Đào tạo cán bộ thông tin thư viện hướng tới xã hội của nền văn minh thông tin

Từ những năm 80 của thế kỷ 20, nền

"Văn minh tri thức" hay còn gọi là

nền "Văn minh thông tin" đã thật sự

xuất hiện. Đó là nền văn minh lấy tri

thức làm nguồn lực phát triển, lấy khoa học

kỹ thuật làm lực lượng sản xuất trực tiếp.

Việt Nam trong thực tế vẫn còn ở trong

những nền văn minh trước, nhưng thật sự đã

chịu sự tác động và ảnh hưởng của nền văn

minh tri thức, ít nhất cũng trên phương diện

cạnh tranh, trên phương diện đào tạo nguồn

nhân lực, trên phương diện phát triển khoa

học - công nghệ và trên nhiều phương diện

văn hóa xã hội.

 

pdf 6 trang yennguyen 6760
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo cán bộ thông tin thư viện hướng tới xã hội của nền văn minh thông tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo cán bộ thông tin thư viện hướng tới xã hội của nền văn minh thông tin

Đào tạo cán bộ thông tin thư viện hướng tới xã hội của nền văn minh thông tin
- 36 - BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG 1/2002
ĐÀO TẠO CÁN BỘ THÔNG TIN THƯ VIỆN
HƯỚNG TỚI XÃ HỘI CỦA NỀN VĂN MINH THÔNG TIN
 ThS. VÕ CÔNG NAM.
Chủ nhiệm Khoa Thông tin – Thư viện,
Trường CĐ Văn hóa TP. HCM
ừ những năm 80 của thế kỷ 20, nền
"Văn minh tri thức" hay còn gọi là
nền "Văn minh thông tin" đã thật sự
xuất hiện. Đó là nền văn minh lấy tri
thức làm nguồn lực phát triển, lấy khoa học
kỹ thuật làm lực lượng sản xuất trực tiếp.
Việt Nam trong thực tế vẫn còn ở trong
những nền văn minh trước, nhưng thật sự đã
chịu sự tác động và ảnh hưởng của nền văn
minh tri thức, ít nhất cũng trên phương diện
cạnh tranh, trên phương diện đào tạo nguồn
nhân lực, trên phương diện phát triển khoa
học - công nghệ và trên nhiều phương diện
văn hóa xã hội.
Các nước sớm bước vào nền Văn minh tri
thức đã xác định bốn trụ cột của nền văn
minh này. Đó là: Công nghệ thông tin, công
nghệ nguyên liệu mới, công nghệ năng
lượng mới và công nghệ sinh học. Trong đó,
công nghệ thông tin là lĩnh vực được coi
trọng nhất, trở thành nhân tố số một của xã
hội. Xã hội của nền văn minh trí tuệ chính là
xã hội thông tin. Điều cốt lõi của xã hội
thông tin là sản xuất ra thông tin, sở hữu và
sử dụng thông tin phục vụ cho sự phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống.
Đặt vấn đề đào tạo cán bộ thông tin thư
viện hướng tới một xã hội thông tin bây giờ,
ở nước ta là đúng lúc và cần thiết vì lĩnh vực
nhạy cảm nhất đối với sự tác động và ảnh
hưởng của nền văn minh tri thức vào xã hội
Việt Nam chính là lĩnh vực thông tin thư
viện. Việc thích nghi và hội nhập được vào
hoạt động thông tin toàn cầu có ý nghĩa
quyết định đến việc tăng tốc để bắt kịp trình
độ phát triển của thế giới. Việc thích nghi và
hội nhập ấy phải được bắt đầu bằng việc
hoạch định một chiến lược tạo dựng nguồn
nhân lực thông tin thư viện có khả năng thích
nghi và phản ứng được với những chuyển
biến của thời đại. Trong phạm vi bài này,
chúng tôi xin thử đề xuất hai vấn đề :
• Một là những mục tiêu cần hướng tới của
việc tạo dựng nguồn nhân lực thông tin
thư viện.
• Hai là phương pháp cần lựa chọn để đạt
được những mục tiêu ấy là gì.
1. Những mục tiêu cần hướng tới trong
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực thông tin
thư viện của một xã hội thông tin .
Muốn xác định được những mục tiêu cho
việc đào tạo nêu trên, trước hết cần phải
phác thảo được hình ảnh của một cơ quan
thông tin thư viện cũng như hình ảnh của một
cán bộ thông tin thư viện của thời đại mới.
Sự nghiệp thông tin thư viện thế giới hiện
T
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG 1/2002 - 37 -
nay đang phải đối đầu với hai thách thức to
lớn. Đó là:
• Hiện tượng bùng nổ thông tin và các
hệ quả của nó: Đó là sự xuất hiện gần
như cùng lúc với một khối lượng
khổng lồ những thành tựu khoa học kỹ
thuật mới, mà đi kèm là một khối
lượng ấn phẩm thông tin nhiều và
nhanh đến mức con người tỏ ra bất lực
trong việc tập hợp, xử lý, lưu giữ, khai
thác và sử dụng. Trong bối cảnh
của sự bùng nổ ấy, thông tin bị phân
tán ở nhiều nơi và nhiều nguồn, bị lạc
hậu với tốc độ ngày càng nhanh. Việc
tìm chọn, khai thác và ứng dụng ngày
càng trở nên khó khăn và tốn kém.
Nhiều thông tin sẽ mất đi hoàn toàn
giá trị của nó trước khi được biết đến.
• Hiện tượng bùng nổ nhu cầu thông tin
của xã hội : Một khi thông tin đã trở
thành nguồn lực phát triển, trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, thì nhu cầu
thông tin của xã hội sẽ bùng phát về cả
số lượng, phạm vi lẫn sự đòi hỏi khắt khe
về chất lượng cũng như về cách thức
chuyển giao. Người dùng tin ngày nay
không còn hài lòng với một số nguồn
thông tin bị khuôn định trong một vùng
lãnh thổ, một lĩnh vực tri thức nhất định
nào đó mà họ đòi hỏi phải được truy cập
tức thời và trực tiếp vào mọi nguồn tài
nguyên thông tin, mọi kênh thông tin
khác nhau trên toàn cầu. Người dùng tin
ngày nay cũng không còn hài lòng với
loại "thông tin thô" mà họ cần loại thông
tin đã được tinh chế đến độ chính xác tối
đa và được sản xuất theo nhiều dạng bao
gói khác nhau phù hợp với mục đích và
thói quen sử dụng của họ.
• Giải quyết hai thách thức trên đây cần
phải có một sự chuyển đổi mang tích
cách mạng về cả bản chất lẫn hình thức
tồn tại của các cơ quan thông tin thư viện
cũng như đội ngũ cán bộ thông tin thư
viện. Hình ảnh về một cơ quan và đội
ngũ cán bộ thông tin thư viện trong thời
đại mới phải có được những nét phác
thảo sau đây:
• Sự đổi mới về mặt chức năng nhiệm vụ:
Những chức năng vốn có của cơ quan
thông tin thư viện như sưu tầm, bảo quản
và lưu thông tài liệu sẽ được thay bằng
chức năng lượng định và trao đổi thông
tin. Những dạng mang tin bằng giấy sẽ
được giảm dần theo mức độ tăng trưởng
của các dạng mang tin không phải in ấn.
Thông tin không còn bị giam hãm trong
những khuôn khổ cố định, việc sưu tầm,
lưu trữ, lưu thông trở nên nhanh chóng và
linh động hơn. Những phương tiện, sự trợ
giúp của công nghệ thông tin sẽ cho phép
sự sưu tập, xử lý, sở hữu, tìm chọn và lưu
thông thông tin không còn bị giới hạn
trong khuôn viên thư viện. Những phương
tiện truyền thông điện tử cho phép dỡ bỏ
mọi giới hạn về không gian cũng như thời
gian trong việc sở hữu và phân phối
thông tin.
• Các cơ quan thông tin thư viện không còn
là những tòa nhà biệt lập cốt để bảo đảm
an toàn tuyệt đối cho tài liệu, mà chúng
trở thành những trạm trung chuyển của
một hệ thống bao gồm nhiều loại thiết
chế lưu trữ và phân phối thông tin. Chúng
không còn là chốn "đi về" của các thành
- 38 - BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG 1/2002
phần người đọc mà trở thành một điểm
tiếp nối với các kênh thông tin khác, để
giao tiếp trực tuyến với các đồng nghiệp,
đồng sự, nhờ đó việc trao đổi thông tin
trở nên nhanh hơn, sống động và phong
phú hơn.
• Phẩm chất của một cơ quan thông tin thư
viện cũng sẽ được đánh giá theo những
tiêu chí mới. Sẽ không phải là căn cứ vào
số lượng tài liệu sở hữu được, số lượt tài
liệu được lưu hành mà phải căn cứ vào
phẩm chất của thông tin được lưu trữ và
phân phối, mức độ tuyệt hảo của dịch vụ
cung ứng thông tin và những tiện ích
được tạo ra cho sự phát triển của xã hội
và của con người.
• Cơ quan thông tin thư viện phải được
quan niệm không phải như là một thiết
chế đã định hình mà phải xem như là một
"tiến trình": Nguồn lực thông tin của nó
không phải là những vật mang tin cố
định, hiện hữu trong các kệ giá thẳng tắp
của thư viện, mà đang là một dòng chảy
liên tục và được bổ sung thường xuyên
bởi các dòng thác thông tin trên toàn thế
giới. Cơ sở vật chất của nó không phải là
những bức tường kiên cố, thâm nghiêm,
những ngôi nhà đồ sộ, vững chãi rêu
phong với thời gian mà là những phương
tiện kỹ thuật vô hình và chuyển động
không ngừng. Mục tiêu của hoạt động
thông tin thư viện cũng không phải là
những "kết quả" đã được xác định một
cách cứng nhắc, vì chúng rất dễ bị lỗi
thời trong một xã hội đang chuyển động
với một vận tốc cực cao mà mục tiêu ấy
phải là sự "thích nghi" để có thể phản
ánh và phản ứng kịp thời với những thay
đổi cao tốc ấy của xã hội.
• Người cán bộ thư viện thông tin cũng
phải được thay đổi từ vai trò là một người
cất giữ sự hiểu biết để trở thành một "hoa
tiêu kiến thức" (knowledge navigator):
Nhiệm vụ trước đây của người thủ thư là
sưu tập và lưu giữ tài liệu, là tổ chức và
sử dụng tài liệu, là khuyến khích và tổ
chức cho xã hội sử dụng tài liệu. Nhiệm
vụ hôm nay của người cán bộ Thông tin
Thư viện, đa dạng, chủ động và tích cực
hơn nhiều. Họ phải là người có khả năng
khống chế và điều khiển dòng thác thông
tin đúng lúc, đúng nơi, đúng liều lượng
cho các nhu cầu khác nhau của xã hội.
Họ phải biết thích nghi và phản ứng được
với tình hình phát triển nhanh chóng của
công nghệ thông tin hiện đại. Họ phải có
khả năng hợp tác, hội nhập với đồng
nghiệp thuộc mọi quốc tịch, mọi trình độ
và mọi cá tính. Sau cùng, họ cũng phải có
khả năng đáp ứng được với sự khó tính
ngày càng cao của xã hội thông tin kể cả
của các cá nhân người dùng tin trong xã
hội ấy.
Những nét phác thảo trên đây có lẽ phải
là những mục tiêu ban đầu của một chiến
lược tạo dựng nguồn nhân lực thông tin thư
viện của thời đại mới nhưng cũng như đặc
điểm của xã hội thông tin, ngay cả những
mục tiêu trên đây cũng chỉ có thể được xem
như một tiến trình của chiến lược ấy.
2. Phương pháp cần lựa chọn để đào tạo
nguồn nhân lực thông tin thư viện cho một
xã hội thông tin:
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG 1/2002 - 39 -
Có thể thấy ngay được rằng việc đào tạo
đội ngũ cán bộ thông tin thư viện của chúng
ta đã tỏ ra bất cập ngay cả đối với những đòi
hỏi của hoạt động thông tin thư viện kiểu cũ.
Nội dung và phương pháp đào tạo của chúng
ta chỉ có thể tạo ra những kỹ thuật viên có
thể lặp đi lặp lại một cách chính xác những
động tác của các chu trình kỹ thuật thư viện
từ nhiều thế kỷ trước, hoặc những nhà thư
viện học, rất giỏi về mặt tư biện nhưng lại
khá lúng túng về mặt hoạt động thực tiễn.
Như trên đã nói cần phải có một đội ngũ
cán bộ thông tin thư viện có khả năng làm
việc với những cơ quan thông tin thư viện
kiểu mới, thích nghi phản ứng được với sự
chuyển đổi cao tốc của xã hội. Đạt được điều
này không phải chỉ căn cứ vào việc cải tiến
mục tiêu và nội dung đào tạo mà còn phải
tính đến việc cải tiến phương pháp đào tạo
nữa. Một phương pháp đào tạo hữu hiệu
trong thời đại mới cần được chú ý đến những
vấn đề sau:
• Chương trình đào tạo: đó chính là kế
hoạch đào tạo, cụ thể hơn, đó là một bản
thiết kế tổng thể cho hoạt động đào tạo.
Bản thiết kế này ngoài việc cho biết
những gì có thể trông đợi ở người đọc sau
khóa học, nó còn phải phác họa ra quy
trình cần thiết để thực hiện nội dung đào
tạo và các hình thức kiểm tra đánh giá
kết quả học tập. Tất cả những điều đó
phải được sắp xếp theo một thời gian
biểu chặt chẽ.
• Cách tiếp cận nội dung đào tạo: Trong
lịch sử phát triển giáo dục và nhà trường,
đã hình thành ba cách tiếp cận vấn đề
º Cách tiếp cận nội dung: là cách tiếp
cận chú trọng chủ yếu đến nội dung
kiến thức. Trong cách tiếp cận này,
việc đào tạo chỉ đơn thuần là quá
trình truyền thụ nội dung kiến thức và
việc lựa chọn phương pháp giảng dạy
cũng chỉ hướng vào các phương pháp
nào truyền thụ kiến thức một cách tốt
nhất. Với cách tiếp cận này, người
học trở nên thụ động, họ hoàn toàn
phụ thuộc vào người dạy.
º Kiến thức không ngừng gia tăng trong
khi thời gian đào tạo gần như cố định,
người học lâm vào tình trạng quá tải
vì bị nhồi nhét kiến thức một cách quá
đáng. Mặt khác, cho dù người học
được tiếp thu một khối lượng kiến
thức tối đa thì cũng chẳng bao lâu, sẽ
trở nên lạc hậu và không còn đủ dùng
nữa. Cách tiếp cận này không khuyến
khích hoặc giúp người dạy có trách
nhiệm và chịu trách nhiệm về sản
phẩm đào tạo của mình và người học
cũng chỉ cần cố gắng học những gì
thầy truyền đạt cho. Công việc của
người học chỉ là tìm cách đồng hóa
với nội dung truyền thụ.
º Cách tiếp cận theo mục tiêu: là cách
tiếp cận nhấn mạnh mục tiêu đào tạo.
Mục tiêu đào tạo là tiêu chí để lựa
chọn nội dung đào tạo, phương pháp
giảng dạy, cách thức thi cử và đánh
giá kết quả học tập. Quy cách, mô
hình sản phẩm đào tạo thường được
xác định trước nên cũng dễ dàng đánh
giá hiệu quả của quá trình đào tạo.
Với cách tiếp cận này, người học
được đào tạo theo một quy trình công
nghệ chặt chẽ, sản phẩm đào tạo có
chất lượng đồng đều và đồng nhất.
- 40 - BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG 1/2002
Cách tiếp cận này làm cho việc đánh
giá hiệu quả và chất lượng đào tạo
được tiến hành thuận lợi. Người thầy
biết được mình phải làm gì, người học
cũng biết được, sau khóa học mình
phải có được kiến thức, kỹ năng gì.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này có
nhược điểm là biến quá trình đào tạo
giáo dục thành một công nghệ. Cách
tiếp cận này sẽ tạo ra những sản
phẩm giống nhau theo những tiêu
chuẩn được xác định trước. Điều này
là hoàn toàn không được và cũng
không nên đối với sản phẩm là con
người. Mặt khác, với cách tiếp cận
này, có nguy cơ trở nên giáo điều,
máy móc và thiếu tính sáng tạo.
º Cách tiếp cận phát triển: là cách tiếp
cận chú trọng đến việc phát triển
những năng lực tiềm ẩn của cá nhân.
Cách tiếp cận này phát huy tối đa khả
năng tư duy, năng lực và phương pháp
hoạt động trí tuệ của người học. Giúp
người học sau này có khả năng làm
chủ được mọi tình huống, đương đầu
được với mọi thách thức một cách chủ
động và sáng tạo. Sản phẩm đào tạo
như vậy sẽ không phải là một định
mẫu, mà sẽ là một khả năng thích
nghi với nghề nghiệp luôn thay đổi và
với thế giới luôn biến động.
Trong ba cách tiếp cận trên đây, thì
cách tiếp cận thứ ba phải là sự lựa chọn
tối ưu về mặt phương pháp trong việc đào
tạo nguồn nhân lực thông tin thư viện cho
thời đại mới.
• Tổ chức hoạt động dạy và học: để người
học có thể tiếp cận nội dung chương trình
đào tạo theo hướng tiếp cận phát triển
như trình bày ở trên. Quá trình dạy và
học cần phải tổ chức với sự chú ý đặc
biệt đến các phương diện sau đây:
º Liều lượng giữa dạy và học: tỉ lệ giữa
dạy và học phải được tiến hành theo
hướng giảm dần phần dạy và tăng dần
phần học. Thời gian đầu tỉ lệ ấy là 50-
50, tiến đến 40-60 rồi 30-70. Vào
những thời kỳ cuối của quá trình đào
tạo.
º Liều lượng giữa lý thuyết và thực
hành: lý thuyết và thực hành cần phải
được bố trí theo tỉ lệ 50-50, phải tạo
điều kiện cho người học va chạm với
thực tiễn ngay trong quá trình học. Ở
thời kỳ đầu đó là hệ thống các bài tập
được giao phó với những tình huống
giả định do thầy đặt ra, sau đó phải là
những vấn đề thực tiễn của hoạt động
nghề nghiệp trong môi trường thực
của xã hội.
º Xác định nhiệm vụ của người dạy và
người học: Nhiệm vụ của người dạy là
chỉ đường dẫn đến kiến thức thông
qua việc cung cấp những chỉ dẫn về
nguồn kiến thức, phương pháp tiếp
cận kiến thức, nêu giả định và các
khả năng giải quyết. Tạo tình huống
thực tiễn và kiểm tra đánh giá khả
năng phản ứng của người học. Nhiệm
vụ của người học là tìm kiếm và tích
lũy kiến thức cần thiết. Độc lập tư duy
và sáng tạo để giải quyết các vấn đề
cũng như các tình huống. Với việc xác
định ấy thì việc học không phải được
diễn ra ở trường lớp mà chính là ở nơi
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN THÁNG 1/2002 - 41 -
có các nguồn thông tin và tại môi
trường xã hội.
º Phân bố chương trình dạy và học:
chương trình dạy và học cần được tổ
hợp lại thành từng đơn vị kiến thức
hoàn chỉnh, được sắp xếp theo thứ tự
hợp lý của trình độ và khả năng tiếp
thu của người học, theo tính kế thừa
về mặt lý thuyết của ngành học và
theo trình tự chu trình công nghệ của
hoạt động thông tin thư viện.
Những mục tiêu cần hướng tới và
phương pháp cần lựa chọn trong việc tạo
dựng nguồn nhân lực thông tin thư viện
hướng tới nền văn minh thông tin như đã
được nêu ra trên đây vẫn chỉ có giá trị
như là những tiến trình, không thể là
những mục đích đã được xác định. Bởi vì
trong một xã hội đang chuyển động thì sự
chuyển động là phương cách duy nhất để
tránh bị đào thải .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hữu Tâm. Thư viện hiện đại cho thế kỷ mới / Nghiên cứu Giáo dục. - Số 3 .-2000. - tr.
31-32
2. Đỗ Quốc Sam. Một vài ý kiến về kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam/
Công tác Khoa giáo. - Số 11.-2000 - tr. 7-8.
3. Lâm Qui Thập. Dạy học ở Đại học và vai trò của nhà giáo đại học trong thời đại thông tin/
Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp . - Số 5. - 2000.- tr.11-14.
4. Lưu Xuân Mới. Chương trình đào tạo - Curriculum và cách tiếp cận trong xây dựng chương
trình đào tạo ở trường Đại học / Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp. - Số 2-2000 - Tr. 9-12
.
5. Nguyễn Hải Thập. Phương pháp dạy học nêu vấn đề ở bậc đại học / Đại học và Giáo dục
Chuyên nghiệp. – Số 3. - 2000. tr. 8-9
6. Nguyễn Quang Vẫn. Kinh tế tri thức với giáo dục và đào tạo / Nghiên cứu Giáo dục . - Số
chuyên đề. - 2000. -tr.16-17.
7. Phạm Minh Hạc. Kinh tế tri thức và giáo dục - đào tạo phát triển người / Nghiên cứu Giáo
dục. - Số 10-2000- tr. 1-2 .

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_can_bo_thong_tin_thu_vien_huong_toi_xa_hoi_cua_nen_v.pdf