Đánh giá xơ hóa gan nặng bằng phối hợp kỹ thuật ARFI với thang điểm xơ hóa NAFLD trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu

TÓM TẮT

Mục tiêu: đánh giá hiệu quả chẩn đoán của kỹ thuật ARFI, điểm số xơ hóa NAFLD và sự kết

hợp của các phương pháp này đối với xơ hoá gan nặng trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ

không do rượu. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu trên 117 bệnh nhân bị viêm gan nhiễm

mỡ không do rượu. Tất cả bệnh nhân đều được sinh thiết gan và đánh giá xơ hóa gan bao gồm

điểm xơ hóa NAFLD và kỹ thuật ARFI. Đánh giá giá trị chẩn đoán của kỹ thuật ARFI và điểm số

xơ hóa NAFLD bằng đường cong ROC để phát hiện xơ hóa nặng. Kết quả: để xác định xơ hóa

nặng, với giá trị > 0,676, điểm số xơ hóa NAFLD có độ nhạy 52,7%, độ đặc hiệu 97,5%, giá trị

dự báo dương tính 82,0%, giá trị dự báo âm tính 88,7% và AUROC của 0,81 (khoảng tin cậy

95%: 0,55 - 0,89). Để loại trừ xơ hóa nặng, với giá trị < -1,455,="" điểm="" số="" xơ="" hóa="" nafld="" có="">

nhạy 98,8%, độ đặc hiệu 80,2%, giá trị dự báo dương tính 55,8%, giá trị dự báo âm tính 98,4%

và AUROC của 0,90 (khoảng tin cậy 95%: 0,72 - 0,95). Kỹ thuật ARFI có độ nhạy 78,5%, độ

đặc hiệu 92,5%, giá trị dự báo dương tính 83,2% và giá trị dự báo âm tính 94,2% với giá trị

điểm cắt là 1,45 và AUROC 0,92 (khoảng tin cậy 95%: 0,76 - 0,98) để chẩn đoán xơ hóa nặng.

Kết hợp của ARFI và điểm số xơ hóa NAFLD với giá trị > 0,676 làm tăng độ đặc hiệu và giá trị

dự báo dương tính lên 100%. Kết hợp của ARFI và điểm số xơ hóa NAFLD với giá trị <>

làm tăng độ nhạy và giá trị dự báo âm tính lên 100%. Kết luận: phối hợp kỹ thuật ARFI và điểm

số xơ hóa NAFLD rất có giá trị để xác định và loại trừ xơ hóa nặng tốt hơn so với kỹ thuật ARFI

và điểm số xơ hóa NAFLD đơn thuần

pdf 9 trang yennguyen 3320
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá xơ hóa gan nặng bằng phối hợp kỹ thuật ARFI với thang điểm xơ hóa NAFLD trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá xơ hóa gan nặng bằng phối hợp kỹ thuật ARFI với thang điểm xơ hóa NAFLD trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu

Đánh giá xơ hóa gan nặng bằng phối hợp kỹ thuật ARFI với thang điểm xơ hóa NAFLD trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 12 
ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN NẶNG BẰNG PHỐI HỢP KỸ THUẬT ARFI 
VỚI THANG ĐIỂM XƠ HÓA NAFLD TRÊN 
BỆNH NHÂN VIÊM GAN NHIỄM MỠ KHÔNG DO RƯỢU 
 Trần Thị Khánh Tường1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả chẩn đoán của kỹ thuật ARFI, điểm số xơ hóa NAFLD và sự kết 
hợp của các phương pháp này đối với xơ hoá gan nặng trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ 
không do rượu. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu trên 117 bệnh nhân bị viêm gan nhiễm 
mỡ không do rượu. Tất cả bệnh nhân đều được sinh thiết gan và đánh giá xơ hóa gan bao gồm 
điểm xơ hóa NAFLD và kỹ thuật ARFI. Đánh giá giá trị chẩn đoán của kỹ thuật ARFI và điểm số 
xơ hóa NAFLD bằng đường cong ROC để phát hiện xơ hóa nặng. Kết quả: để xác định xơ hóa 
nặng, với giá trị > 0,676, điểm số xơ hóa NAFLD có độ nhạy 52,7%, độ đặc hiệu 97,5%, giá trị 
dự báo dương tính 82,0%, giá trị dự báo âm tính 88,7% và AUROC của 0,81 (khoảng tin cậy 
95%: 0,55 - 0,89). Để loại trừ xơ hóa nặng, với giá trị < -1,455, điểm số xơ hóa NAFLD có độ 
nhạy 98,8%, độ đặc hiệu 80,2%, giá trị dự báo dương tính 55,8%, giá trị dự báo âm tính 98,4% 
và AUROC của 0,90 (khoảng tin cậy 95%: 0,72 - 0,95). Kỹ thuật ARFI có độ nhạy 78,5%, độ 
đặc hiệu 92,5%, giá trị dự báo dương tính 83,2% và giá trị dự báo âm tính 94,2% với giá trị 
điểm cắt là 1,45 và AUROC 0,92 (khoảng tin cậy 95%: 0,76 - 0,98) để chẩn đoán xơ hóa nặng. 
Kết hợp của ARFI và điểm số xơ hóa NAFLD với giá trị > 0,676 làm tăng độ đặc hiệu và giá trị 
dự báo dương tính lên 100%. Kết hợp của ARFI và điểm số xơ hóa NAFLD với giá trị < -1,455 
làm tăng độ nhạy và giá trị dự báo âm tính lên 100%. Kết luận: phối hợp kỹ thuật ARFI và điểm 
số xơ hóa NAFLD rất có giá trị để xác định và loại trừ xơ hóa nặng tốt hơn so với kỹ thuật ARFI 
và điểm số xơ hóa NAFLD đơn thuần. 
* Từ khóa: Xơ hóa gan; Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu; Viêm gan nhiễm mỡ không do 
rượu; Kỹ thuật ARFI; Thang điểm xơ hóa. 
Evaluate Advanced Liver Fibrosis by Combination of ARFI Technique 
and NAFLD Fibrosis Score in Patients with Nonalcoholic Steatohepatitis 
Summary 
Objectives: To evaluate the diagnostic efficacy of ARFI technique, NAFLD fibrosis score (NFS) 
and their combination for advanced liver fibrosis in patients with nonalcoholic steatohepatitis. 
Patients and methods: The study was carried out on 117 patients with nonalcoholic steatohepatitis. 
All of patients underwent a liver biopsy, NFS and ARFI technique. The diagnostic performance 
of ARFI and NFS was assessed using ROC curves that were built for the detection of advanced 
fibrosis. Results: For the identification of advanced fibrosis, with the value greater than 0.676, 
1. Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Người phản hồi (Corresponding): Trần Thị Khánh Tường (drkhanhtuong@gmail.com) 
Ngày nhận bài: 10/12/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/01/2019 
 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2019. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 13 
NFS had sensitivity of 52.7%, specificity of 97.5%, positive predictive value of 82.0%, negative 
predictive value of 88.7%, and AUROC of 0.81 (95%CI: 0.55 - 0.89). For the exclusion of 
advanced fibrosis, with the value smaller than -1.455, NFS had sensitivity of 98.8%, specificity 
of 80.2%, positive predictive value of 55.8%, negative predictive value of 98.4%, AUROC of 0.90 
(95%CI: 0.72 - 0.95). For advanced fibrosis, ARFI had the sensitivity of 78.5%, specificity of 
92.5%, positive predictive value of 83.2% and negative predictive value of 94.2% with the cut-off 
value of 1.45 and AUROC of 0.92 (95%CI: 0.76 - 0.98). The combination of ARFI and NFS with 
a value > 0.676 increased the specificity and positive predictive value to 100%. The combination 
of ARFI and NFS with a value < -1.455 increased sensitivity and positive predictive value to 100%. 
Conclusions: The combination of ARFI and NFS was more valuable to determine and exclude 
advanced fibrosis than ARFI technique and NFS alone. 
* Keywords: Liver fibrosis; Nonalcoholic fatty liver disease; Nonalcoholic steatohepatitis; 
Acoustic radiation force impulse imaging; NAFLD fibrosis score. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, bệnh gan nhiễm mỡ không 
do rượu là nguyên nhân phổ biến nhất 
gây bệnh gan mạn, không chỉ ở các nước 
phương Tây mà còn ở cả châu Á [12]. 
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu đặc 
trưng bởi gan nhiễm mỡ không do các 
nguyên nhân thứ phát như rượu, thuốc 
và liên quan đến rối loạn chuyển hóa như 
béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu. 
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được 
phân loại về mặt mô bệnh học gồm gan 
nhiễm mỡ không do rượu (nonalcoholic 
fatty liver: NAFL) khi chỉ có nhiễm mỡ ở 
gan, không có tổn thương tế bào gan 
và viêm gan nhiễm mỡ không do rươụ 
(nonalcoholic steatohepatitis - NASH) khi 
có tổn thương tế bào gan có hay không 
có xơ hóa gan. Viêm gan nhiễm mỡ không 
do rượu có nguy cơ tiến triển ung thư 
biểu mô tế bào gan, nhưng nguy cơ này 
chủ yếu xảy ra trên bệnh nhân (BN) bị xơ 
hóa gan nặng. Hầu hết hướng dẫn thực 
hành của các tổ chức nghiên cứu bệnh 
gan trên thế giới đều khuyến cáo nên xác 
định hay loại trừ xơ hóa nặng ban đầu 
nên dựa vào điểm số xơ hóa bệnh gan 
nhiễm mỡ không do rượu (bệnh gan nhiễm 
mỡ không do rượu - NFS) và fibroscan 
nhằm hạn chế nhu cầu sinh thiết gan. 
Theo hướng dẫn của các hiệp hội trên, 
trường hợp được chẩn đoán xơ hóa gan 
nặng bằng NFS hay FibroScan đều cần 
sinh thiết gan để chẩn đoán xác định 
trước khi điều trị. 
ARFI là kỹ thuật chẩn đoán xơ hóa gan 
không xâm nhập mới cho thấy có độ 
chính xác cao trong đánh giá xơ hóa gan. 
ARFI được tích hợp vào máy siêu âm 
dòng Acuson S2000TM (Hãng Siemens). 
Kỹ thuật này hoạt động theo nguyên lý ghi 
hình bằng xung xạ âm có thể khảo sát 
các mô ở sâu mà không phải ấn đầu dò. 
Kỹ thuật ARFI kích thích cơ học mô bằng 
cách dùng xung đẩy trong thời gian ngắn 
(short-duration push pulses) trong vùng 
quan tâm (region of interesting: ROI) 
được chọn. Khi xung qua vùng ROI gây 
ra dời chỗ mô, mô dời chỗ và trở lại vị trí 
cũ tùy vào đặc điểm cơ học tạo nên sóng 
biến dạng thẳng góc xung đẩy. Tốc độ 
của mô dời chỗ hay vận tốc sóng biến 
dạng (shear wave velocity: SWV) được đo 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 14 
bằng chùm siêu âm quy ước theo dõi 
cùng đầu dò siêu âm dùng để tạo ra lực 
và phản ánh độ cứng hay độ đàn hồi của 
mô. Vận tốc sóng biến dạng tỷ lệ thuận 
với độ cứng mô, vận tốc sóng biến dạng 
càng nhanh, mô khảo sát càng cứng. Từ 
vận tốc sóng biến dạng sẽ suy ra mức độ 
xơ hóa gan, chia thành 4 độ tương ứng 
với mức độ xơ hóa gan theo Metavir. 
ARFI là một kỹ thuật siêu âm đàn hồi tiên 
tiến cho phép đánh giá nhanh xơ hóa gan 
không xâm lấn, rẻ tiền và hầu như không 
có phản ứng bất lợi nào. BN và người 
làm đều thoải mái và chỉ mất thời gian 
khoảng 5 phút. Ngay sau khi đánh giá 
siêu âm gan, ARFI cho thông tin về mức 
độ xơ hóa gan tại chỗ mà không cần phải 
mua thêm máy khác như FibroScan. Các 
nghiên cứu trước đây cho thấy ARFI là 
phương pháp đáng tin cậy để đánh giá xơ 
hóa gan nặng ở bệnh nhân (BN) viêm 
gan nhiễm mỡ không do rượu. ARFI có 
giá trị tương đương FibroScan trong đánh 
giá xơ hóa gan trên bệnh gan mạn nói 
chung và viêm gan nhiễm mỡ không do 
rượu nói riêng [4]. Tuy nhiên, ARFI vượt 
trội hơn so với FibroScan vì có thể thực 
hiện được trên BN có báng bụng, khoảng 
gian sườn hẹp. Trên thế giới chưa có 
nghiên cứu nào phối hợp NFS với kỹ 
thuật ARFI, vì vậy, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này nhằm đánh giá giá trị 
phối hợp 2 phương pháp này với mục 
tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu và giá 
trị dự đoán dương, dự đoán âm, độ chính 
xác của kỹ thuật ARFI, NFS với 2 giá trị 
điểm cắt (-1,455 và 0,675) và phối hợp 
hai phương pháp này trong chẩn đoán xơ 
hóa nặng ở BN bị viêm gan nhiễm mỡ 
không do rượu. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
BN ≥ 18 tuổi bị viêm gan nhiễm mỡ 
không do rượu được khám và điều trị tại 
Bệnh viện Nhân Dân 115, Thành phố 
Hồ Chí Minh. 
* Tiêu chuẩn chọn mẫu: BN ≥ 18 tuổi 
được chẩn đoán xác định là viêm gan 
nhiễm mỡ không do rượu tại Bệnh viện 
Nhân Dân 115 khi thỏa mãn 3 tiêu chuẩn 
[1] nhiễm mỡ ≥ 5%, tế bào gan thoái hóa 
nước và thâm nhiễm tế bào viêm mạn, 
loại trừ BN uống rượu > 30 g/ngày đối với 
nam, > 20 g/ngày đối với nữ, loại trừ gan 
nhiễm mỡ do các nguyên nhân khác [13]. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Mẫu sinh thiết gan không đạt chuẩn 
< 6 khoảng cửa. 
- Tỷ lệ thành công đo ARFI (success 
rate) < 60% hay khác biệt tứ phân vị 
thứ 1 và 3 chia cho giá trị trung bình: 
IQR/med < 30%. 
- BN không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
* Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang 
phân tích. 
* Cỡ mẫu: công thức tính cỡ mẫu cho 
loại nghiên cứu về độ đặc hiệu của một 
nghiệm pháp chẩn đoán như sau: 
FP: dương tính giả, TN: âm tính thật; 
Z
 a
2: hằng số của phân phối chuẩn. Nếu 
a = 0,1, Z
 a = 1,65; pdis = tỷ lệ hiện hành 
của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 15 
3 - 5% [11], nước ta có tỷ lệ hiện hành 
thấp hơn các nước châu Âu, do đó chúng 
tôi lấy tỷ lệ để tính toán là 3%, psp: độ đặc 
hiệu hy vọng của phương pháp đối với xơ 
hóa đáng kể và xơ hóa nặng khoảng 0,9. 
Sai số của độ đặc hiệu dao động trên 
dưới 5%  w = 0,05  TP + FN = 98  
n = 101. Do đó, chúng tôi chọn mẫu ít 
nhất 101 BN. 
* Cách tiến hành: 
BN được hỏi bệnh sử, khám lâm sàng 
và thực hiện các xét nghiệm theo mẫu thu 
thập số liệu. BN được sinh thiết gan tại 
Phòng Siêu âm của Bệnh viện Nhân Dân 
115 bằng súng sinh thiết tự động Bard. 
Mẫu sinh thiết được nhuộm HE, trichrome 
và PAS. Tất cả BN đều thực hiện ARFI 
cài đặt trên máy Siemens ACUSON 
S2000 trong 2 tuần trước hay sau sinh 
thiết gan tại Trung tâm Medic - Hòa Hảo 
TP. HCM và tính NFS. Phân tích mẫu mô 
do giảng viên của Bộ môn Giải phẫu bệnh, 
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
thực hiện. 
Mức độ xơ hóa gan theo thang điểm 
mô bệnh học Metavir bao gồm F0: không 
có xơ hóa khoảng cửa; F1: xơ hóa 
khoảng cửa, quanh khoảng cửa, không 
có vách xơ; F2: xơ hóa quanh khoảng 
cửa với vài vách xơ; F3: vách xơ và xơ 
hóa bắc cầu nhiều, nhưng chưa đảo 
lộn cấu trúc tiểu thùy, chưa xơ gan. F4: 
vách xơ, xơ hóa bắc cầu nhiều, đảo lộn 
cấu trúc tiểu thùy, xơ gan. Xơ hóa nhẹ 
F0-1; xơ hóa đáng kể (significant fibrosis) 
khi mức độ xơ hóa ≥ F2 ( F2-4) và xơ hóa 
nặng (advanced fibrosis) khi mức độ xơ 
hóa ≥ F3. Công thức tính điểm xơ hóa 
NAFLD (NFS được tính nhanh chóng 
online trên phần mềm có sẵn trên internet): 
-1,675 + 0,037 x tuổi (năm) + 0,094 x BMI 
(kg/m2) + 1,13 x IFG/tiểu đường (có = 1, 
không = 0) + 0,99 x AST/ALT (U/L) - 0,013 
x tiểu cầu (109/l) - 0,66 x albumin (g/dl). 
IGF: impaired fasting glucose (rối loạn 
đường huyết đói). 
Dựa trên kết quả của nghiên cứu, 
hướng dẫn thực hành của Hiệp hội 
Nghiên cứu Bệnh gan của châu Mỹ [8] và 
châu Âu [6] đều khuyến cáo dùng 2 điểm 
cắt của NFS để chẩn đoán và loại trừ xơ 
hóa nặng là 0,675 và -1,445. Theo hướng 
dẫn của các hiệp hội này, NFS < -1,455: 
loại trừ xơ hóa nặng với giá trị dự báo âm 
tính là 93% (AUROC là 0,88); NFS > 0,675: 
xác định xơ hóa nặng với giá trị dự báo 
dương tính là 90% (AUROC 0,88) và khi 
NFS nằm trong khoảng -1,45  0,676, 
cần làm thêm FibroScan để chẩn đoán 
xơ hoá nặng. Vì vậy, chúng tôi cũng sử 
dụng 2 điểm cắt này cho NFS, khi phối 
hợp với ARFI. 
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm thống 
kê Stata 13. Các phương pháp thống kê: 
- So sánh trung bình của 2 nhóm bằng 
t-test, so sánh ≥ 2 tỷ lệ % bằng phép kiểm 
Chi bình phương. 
- Vẽ đường cong ROC và tính AUROC: 
giá trị điểm cắt được chọn tại điểm có chỉ 
số Youden (J) cao nhất với J = sensitivity 
+ specificity - 1. Tính độ nhạy, độ đặc hiệu, 
giá trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán 
âm tính. 
- Đánh giá mối tương quan giữa 2 biến 
số liên tục phân phối chuẩn bằng tương 
quan Pearson 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 16 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
Từ tháng 10 - 2012 đến 10 - 2015, chúng tôi thực hiện sinh thiết 123 ca, nhưng chỉ 
117 ca đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. 
1. Đặc điểm BN nghiên cứu. 
Bảng 1: Một số đặc điểm BN nghiên cứu. 
Trung bình ± độ lệch chuẩn (giá trị 
nhỏ nhất - lớn nhất) 
Giá trị bất thường (tăng) 
n (%) 
Tuổi (năm) 43,16 ± 13,43 (20 - 81) 
Nam 67 (57,5) 
BMI (kg/m2) 25,87 ± 3,82 (17,84 - 30,35) Nguy cơ và béo phì độ 1: 82 (71) 
Rối loạn lipid máu 
Tăng triglycerid 
 99 (84,6) 
80 (68,4) 
Đái tháo đường 42 (35,8) 
ALT (U/l) 76,31 ± 31,12 (17 - 203) 94 (80,3) 
AST (U/l) 49,17 ± 26,18 (16 - 224) 73 (62,4) 
GGT (U/l) 77,86 ± 63,43 (35,4 - 157) 42 (35,9) 
ALP (U/l) 38,34 ± 24,87 (24,6 - 63,2) 0 
Bilirubin (mg/dl) 0,78 ± 0,11 (0,23 - 1,02) 0 
INR 0,87 ± 0,09 (0,79 - 1,13) 0 
Béo phì, đái tháo đường týp 2 và rối 
loạn mỡ máu là các yếu tố nguy cơ đã 
được xác định rõ trong những nghiên cứu 
trước đây. Thừa cân, béo phì đi kèm với 
tăng nguy cơ bệnh gan nhiễm mỡ không 
do rượu, tần suất bệnh gan nhiễm mỡ 
không do rượu tăng khi BMI tăng [2]. Giá 
trị trung bình của BMI trong nghiên cứu 
này là 25,87, cao hơn bình thường và BN 
thuộc nhóm nguy cơ, béo phì độ 1 chiếm 
tỷ lệ 71%. Điều này cho thấy thừa cân, 
béo phì là một yếu tố nguy cơ thật sự đối 
với viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. 
Hầu hết BN bị bệnh gan nhiễm mỡ không 
do rượu có rối loạn lipid máu cùng với 
các biểu hiện khác của hội chứng chuyển 
hóa như béo phì, đái tháo đường và tăng 
huyết áp. 84,6% BN của chúng tôi có rối 
loạn lipid máu, trong đó tăng triglycerid là 
loại rối loạn thường gặp nhất. Đái tháo 
đường týp 2 làm tăng phân hủy lipid và 
ức chế thu nhận glucose làm tân tạo 
triglycerid gây lắng đọng triglycerid ở gan 
[7]. Trong nghiên cứu này, BN đái tháo 
đường týp 2 chiếm 35,8%. 
Đa số các trường hợp viêm gan nhiễm 
mỡ không do rượu không có triệu chứng 
trừ khi diễn tiến đến xơ gan mất bù. Phần 
lớn BN của chúng tôi đến khám do tăng 
men gan (74,2%), phù hợp nghiên cứu 
của Lee R.G [5]. ALT, AST và GGT là 
những xét nghiệm sinh hóa gan bất thường 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 17 
duy nhất, đa số BN có ALT tăng 2 - 3 lần 
U/l (63,6%). 
2. Các phương pháp đánh giá xơ 
hoá gan và phối hợp 2 phương pháp. 
Chúng tôi thực hiện sinh thiết 123 BN, 
6 BN có khoảng cửa < 6 được loại ra khỏi 
nghiên cứu. Tỷ lệ sinh thiết gan thành 
công 95%, tương tự của Friedrich-Rust M 
(93,4%) [4]. Biến chứng do sinh thiết gan 
là một rào cản cho cả bác sỹ và BN đều 
ngại thực hiện. Tuy nhiên, sinh thiết gan 
qua da trong bệnh lý gan lan tỏa có tần 
suất biến chứng nặng như chảy máu và 
tử vong rất thấp. Chúng tôi gặp biến 
chứng duy nhất là đau (33,3%). Nhiễm 
mỡ nhẹ chiếm 63%, nhiễm mỡ trung bình 
32,8%, nhiễm mỡ nặng 5,2%. Bệnh gan 
nhiễm mỡ không do rượu có đặc trưng về 
mô học là nhiễm mỡ loại không bào lớn, 
tuy nhiên có thể gặp nhiễm mỡ loại hỗn 
hợp, nhiễm mỡ loại không bào nhỏ đơn 
thuần rất hiếm gặp. 
* Giai đoạn xơ hóa gan theo Metavir: 
 Giai đoạn F0: 17 BN (14,5%); F1: 47 BN 
(40,1%); F2: 28 BN (23,9%); F3: 20 BN 
(17,1%); F4: 5 BN (4,4%). Ước tính phải 
mất 30 năm để tiến triển đến xơ gan đối 
với viêm gan mạn do HCV, tuy nhiên đối 
với viêm gan nhiễm mỡ không do rượu 
thời gian này còn kéo dài hơn. Bệnh gan 
nhiễm mỡ không do rượu/viêm gan 
nhiễm mỡ không do rượu mới phát triển 
ở châu Á trong vòng 2 thập niên gần đây, 
do đó tỷ lệ BN xơ gan do viêm gan nhiễm 
mỡ không do rượu đơn thuần rất ít, chính 
vì thế chúng tôi chỉ có 5 BN bị viêm gan 
nhiễm mỡ không do rượu có xơ hóa F4 
hay xơ gan, đa số là xơ hoá F1. 
* Mức độ xơ hóa gan: 
Xơ hóa nhẹ (F0-1): 64 BN (54,6%); 
xơ hóa đáng kể ≥ F2: 53 BN (40,1%); 
xơ hóa nặng ≥ F3: 25 BN (21,5%); xơ gan 
(F4): 5 BN (4,4%). Xơ hóa nhẹ và xơ hóa 
đáng kể chiếm tỷ lệ cao nhất. 
Hình 1: (A) Xơ hóa F4 với SWV 1,55 m/s; 
(B) Nhuộm HE; (C) PAS; (D) trichrome. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy vận tốc 
sóng biến dạng (Shear wave velocity: 
SWV) đo bằng ARFI và NFS có tương 
quan thuận, chặt với giai đoạn xơ hóa 
gan. Vận tốc sóng biến dạng và NFS tăng 
tương ứng với mức tăng của giai đoạn xơ 
hóa gan. Như vậy, kỹ thuật ARFI và NFS 
thực sự là những phương pháp đáng tin 
cậy để đánh giá xơ hóa gan trên BN viêm 
gan nhiễm mỡ không do rượu. 
Bảng 3: Mối tương quan giữa các 
phương pháp với mô bệnh học. 
 Hệ số tương quan p 
NFS 0,59 0,00012 
ARFI 0,62 0,00025 
NFS và ARFI đều có mối liên quan thuận 
chặt với mô bệnh học 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 18 
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính và 
AUROC của NFS, ARFI và phối hợp để chẩn đoán xơ hóa nặng (đã kiểm tra). 
Xác định BN viêm gan nhiễm mỡ 
không do rượu có xơ hóa gan nặng hay 
không đóng vai trò quan trọng để quyết 
định điều trị và tầm soát biến chứng nhằm 
tránh tiến triển đến mất bù của gan, ung 
thư biểu mô tế bào gan và tử vong. 
Hướng dẫn của các Hiệp hội Nghiên cứu 
Bệnh gan của Mỹ và châu Âu khuyến cáo 
sử dụng NFS để bước đầu đánh giá xơ 
hóa gan, giúp xác định và loại trừ xơ hóa 
nặng trên BN bị bệnh gan nhiễm mỡ 
không do rượu. Đối với nhóm BN không 
xác định được do NFS nằm giữa 2 điểm 
cắt, khuyến cáo sử dụng FibroScan để 
tiếp tục xác định xơ hóa gan nặng. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy để xác 
định xơ hóa gan nặng, NFS > 0,676 có độ 
nhạy 52,7%, độ đặc hiệu rất cao (97,5%) 
và các giá trị dự đoán đều cao > 80%. 
Ngược lại, để loại trừ xơ hóa gan nặng, 
NFS < -1,455 có độ nhạy và giá trị dự báo 
âm tính rất cao (98,8%). Như vậy, với giá 
trị > 0,676, NFS giúp xác định xơ hóa gan 
nặng và với giá trị < -1,455, NFS giúp loại 
trừ xơ hóa gan nặng chính xác. 
ARFI là một kỹ thuật mới, phân tích 
tổng hợp của Bota S và CS (2013) cho 
thấy ARFI có giá trị tương tự FibroScan 
để đánh giá xơ hóa gan [1]. Để chẩn 
đoán xơ hóa gan nặng, kết quả cho thấy 
vận tốc sóng biến dạng = 1,45 m/s, có độ 
đặc hiệu và giá trị dự báo dương tính > 90%, 
độ nhạy và giá trị dự báo âm tính tốt. 
Nghiên cứu của Fierbinteanu Braticevici 
C và CS (2013) cho thấy với vận tốc sóng 
biến dạng = 1,48 m/s, ARFI có độ đặc hiệu, 
độ nhạy và các giá trị tiên đoán > 90%, 
cao hơn so với kết quả của chúng tôi [3]. 
Như vậy, kỹ thuật ARFI đáng tin cậy và 
có thể sử dụng để chẩn đoán xơ hóa nặng. 
Phối hợp 2 phương pháp trong nghiên 
cứu nhằm tăng khả năng xác định và loại 
trừ xơ hóa gan nặng trên BN bị viêm gan 
Phương 
pháp Điểm cắt 
Độ 
nhạy % 
Độ đặc 
hiệu, % 
Giá trị dự 
đoán dương 
tính, % 
Giá trị dự 
đoán âm 
tính, % 
AUROC 
NFS > 0,676 52,7 97,5 82,0 88,7 0,81 (0,55 - 0,89) 
 < -1,455 98,8 80,2 55,8 98,4 
0,90 
(0,72 - 0,95 
SWV (m/s) > 1,45 78,5 92,5 83,2 94,2 0,92 (0,76 - 0,98) 
NFS > 0,676 
và SWV ≥ 1,45 m/s 49,5 100 100 88,9 
0,75 
(0,49 - 0,81) 
Phối hợp 
NFS và 
ARFI (m/s) 
NFS < -1,455 và 
SWV < 1,45 100 76,5 48,9 100 
0,88 
(0,68 - 0,95) 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 19 
nhiễm mỡ không do rượu. Trong nghiên 
cứu này, phối hợp kỹ thuật ARFI với 
vận tốc sóng biến dạng ≥ 1,45 m/s và 
NFS > 0,676 để xác định xơ hóa gan 
nặng có độ đặc hiệu và giá trị dự đoán 
dương tính tăng lên 100%; phối hợp ARFI 
với vận tốc sóng biến dạng < 1,45 m/s và 
NFS < -1,455 để loại trừ xơ hóa gan nặng 
có độ nhạy và giá trị dự đoán âm tính 
tăng 100%. Kết quả nghiên cứu tương tự 
Petta S (2014) khi phối hợp NFS > 0,676 
với FibroScan (≥ 9,6 KPa) để xác định 
xơ hóa gan nặng nặng cũng có độ đặc 
hiệu và giá trị dự đoán dương tính tăng 
lên 100% [9]. Tuy nhiên, khi phối hợp 
NFS < -1,455 với FibroScan (< 7,9 KPa) 
làm giảm dương tính giả 7,3%, tăng độ 
nhạy lên 98,9%, tương tự với nghiên cứu 
của chúng tôi (100%). 
So sánh AUROC khi phối hợp 2 phương 
pháp để xác định và loại trừ xơ hoá nặng 
đều giảm nhẹ so với kỹ thuật ARFI và 
NFS. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng 
cho thấy khi phối hợp 2 phương pháp làm 
tăng độ đặc hiệu hay độ nhạy thì sẽ giảm 
độ nhạy hay độ đặc hiệu tương ứng và do 
đó có thể giảm AUROC như nghiên cứu 
của Sporea và CS khi phối hợp kỹ thuật 
ARFI và FibroScan [10]. 
KẾT LUẬN 
Phối hợp kỹ thuật ARFI và NFS rất có 
giá trị để xác định và loại trừ xơ hóa nặng 
tốt hơn so với kỹ thuật ARFI và NFS đơn 
thuần. Phối hợp 2 phương pháp này có 
thể tăng độ nhạy và độ đặc hiệu lên 100%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bota S, Herkner H, Sporea I et al. Meta-
analysis: ARFI elastography versus transient 
elastography for the evaluation of liver fibrosis. 
Liver Int. 2013, 33 (8), pp.1138-1147. 
2. Fabbrini E, Sullivan S, Klein S. Obesity 
and nonalcoholic fatty liver disease: Biochemical, 
metabolic and clinical implications. Hepatology. 
2010, 51 (2), pp.679- 689. 
3. Fierbinteanu Braticevici C, Sporea I, 
Panaitescu E. Value of acoustic radiation 
force impulse imaging elastography for 
non-invasive evaluation of patients with 
nonalcoholic fatty liver disease. Ultrasound in 
Medicine and Biology. 2013, 39 (11), pp.1942-
1950. 
4. Friedrich-Rust M, Romen D, Vermehren 
J et al. Acoustic radiation force impulse-
imaging and transient elastography for 
non-invasive assessment of liver fibrosis and 
steatosis in NAFLD. Eur J Radiol. 2012, 81 (3), 
pp.325-331. 
5. Lee R.G. Nonalcoholic steatohepatitis: 
A study of 49 patients. Human Pathology. 
1989, 20 (6), pp.594-598. 
6. Machado MV, Cortez-Pinto H. Non-invasive 
diagnosis of non-alcoholic fatty liver disease. 
A critical appraisal. Journal of Hepatology. 
2015, Vol 63, 58J, pp.1007-1019. 
7. Mikako Obika, Hirofumi Noguchi. 
Diagnosis and evaluation of nonalcoholic fatty 
liver disease. Experimental Diabetes Research. 
2012, pp.1-12. 
8. Chalasani N, Younossi Z, Lavine J.E 
et al. The diagnosis and management of 
non-alcoholic fatty liver disease: Practice 
guideline by the American Association for the 
Study of Liver diseases, American College 
of Gastroenterology, and the American 
Gastroenterological Association. Hepatology. 
2012, 55 (6), pp.2005-2018. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019 
 20 
9. Petta S, Vanni E, Bugianesi E et al. The 
combination of liver stiffness measurement 
and NAFLD fibrosis score improves the 
noninvasive diagnostic accuracy for severe 
liver fibrosis in patients with nonalcoholic fatty 
liver disease. Liver Int. 2015, May, 35 (5), 
pp.1566-1573. 
10. Sporea Ş.R, Popescu A et al. Is it 
better to use two elastographic methods for 
liver fibrosis assessment?. World J Gastroenterol. 
2011, 17 (33), pp.3824 -3829. 
11. Vernon G, Baranova A, Younossi ZM. 
Systematic review: The epidemiology and 
natural history of non-alcoholic fatty liver 
disease and nonalcoholic steatohepatitis in 
adults. Aliment Pharmacol Ther. 2011, 34, 
pp.274-285. 
12. Wong VW. Nonalcoholic fatty liver 
disease in Asia: A story of growth. Journal of 
Gastroenterology and Hepatology. 2013, 28, 
p.1 
13. Yoneda M, Suzuki K, Kato S et al. 
Nonalcoholic fatty liver disease: US-based 
acoustic radiation force impulse elastography. 
Radiology. 2010, 256 (2), pp.640-647. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_xo_hoa_gan_nang_bang_phoi_hop_ky_thuat_arfi_voi_tha.pdf