐTP  gây  ra  bởi  các  vi  khuẩn  lây 
nhiễm  qua  đường  thực  phẩm  chẳng  hạn  như 
viêm gan A, tả và thương hàn. 
Xác định nhu cầu đào tạo lại 
Kiến  thức và kỹ năng  trong điều  tra NĐTP 
cũng là kiến thức và kỹ năng trong điều tra dịch 
đã giảm rất nhiều sau hai năm đào tạo cho cán 
bộ ở CCVSATP và TTYTDP. Điều đó chỉ ra nhu 
cầu đào tạo lại rất lớn, tuy nhiên cần có sự theo 
dõi hỗ  trợ để các học viên có  thể sử dụng kiến 
thức và kỹ năng đã học trong điều tra của họ.  
Số  nhân  lực  hạn  chế,  số  ca  bệnh  thường 
nhiều  trong một  vụ  ngộ  độc,  và  xử  lý  số  liệu 
bằng  tay nên các kỹ năng  thiết kế,  thu  thập số 
liệu và xử  lý số  liệu bằng các phần mềm  thống 
kê cần hoàn thiện để có thể giảm gánh nặng cho 
nhân viên điều tra. 
Thêm vào đó, trong CCVSATTP một số  lớn 
các nhân viên không thuộc các chuyên ngành y 
tế, nên các hiểu biết  lâm sàng, dịch  tễ, cận  lâm 
sàng,  thống  kê  là  một  khoảng  trống  lớn;  họ 
không  được  đào  tạo  thích hợp nhưng  lại  tham 
gia kiểm soát ngộ độc rõ ràng là một thách thức. 
Điều này đòi hỏi đội điều tra cần được đào tạo 
bổ sung các kỹ năng trên. 
Hầu hết các các học viên sau đánh giá chỉ ra 
nhu cầu được hướng dẫn thực tế trong điều tra 
và xử  lý các vụ ngộ độc cụ  thể, dựa  trên nâng 
cao một số kỹ năng thực hành trong điều tra ngộ 
độc một hình thức như mô hình dịch tễ học thực 
địa.Đây  là một giải pháp tốt. Tuy nhiên, nguồn 
lực tài chính cho triệu tập và tính kịp thời để xác 
định nguyên nhân là một thách thức lớn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  153
Cần làm rõ khái niệm một vụ NĐTP hay một 
vụ dịch về đường tiêu hóa. Cập nhật kiến  thức 
hàng năm, đào tạo theo các chủ đề, đào tạo cho 
nhân viên ngoài nghành y về ATVSTP và điều 
tra dịch là cần thiết 
Cần  trao  đổi  và học  tập  từ  các  vụ dịch  đã 
điều  tra giữa  các  tỉnh. Vì  thế, nhu  cầu  đào  tạo 
viết  và  trình  bày một  báo  cáo  ngộ  độc  hoàn 
chỉnh  có  thể  giúp  chia  sẻ  và  phản  hồi  ý  kiến 
chuyên gia có thể là một giải pháp cần xem xét. 
Đào tạo cho nhân lực VSATTP tuyến huyện 
về điều tra NĐTP để giúp họ tự điều tra các vụ 
ngộ  độc  dưới  30  người  và  hỗ  trợ  tuyến  tỉnh 
trong các vụ ngộ độc lớn. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Kiến  thức  và  kỹ  năng  của  cán  bộ  điều  tra 
NĐTP  là giảm nhiều  sau  2 năm  đánh giá,  đặc 
biệt  là kiến  thức và kỹ năng  liên quan  đến  các 
bước:  định nghĩa  ca bệnh, hình  thành và kiểm 
định giả thuyết, trong đó tính toán các số đo dịch 
tễ chiếm một vai trò quan trọng. 
Thiếu nhân  lực, nhu cầu đào  tạo  lại và đào 
tạo mới  cho  cán bộ  của CCATTP  là  rất  lớn  để 
đáp ứng chức năng của họ. Nhu cầu đào tạo có 
thể mở rộng cho tuyến huyện. 
Nhu cầu hướng dẫn và trợ giúp điều tra ngộ 
độc trên thực địa là cần được triển khai. 
Các vụ điều tra NĐTP có thể chia sẻ và học 
hỏi từ các báo cáo khoa học ở các cuộc điều tra 
và phản hồi ở các chuyên gia sẽ giúp cho các kêt 
luận điều tra đáng tin cậy hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Khoa Dịch  tễ Học  (2011). Báo cáo các vụ bùng phát dịch có 
liên quan đến thực phẩm trong 6 tháng đầu năm 2011. Viện 
Vệ sinh Y tế công cộng Tp. Hồ Chí Minh. Tr 1‐12. 
2. Viện Y tế công cộng Tp.HCM (2010). Thống kê các vụ bùng 
phát dịch có liên quan đến thực phẩm. Viện Y tế công cộng 
Tp. Hồ Chí Minh. Tr 1‐5. 
Ngày nhận bài báo:       19/5/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   23/6/2014 
Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_sau_dao_tao_cho_can_bo_y_te_cap_tinh_chiu_trach_nhi.pdf