Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam
Abstract: This paper focuses on analyzing and clarifying the theoretical basis for the
development of enterprises in universities and its relationship with university governance
in Vietnam. The status of enterprise development in the universities was also studied. On
this basis, the paper provides recommendations to accelerate the university governance
reform in the era of the fourth industrial revolution in higher education.
Bạn đang xem tài liệu "Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Development of enterprises in universities and policy implications for university governance reforms in Vietnam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 83 Original Article Development of Enterprises in Universities and Policy Implications for University Governance Reforms in Vietnam Dinh Van Toan* VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam Received 12 March 2019 Revised 28 March 2019; Accepted 28 March 2019 Abstract: This paper focuses on analyzing and clarifying the theoretical basis for the development of enterprises in universities and its relationship with university governance in Vietnam. The status of enterprise development in the universities was also studied. On this basis, the paper provides recommendations to accelerate the university governance reform in the era of the fourth industrial revolution in higher education. Keywords: Enterprises development in universities, university governance, university governance reform. * _______ * Corresponding author. E-mail address: dinhvantoan@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4201 VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 84 Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học và những gợi ý chính sách về đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam Đinh Văn Toàn* Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 12 tháng 3 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019 Tóm tắt: Nghiên cứu tập trung phân tích, làm rõ lý luận về phát triển doanh nghiệp trong các trường đại học và mối quan hệ giữa phát triển doanh nghiệp với vấn đề quản trị đại học. Đồng thời, nghiên cứu cũng khảo sát thực trạng phát triển doanh nghiệp trong các trường đại học ở Việt Nam, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách nhằm đẩy nhanh tiến trình đổi mới quản trị đại học trong thời kỳ của giáo dục đại học 4.0 hiện nay. Từ khóa: Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học, quản trị đại học, đổi mới quản trị đại học. 1. Giới thiệu * Phát triển doanh nghiệp (PTDN) trong các cơ sở giáo dục đại học, thường gọi là trường đại học (ĐH), liên quan đến nhiều nội dung cần bàn luận như: tổ chức và quản trị trong các đại học, khởi nghiệp và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trong đó việc hình thành các doanh nghiệp mới là một kết quả quan trọng. Kể từ năm 2000 đến nay, mỗi năm bình quân Đại học Quốc gia Singapore (NUS) thành lập khoảng 5 doanh nghiệp. Ở một số trường đại học tại Mỹ như Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), Đại học Standford và Đại học Harvard, con số các doanh nghiệp được thành lập còn cao hơn rất nhiều. _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: dinhvantoan@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4201 Mô hình trường đại học hoạt động gắn với hợp tác, liên kết với bên ngoài và phát triển các hoạt động kinh doanh (đại học doanh nghiệp), hình thành doanh nghiệp trực thuộc trường cũng được đề cập và bàn luận trong một số nghiên cứu, điển hình như nghiên cứu của Trần Anh Tài, Trịnh Ngọc Thạch (2003) [1]. Trong thực tiễn, nhiều đại học trên thế giới áp dụng phương thức này trong tổ chức quản lý để tăng cường năng lực chuyển giao công nghệ và thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ (KHCN) ra thị trường. Ngày nay, phương thức hoạt động như trên thường gắn với các trường đại học được tổ chức, vận hành theo hướng thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và mô hình quản trị đại học (QTĐH) tiên tiến. Yokoyama (2006) đã tổng kết các hình thức phát triển trường đại học tiến tới mô hình quản trị tiên tiến qua nhiều cấp độ với các đặc điểm tổ chức, điều hành ở một số trường đại học điển hình trên thế giới [2]. D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 85 Ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy các nhà hoạch định và nhà khoa học ngày càng quan tâm đến các hoạt động hợp tác, gắn kết với doanh nghiệp và đời sống xã hội để phục vụ cộng đồng của các trường đại học. Các hoạt động này liên quan trực tiếp đến PTDN, đổi mới mô hình tổ chức quản lý và tiến tới quản trị tiên tiến trong trường đại học. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây [3, 4] và thực tiễn cũng cho thấy các hoạt động này của các trường đại học còn có nhiều hạn chế và vướng mắc, hiệu quả hợp tác còn thấp, đổi mới công nghệ và thúc đẩy sáng tạo còn chậm, kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) ít được đưa vào ứng dụng thực tiễn. Điều này làm giảm hiệu quả đóng góp của các trường đại học cho nền kinh tế - xã hội, đồng thời làm chậm tiến trình đổi mới tổ chức và QTĐH. Thông qua nghiên cứu tổng quan lý thuyết về PTDN, bài viết phân tích sâu thêm sự liên hệ giữa hoạt động này với đổi mới tổ chức quản lý và quản trị trường đại học để đưa ra những gợi ý chính sách về đổi mới QTĐH. Các gợi ý này có thể gợi mở việc xây dựng chính sách, cải tiến cơ chế quản lý của cơ quan nhà nước đối với giáo dục đại học hiện đại phù hợp xu thế hội nhập, đồng thời góp phần đổi mới quản trị trường đại học theo hướng tăng cường tự chủ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học 4.0. 2. Cơ sở lý luận PTDN được biết đến một cách rộng rãi như sự tổng hợp các vai trò, chức năng của doanh nhân gồm khả năng và mong muốn của các cá nhân trong hoặc ngoài tổ chức hiện có để nhận biết, tạo nên cơ hội kinh doanh mới (sản phẩm mới, phương pháp sản xuất mới, đề án tổ chức mới và sự kết hợp sản phẩm - thị trường mới) và giới thiệu những ý tưởng của họ tới thị trường. Theo Wennekers và Thurik (1999), các hoạt động này thường đối mặt với sự không chắc chắn và những trở ngại khác bằng sự quyết định hình thức, sử dụng các nguồn lực và tổ chức thực hiện [5]. Đối với các trường đại học, trong bối cảnh ngày càng có sự liên kết gần hơn với thị trường và doanh nghiệp, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những tác động của các liên kết này, tác động của tư duy “'doanh nghiệp”, phong cách quản lý “doanh nghiệp” (mô hình đại học doanh nghiệp) đối với các nguồn lực tài chính, tới việc ứng dụng các nguyên tắc của doanh nghiệp trong mô hình quản lý và điều hành trường đại học [6-11]. Các nghiên cứu trên cũng đã được các nhà khoa học như Han và Heshmati (2013), Trần Anh Tài (2010) tổng hợp [12-13] . Etzkowitz (2002) cũng sử dụng thuật ngữ phát triển “doanh nghiệp đại học” (University Entrepreneurship) để mô tả sự chuyển đổi quản trị cùng với hình thành doanh nghiệp trong trường đại học của MIT như kết quả của sự hợp tác và liên kết với các ngành công nghiệp tư nhân và các cơ quan chính phủ [7]. Clark (1998) đã khái niệm hóa việc tìm kiếm các phương pháp mới mà 5 trường đại học nghiên cứu của châu Âu đang tìm kiếm như sự “'chuyển đổi kinh doanh”' để giảm sự phụ thuộc nặng nề vào sự hỗ trợ và giám sát của chính phủ trong bối cảnh các tổ chức này cần sự chuyển đổi và đổi mới [6]. Có thể nói tinh thần kinh doanh, chuyển đổi kinh doanh hay đổi mới mô hình tổ chức, điều hành trong trường đại học là các tiền đề quan trọng cho PTDN trong trường đại học. Đây cũng là các nhân tố tự thân của các trường đại học trong tiến trình đổi mới quản trị theo hướng QTĐH tiên tiến. Yokoyama (2006) cho rằng các thuật ngữ như PTDN và “tinh thần kinh doanh” trong bối cảnh của các trường đại học không nhất thiết phải được hiểu với ý tưởng thu lợi nhuận và chấp nhận rủi ro, thậm chí là mang tính thương mại cao. Thay vào đó, nghiên cứu của Yokoyama (2006) tập trung vào thái độ của các trường đại học trong việc cố gắng tự chủ về chuyển giao công nghệ, tài chính hay nâng cao trách nhiệm của trường đại học và các nhà khoa học đối với xã hội nói chung. PTDN trong trường đại học dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế quản lý và điều hành. Do đó, 5 hình thức phát triển từ thấp đến cao của mô hình trường đại học mà Yokoyama đưa ra có thể coi như kết quả trực tiếp của quá trình PTDN và tinh thần kinh doanh trong các trường đại học tiến tới mô hình QTĐH tiên tiến (Bảng 1). D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 86 y Bảng 1 Các hình thức phát triển của trường đại học Mức Hình thức Đặc điểm chính trong cơ chế tổ chức điều hành 1 Thí điểm mẫu (Ví dụ: Đại học Tokyo) - Tăng sự tự quyết định của trường đại học - Sự ra đời của văn hóa doanh nghiệp - Xem xét lại vấn đề quản trị, quản lý, lãnh đạo và tài trợ nội bộ trong trường đại học - Thiết lập kế hoạch chiến lược - Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường trách nhiệm trong trường đại học 2 Trường đại học theo định hướng doanh nghiệp (Đại học Waseda) - Mở rộng hoạt động kinh doanh - Chính sách theo định hướng thị trường - Xung đột giữa các giá trị học thuật và kinh doanh - Sự ra đời của tinh thần quản lý trong các hoạt động 3 Trường đại học định hướng kinh doanh non trẻ (Đại học Nottingham Trent) - Phụ thuộc vào tài chính công - Tự nhận dạng là một trường đại học mang tinh thần kinh doanh - Đóng góp vào nền kinh tế địa phương 4 Trường đại học doanh nghiệp thích ứng (Đại học Surrey) - Thể chế tự quyết định - Thu nhập đáng kể từ tài trợ bên ngoài - Cơ cấu quản trị và cấu trúc quản lý theo định hướng thị trường - Tích hợp cơ cấu doanh nghiệp, kinh doanh và học thuật 5 Hình thức lý tưởng - Tự chủ hoàn toàn và tự lực - Chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa các tác nhân tham gia vào các hoạt động kinh doanh một cách rõ ràng - Tích hợp văn hóa kinh doanh, doanh nghiệp và văn hóa học thuật; văn hóa quản lý và phối hợp trong một tổ chức mà không có xung đột Nguồn: Yokoyama, 2006 [2]. Trường đại học theo định hướng mô hình QTĐH tiên tiến trước hết cần tiếp cận tinh thần kinh doanh và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp. Sau đó, cần thay đổi phương thức tổ chức, quan tâm nhiều hơn đến quản lý, điều hành dựa trên hiệu quả các hoạt động. Cùng với các hoạt động mang tinh thần “kinh doanh” như vậy, việc thành lập các doanh nghiệp và sự hoạt động hiệu quả của các đơn vị dịch vụ hỗ trợ như văn phòng chuyển giao công nghệ (OTT) sẽ thúc đẩy chuyển giao tri thức từ các trường đại học tới doanh nghiệp [4]. Kết quả của các hoạt động và sự chuyển dịch này làm tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, là cơ sở vững chắc cho thành công của quản trị đại học tiên tiến. Các trường đại học có mô hình tổ chức và phương thức quản trị tiên tiến luôn lấy mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của người học và các bên liên quan thông qua việc triển khai có hiệu quả cao mọi hoạt động gắn với đổi mới sáng tạo. Kết quả nghiên cứu và khảo sát mang tính học thuật về mối liên hệ giữa PTDN trong trường đại học với các ngành công nghiệp và môi trường bên ngoài của Yusof và Jain (2010) cũng cho thấy vai trò cầu nối của các văn phòng chuyển giao công nghệ trong trường đại học là hết sức quan trọng [14]. Các trường đại học hoạt động theo mô hình QTĐH tiên tiến và sự hoạt động hiệu quả của các văn phòng này sẽ thúc đẩy sự hình thành các doanh nghiệp mới. Tiến trình hình thành doanh nghiệp trong trường đại học cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các ngành công nghiệp và cộng đồng kinh doanh sẽ có tác động lan tỏa và thúc đẩy hoàn thiện môi trường bên ngoài. PTDN trong đại học cần một môi trường bên ngoài phù hợp - hệ sinh thái (bao gồm mạng lưới sáng tạo). Ngược lại, một hệ sinh thái hỗ trợ đổi mới sáng tạo xung quanh trường đại học lại thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi sang mô hình QTĐH tiên tiến của nhà trường (Hình 1). D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 87 Sự hình thành và hoạt động của các doanh nghiệp trong trường đại học có thể theo một số hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung có liên quan chặt chẽ với chu kỳ của nghiên cứu - thử nghiệm - chuyển giao - ứng dụng thực tiễn và thương mại hóa. Các doanh nghiệp được thành lập thường gặp trong các đại học nhằm thương mại hóa sản phẩm KHCN bắt nguồn từ các kết quả và ý tưởng nghiên cứu - được gọi là doanh nghiệp “Spin-off”. Đặc trưng của các doanh nghiệp này là được hình thành và nuôi dưỡng trong trường đại học cùng vai trò quan trọng của các nhà khoa học, nhà sáng chế với các ý tưởng sáng tạo. Mặt khác, doanh nghiệp trong trường đại học thường được phát triển từ các sản phẩm hay ý tưởng sáng tạo, thường gọi là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startups). Các doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và nhỏ để đối phó với nguy cơ rủi ro cao. Do vậy, startups là nét đặc trưng vốn có của các trường đại học trong thời đại ngày nay, bởi lẽ bản thân các trường đại học là môi trường lý tưởng cho phát triển khởi nghiệp gắn với đổi mới, sáng tạo [15]. Thuật ngữ PTDN cũng đã được áp dụng để nghiên cứu và giải quyết cụ thể đối với các hoạt động theo định hướng thị trường xảy ra trong giáo dục đại học hiện đại. Phân tích các hoạt động chuyển giao công nghệ của các trường đại học và các kết quả liên quan đến PTDN, các học giả như: Bercovitz và Feldman (2006), Bercovitz và cộng sự (2001), Feldman và cộng sự (2002), Owen-Smith (2005), Owen-Smith và Powell (2003), Colyvas và Powell (2007) đã xác định các hoạt động hướng ra thị trường bao gồm việc tạo ra các startups phục vụ đời sống xã hội là điển hình của PTDN trong trường đại học [17-22]. Bên cạnh đó, các hành vi và hoạt động của sinh viên theo định hướng thị trường và vai trò của sinh viên khởi nghiệp kinh doanh hay “doanh nhân sinh viên” được nhà nước bảo trợ đôi khi cũng được coi là phát triển tinh thần kinh doanh và PTDN trong đại học [23]. Ngoài mục tiêu lợi nhuận, phát triển kinh doanh và hình thành doanh nghiệp trong trường đại học có điểm khác biệt so với các doanh nghiệp và doanh nhân ở mục tiêu chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ và ý tưởng mới ra thị trường. Đặc biệt, nó góp phần hoàn thiện mô hình tổ chức và điều hành theo hướng đổi mới QTĐH. Theo Bercovitz và Feldman (2002), các hoạt động PTDN trong trường đại học góp phần tích cực cho phát triển kinh tế tri thức và đóng góp cho tiến bộ xã hội [19]. Do vậy, các quốc gia thường có những chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp trong trường đại học, đồng thời tạo môi trường đổi mới và chuyển dịch sang mô hình QTĐH tiên tiến. 3. Phát triển doanh nghiệp trong đại học ở một số quốc gia tiêu biểu PTDN trong các trường đại học đã khá phổ biến trong nhiều thập niên qua trên thế giới. Gần đây nhất, một quốc gia mới nổi lên ở châu Á thành công nhất phải kể tới là Singapore. Sự chuyển đổi NUS sang mô hình QTĐH tiên tiến, gắn với PTDN và đổi mới sáng tạo được bắt đầu từ cuối thập niên 1990 khi quyết định thành lập doanh nghiệp đầu tiên trong đại học. Trong thời kỳ đầu, NUS thành lập văn phòng cấp phép về công nghệ. Văn phòng này không quá chú ý đến mục tiêu lợi nhuận cấp phép mà chú trọng mở rộng quan hệ, quảng bá các kết quả công nghệ của NUS trên thị trường bằng cách ưu tiên cấp bản quyền sáng chế cho các doanh nghiệp mới được thành lập. Bên cạnh đó, NUS cung cấp các thiết b ... với cách quản lý kiểu hành chính vẫn hiện diện chủ yếu. Điều này là do vẫn còn quá nhiều các quy định, cơ chế quản lý ở tầm quốc gia, địa phương, các Bộ, ngành mang tính hành chính mà CSGDĐH phải tuân thủ. Quan niệm trường đại học là nơi tụ hội các tư tưởng học thuật dường như mới chỉ dừng ở mức độ mong muốn của giới học thuật. Quản lý hành chính và thủ D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 93 tục theo hệ thống cấp bậc làm hạn chế các liên kết theo chuyên môn, ít nhấn mạnh vai trò của đội ngũ học thuật, giảng viên và người học mà dành quyền lực cho các bộ phận quản lý điều hành và phục vụ. Như vậy, khi chưa xây dựng được một văn hóa học thuật đúng nghĩa, chưa có cơ cấu tổ chức và quản lý, vận hành theo kiểu doanh nghiệp thì khó có thể xây dựng được trường đại học định hướng đổi mới sáng tạo và áp dụng QTĐH tiên tiến. Đổi mới tổ chức, quản lý và PTDN trong trường đại học Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, PTDN cùng với quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức và áp dụng quản trị tiên tiến trong các trường đại học luôn đi song hành với sự thay đổi của nhà trường trong quản lý điều hành: từ chương trình đào tạo và nghiên cứu khoa học theo hướng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, tăng khả năng thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ. Những thay đổi này còn nhằm gỡ bỏ các rào cản, tăng quyền chủ động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị nghiên cứu, các khoa; xây dựng môi trường dân chủ và tôn trọng tự do học thuật thông qua sự đóng góp của giảng viên, người học cũng như các bên liên quan. Cùng với chiến lược đúng đắn, các chính sách cởi mở, cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành theo hướng hiệu quả, quy trình ra quyết định linh động để đáp ứng kịp thời nhu cầu các bên liên quan, các trường đại học sẽ thực sự từ bỏ mô hình “đơn vị sự nghiệp”, cùng với nó là cơ chế “hành chính” trong điều hành. Bên cạnh đó, một trong những yêu cầu cấp thiết đối với các CSGDĐH trong thời gian tới là: cần gắn bó hơn với các doanh nghiệp và nhà đầu tư để thúc đẩy khởi nghiệp; quan tâm hơn đến quản trị chia sẻ và thúc đẩy mạnh mẽ thương mại hóa các kết quả nghiên cứu KHCN; ban hành chính sách và xây dựng cơ chế khuyến khích sự hợp tác giữa các nhà khoa học, giảng viên và doanh nghiệp ngay ở giai đoạn đầu của nghiên cứu thử nghiệm, sớm hình thành các doanh nghiệp học thuật và phát triển thành các doanh nghiệp Spin-off. Các trường đại học có năng lực nghiên cứu cần thành lập sớm các đơn vị chuyên trách kết nối với doanh nghiệp, các đối tác như: văn phòng cấp phép sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; vườn ươm công nghệ và hỗ trợ khởi nghiệp. Đặc biệt, các trường đại học cần có các giải pháp tạo động lực, hỗ trợ nhà khoa học, giảng viên phát huy tinh thần chủ động, khởi nghiệp sáng tạo, xây dựng quy trình thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp và các hoạt động kinh doanh theo hướng dễ tiếp cận và triển khai. Về mô hình doanh nghiệp, trong khi Chính phủ và các Bộ chưa hoàn thiện đồng bộ các cơ chế và chính sách như ở các quốc gia tiêu biểu khác, các trường đại học cần xem xét thành lập các doanh nghiệp theo mô hình công ty mà trường sở hữu toàn bộ hay một phần có chức năng khai thác các kết quả nghiên cứu, cung cấp dịch vụ và triển khai các ý tưởng kinh doanh. Để phù hợp với quy định hiện hành của Luật Phòng chống tham nhũng và Luật Doanh nghiệp (2014), hệ thống các doanh nghiệp trong trường đại học được khuyến cáo có thể chia thành 2 cấp: (1) Công ty mẹ trực thuộc trường đại học với mô hình TNHH, chịu sự kiểm soát của trường đại học thông qua vốn góp, tài sản và nhân sự chủ chốt; (2) Nhóm các công ty con và một số công ty vệ tinh, liên kết với công ty mẹ có thể theo mô hình công ty cổ phần để đa dạng hóa trong kêu gọi vốn đầu tư. Tại các đại học quốc gia, đại học vùng (đại học 2 cấp), ngoài doanh nghiệp trực thuộc đại học, các trường đại học, viện nghiên cứu thành viên có thể thành lập các doanh nghiệp theo mô hình TNHH trực thuộc hoặc công ty cổ phần như một đơn vị liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm khai thác lợi ích từ việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Kiến nghị đối với Nhà nước và chính quyền các cấp Bên cạnh sự đổi mới tự thân của trường đại học, quản lý giáo dục nói chung và QTĐH nói riêng còn phụ thuộc rất lớn vào vai trò quan trọng của Nhà nước và chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong thực tiễn đòi hỏi của giáo dục đại học 4.0 ở Việt Nam hiện nay, để có môi trường gắn với mạng lưới sáng tạo, thúc đẩy và hỗ trợ PTDN và đổi mới quản trị trong các trường đại học theo hướng tiên tiến, các bên gồm Chính phủ, Bộ Giáo dục D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 94 và Đào tạo và các Bộ, ngành, chính quyền địa phương với vai trò là cơ quan chủ quản của các trường đại học cần giải quyết một số vấn đề cấp bách sau đây: - Để có sự đồng bộ về chính sách hỗ trợ, Chính phủ cần sớm có Nghị định và văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục đại học. Trong đó, cần có quy định rõ về việc thành lập doanh nghiệp trong đại học theo hướng ưu tiên và hỗ trợ đặc biệt cho các công ty ở giai đoạn thử nghiệm (có thể hợp tác với tư nhân, doanh nghiệp ngoài đại học) hoặc mô hình ươm tạo, trong đó xem xét điều chỉnh việc tham gia của cán bộ, giảng nhà trường vào quản lý, điều hành doanh nghiệp cho phù hợp; Có cơ chế tài chính riêng, phù hợp với các doanh nghiệp khởi nghiệp và vườn ươm công nghệ trong trường đại học để khuyến khích ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. - Các bộ luật như Đầu tư nước ngoài, Phòng chống tham nhũng, Sở hữu trí tuệ và các quy định về công chức, viên chức cần sớm được sửa đổi một cách đồng bộ để hoàn thiện một hệ sinh thái khởi nghiệp. Trong hệ thống pháp luật cần cho phép các giảng viên, nhà khoa học thuộc đối tượng công chức, viên chức được thành lập và trực tiếp tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp trên cơ sở kết quả nghiên cứu. Trường hợp của các quốc gia như Brazil, Nhật Bản và Singapore là những ví dụ điển hình cho thấy chỉ khi Chính phủ gỡ bỏ những rào cản về chính sách, cho phép các trường đại học được đầu tư vào các dự án với các doanh nghiệp bên ngoài thì các hoạt động PTDN và đổi mới QTĐH mới được thúc đẩy mạnh mẽ và mang lại kết quả tích cực. - Với mục tiêu thúc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường công nghệ, tạo thuận lợi cho trao đổi tri thức và công nghệ, Chính phủ cần ban hành chính sách cụ thể về bản quyền, cấp phép và chuyển giao công nghệ giữa các bên. Chính sách này cần thể hiện mạnh mẽ tính hỗ trợ, tạo điều kiện đặc biệt cho sự hợp tác giữa các bên trong chuyển giao công nghệ từ nhà trường cho doanh nghiệp và thương mại hóa phục vụ xã hội. - Chính sách về giao đất và cơ chế rõ ràng về định giá quyền sử dụng đất, tài sản trí tuệ, thương hiệu của các trường đại học cũng như cơ chế phối hợp giữa ba bên: Chính phủ (Trung ương và địa phương) - các trường đại học - doanh nghiệp hay hợp tác công - tư trong đầu tư và kinh doanh, thành lập các loại doanh nghiệp cần được xây dựng và công bố. Đối với các cơ quan chủ quản của các trường đại học: - Cần đổi mới mạnh mẽ chính sách và cơ chế quản lý giáo dục đại học theo hướng trao quyền tự trị, tự chủ cho các trường đại học, xóa bỏ chế độ cơ quan chủ quản, đồng thời đề xuất với Chính phủ hoàn thiện các văn bản pháp quy để thúc đẩy nhanh các tiến trình này theo hướng trao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình và trách nhiệm xã hội của các CSGDĐH. - Cần có các chế tài quy định việc chuyển giao, thương mại hóa đề tài/dự án có tính thực tiễn cao của các nhà khoa học trong trường đại học gắn với các doanh nghiệp hoặc thành lập doanh nghiệp trong các trường đại học để thương mại hóa các kết quả. Đồng thời, giao quyền quyết định cho các hiệu trưởng, các giám đốc đại học trong quyết định thành lập doanh nghiệp và góp vốn, sử dụng tài sản công, đất đai trong góp vốn cổ phần và tổ chức sản xuất, kinh doanh. 5. Kết luận Hình thành và PTDN trong trường đại học cùng với đổi mới tổ chức và quản lý trường đại học luôn phù hợp với xu thế tự chủ đại học và QTĐH tiên tiến. Đặc biệt, các hoạt động này ngày càng có vai trò quan trọng trong chia sẻ tri thức, chia sẻ nguồn lực giữa các trường đại học với doanh nghiệp và xã hội, phục vụ cộng đồng. PTDN trong trường đại học cần được hiểu không chỉ bao gồm việc hình thành doanh nghiệp mới và hỗ trợ phát triển kinh doanh, hợp tác với các ngành công nghiệp để thương mại hóa sản phẩm KHCN, mà còn là một quá trình chuyển đổi tư duy trong các trường đại học để tạo lập môi trường đổi mới, sáng tạo. Trong quá trình chuyển đổi và phát triển, các trường đại học cần được giải phóng các nguồn lực cũng như tiềm năng của mình để D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 95 mang lại nguồn lợi từ đổi mới, sáng tạo. Do vậy, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương các cấp chủ quản trường đại học luôn phải đóng vai trò “bà đỡ” tạo khung khổ pháp lý và các cơ chế hỗ trợ, xúc tác để các trường thực hiện được sứ mệnh trên. Mối liên kết giữa ba bên trong mô hình xoắn sẽ mang lại sự phát triển bền vững. Cũng thông qua các hợp tác, PTDN trong trường đại học được thúc đẩy, trực tiếp góp phần vào thành công trong đổi mới QTĐH và phát triển bền vững của các trường đại học ở Việt Nam. Các quốc gia như Mỹ, Anh, Canada và một số nước tiêu biểu ở khu vực châu Á như Nhật Bản, Singapore đã gặt hái nhiều thành công từ đổi mới chính sách và sự hợp tác này. Tài liệu tham khảo [1] Trần Anh Tài, Trịnh Ngọc Thạch, Mô hình đại học doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam, Tái bản lần thứ nhất, NXB Khoa học Xã hội, 2003. [2] K. Yokoyama, “Entrepreneurialism in Japanese and UK Universities: Governance, Management, Leadership and Funding”, Higher Education. 52 (2006) 523. https://doi.org/10.1007/s10734-005- 1168-2. [3] Dinh Van Toan, “University - Enterprise Cooperation in International Context and Implications for Vietnam”, Vietnam Economic Review. No. 7 (2017) 275. [4] Dinh Van Toan, Hoang Van Hai, Nguyen Phuong Mai, “The Role of Entrepreneurship Development in Universities to Promote Knowledge Sharing: The Case of Vietnam National University, Hanoi”, Asia Pacific Conference on Information Management 2016: Common Platform to A Sustainable Society In The Dynamic Asia Pacific, Hanoi, 2016. [5] S. Wennekers, R. Thurik, “Linking Entrepreneurship and Economic Growth”, Small Business Economics. 13 (1999) 27. https://doi.org/10.1023/A:1008063200484. [6] B.R. Clark, Creating Entrepreneurial Universities: Organizational Pathways of Transformation, Oxford: IAU Press and Pergamon, 1998. [7] H. Etzkowitz, MIT and The Rise of Entrepreneurial Science, Routledge, New York, 2002. https://doi.org/10.4324/9780203216675. [8] R.L. Geiger, Knowledge and Money: Research Universities and the Paradox of the Marketplace, Stanford University Press, 2004. [9] S. Slaughter, L. Leslie, Academic Capitalism: Politics, Policies and The Entrepreneurial University, John Hopkins University Press, Baltimore, 1997. [10] S. Slaughter, G. Rhoades, Academic Capitalism and The New Economy: Markets, State and Higher Education, John Hopkins University Press, Baltimore, 2004. [11] J. Washburn, University Inc: The Corporate Corruption of Higher Education, Stanford University Press, 2005. [12] J. Han, A. Heshmati, “Determinants of Financial Rewards from Industry-University Collaboration in South Korea”, IZA Discussion Paper. No. 7695 (2013). [13] Trần Anh Tài, “Liên kết nhà trường và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam”, Đề tài cấp ĐHQG, 2009-2010, 2010. [14] M. Yusof, K.K. Jain, “Categories of University- level entrepreneurship: A literature survey”, Int. Entrep, Manag, J. 6 (2010) 81-96. DOI 10.1007/s11365-007-0072-x. [15] Dinh Van Toan, “Promoting university startups’ development: International experiences and policy recommendations for Vietnam”, Vietnam’s Socio- Economic Development. Vol. 22, No. 90, 7 (2017) 19-42. [16] F.T. Rothaermel, S.D. Agung, L. Jiang, “University entrepreneurship: A taxonomy of the literature”, Industrialand Corporate Change. Volume 16, Number 4, Oxford University Press (2007) 691-791. [17] J. Bercovitz, M. Feldman, “Entrepreneurial Universities and Technology Transfer: A Conceptual Framework for Understanding Knowledge Based Economic Development”, The Journal of Technology Transfer. 31 (2006) 175. https://doi.org/10.1007/s10961-005-5029-z [18] J. Bercovitz et al., “Organizational Structure as a Determinant of Academic Patent and Licensing Behavior: An Exploratory Study of Duke, John Hopkins, and Pennsylvania State Universities”, The Journal of Technology Transfer. 26 (2001) 21. https://doi.org/10.1023/A:1007828026904 [19] M. Feldman, J. Bercovitz, R. Burton “Equity and The Technology Strategies of American Research Universities”, Management Science. 48 (2002) 105-121. D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96 96 [20] J. Owen-Smith, “Trends and transitions in the institutional environment for public and private science”, Higher Education. 49 (2005) 91-117. [21] J. Owen-Smith, W.W. Powell, “The Expanding Role of University Patenting in the Life Sciences: Assessing The Importance of Experience and Connectivity”, Research Policy. 32 (2003) 1695-1711. [22] J.A. Colyvas, W.W. Powell, “From Vulnerable to Venerated: The Institutionalization of Academic Entrepreneurship in The Life Science”, in Martin Ruef, Michael Lounsbury (ed.), The Sociology of Entrepreneurship (Research in the Sociology of Organizations, Emerald Group Publishing Limited. Volume 25 (2007) 219-259. [23] C. Luthje, N. Franke, “Fostering entrepreneurship through university education and training: Lessons from Massachusetts Institute of Techolology”, European Academy of Management, 2nd Annual Conference on Innovative Research in Management, Stockholm, 2002. [24] G. Dalmarco, W. Hulsink, “Creating entrepreneurial university in an emerging country: Evidence from Brazil”, Technological Forecasting and Social Change. (2018). DOI: 10.1016/j.techfore.2018.04.015. [25] Đinh Văn Toàn, “PTDN trong đại học: Kinh nghiệm trên thế giới và gợi ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo. số 33, 12 (2018) 58-60. [26] Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Hữu Thành Chung, Nghiêm Xuân Huy, Mai Thị Quỳnh Lan, Trần Thị Bích Liễu, Hà Quang Thụy, Nguyễn Lộc, “Tiếp cận giáo dục đại học 4.0 - Các đặc trưng và tiêu chí đánh giá”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý. 34 (2018) 1-28. DOI: https://doi.org/10.25073/25881116/vnupam.4160 Ư ư
File đính kèm:
- development_of_enterprises_in_universities_and_policy_implic.pdf