Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM

Tóm tắt. Sáng tạo là một năng lực quan trọng của con người trong thế kỉ 21 để đáp ứng

những thách thức phức tạp trong tương lai. Mặt khác, sáng tạo đóng vai trò quan trọng

trong các bài học STEM (khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán) được xây dựng theo quy

trình thiết kế kĩ thuật. Do đó, một công cụ để đánh giá sáng tạo thiết kế kĩ thuật thông qua

các bài học STEM là cần thiết. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm thiết kế một công cụ tự

đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh trong thiết kế kĩ thuật thông qua các bài học

STEM. Dữ liệu được thu thập từ 160 học sinh trung học phổ thông ở miền Bắc và miền

Trung Việt Nam. Để xác định giá trị của thang đo, phân tích độ tin cậy, phân tích nhân tố

khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA) được sử dụng. Kết quả các phân

tích cho thấy công cụ có độ tin cậy cao và tính giá trị phù hợp để sử dụng đánh giá sáng tạo.

Học sinh có thể tự đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật của bản thân thông qua công

cụ này

pdf 12 trang yennguyen 5020
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM

Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM
151 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2020-0015 
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 1, pp. 151-162 
This paper is available online at  
XÂY DỰNG CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC SÁNG TẠO 
THIẾT KẾ KĨ THUẬT TRONG GIÁO DỤC STEM 
Nguyễn Văn Biên1, Nguyễn Thị Vân Anh1,2, Đặng Văn Sơn3,4 
và Nguyễn Thị Tố Khuyên3 
1
Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
2Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, 3Học viện Sáng tạo S3 
4Trung tâm Nano và Năng lượng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội 
Tóm tắt. Sáng tạo là một năng lực quan trọng của con người trong thế kỉ 21 để đáp ứng 
những thách thức phức tạp trong tương lai. Mặt khác, sáng tạo đóng vai trò quan trọng 
trong các bài học STEM (khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán) được xây dựng theo quy 
trình thiết kế kĩ thuật. Do đó, một công cụ để đánh giá sáng tạo thiết kế kĩ thuật thông qua 
các bài học STEM là cần thiết. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm thiết kế một công cụ tự 
đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh trong thiết kế kĩ thuật thông qua các bài học 
STEM. Dữ liệu được thu thập từ 160 học sinh trung học phổ thông ở miền Bắc và miền 
Trung Việt Nam. Để xác định giá trị của thang đo, phân tích độ tin cậy, phân tích nhân tố 
khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA) được sử dụng. Kết quả các phân 
tích cho thấy công cụ có độ tin cậy cao và tính giá trị phù hợp để sử dụng đánh giá sáng tạo. 
Học sinh có thể tự đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật của bản thân thông qua công 
cụ này. 
Từ khóa: Sáng tạo, sáng tạo thiết kế kĩ thuật, đánh giá năng lực sáng tạo. 
1. Mở đầu 
Khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh chóng, ảnh hưởng trực tiếp lên cuộc sống và 
hệ thống các nghề nghiệp trong xã hội. Sáng tạo là một trong những yếu tố then chốt để thể hiện 
chất lượng nhân lực đáp ứng các công việc trong tương lai [1]. Phát huy sự sáng tạo là một yêu 
cầu rất quan trọng trong các trường học và chương trình giảng dạy [2]. Trong khi đó, chính giáo 
dục lại có thể nuôi dưỡng hoặc kìm hãm sự sáng tạo [3]. Ở một góc nhìn khác, giáo dục kĩ thuật 
đóng vai trò rất quan trọng để cung cấp nguồn nhân lực có tư duy sáng tạo, đổi mới và tư duy 
phê phán cho một quốc gia, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế [4]. Sáng tạo 
nên là một bộ phận quan trọng của giáo dục kĩ thuật như mục tiêu đầu ra của sinh viên – lực 
lượng lao động tương lai [5]. Có thể thấy, dạy học nhằm phát triển năng lực sáng tạo của học 
sinh là cần thiết để đáp ứng yêu cầu trong công việc của thế kỉ 21 và các bài học liên quan đến 
kĩ thuật, tạo cơ hội để học sinh phát triển sáng tạo. 
Quan điểm tích hợp khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học (STEM) trở thành xu hướng 
tại Việt Nam từ năm 2014 đến nay. Chương trình tổng thể ban hành kèm theo Thông tư số 
Ngày nhận bài: 28/12/2019. Ngày sửa bài: 12/1/2020. Ngày nhận đăng: 19/1/2020. 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Văn Biên. Địa chỉ e-mail: biennv@hnue.edu.vn 
Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Thị Vân Anh, Đặng Văn Sơn và Nguyễn Thị Tố Khuyên 
152 
32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng khuyến 
khích dạy học một số chủ đề STEM đối với học sinh THCS và THPT. Các bài học STEM 
thường được hướng dẫn bằng quy trình thiết kế kĩ thuật (TKKT) nhằm giải quyết các vấn đề 
thực tiễn [6]. Do đó, bài học STEM cũng hướng đến mục tiêu phát triển sự sáng tạo của học sinh. 
Nhiều bài kiểm tra đánh giá năng lực sáng tạo đã xuất hiện từ khoảng những năm 1950 đến nay, 
ví dụ như bài SI (Structure of the Intellect) tập trung đo lường tư duy phân kì (đưa ra những ý 
tưởng độc đáo với nhiều phương án, giải pháp cho vấn đề), bài EpoC (Evaluation of Potential 
Creativity) đo lường cả 2 kiểu tư duy phân kì và hội tụ. Đối với lĩnh vực kĩ thuật, các bài đánh 
giá tiêu biểu được nhắc đến Owens Creativity Test (1960), Purdur Creativity Test (1959, 1960), 
Creative Engineering Design Assessment (CEDA) (2008, 2011). Đánh giá sáng tạo Owens được 
phát triển để đánh giá sự sáng tạo trong lĩnh vực kĩ thuật cơ khí. Người được đánh giá liệt kê các 
giải pháp có thể cho các vấn đề liên quan đến cơ khí (tư duy phân kì). Độ tin cậy của công cụ 
này từ 0,38 đến 0,91 và tính giá trị dao động từ 0,6 đến 0,72. Đánh giá sáng tạo Purdue PCT 
được phát triển bởi Lawshe and Harris cho nhân sự kĩ thuật. Người tham gia được yêu cầu liệt 
kê càng nhiều cách sử dụng có thể cho một hoặc hai hình dạng được cung cấp. PCT có độ tin 
cậy tốt (0,86 đến 0,95). Mặc dù là một công cụ có độ tin cậy và tính giá trị cao nhưng nó lại ít 
được sử dụng trong đánh giá kĩ thuật do công cụ không đánh giá trực tiếp tính độc đáo. Đánh 
giá sáng tạo TKKT CEDA cung cấp một cách thức đánh giá mới trong TKKT. CEDA được xây 
dựng dựa trên việc cải thiện các nhược điểm của bài PCT và mô hình tư duy phân kì với các câu 
hỏi mở của Guilford [7]. CEDA là công cụ duy nhất cho đến nay đánh giá cả việc giải quyết vấn 
đề và tìm kiếm vấn đề [8]. CEDA cũng đánh giá các thuộc tính của sáng tạo bao gồm: tính lưu 
loát - số lượng ý tưởng (fluency), tính linh hoạt - nhóm/loại ý tưởng (flexibility), tính độc đáo - 
tính mới, độc đáo của ý tưởng (originality) và tính hữu ích (useful) [9]. 
Các công cụ trên đánh giá sáng tạo trong kĩ thuật của học sinh thông qua các bài kiểm tra. 
Tuy nhiên, trong một số trường hợp với quá trình tác động ngắn, các chỉ số hành vi sáng tạo của 
học sinh có sự thay đổi nhưng chưa đủ để thay đổi khả năng sáng tạo một sản phẩm nào đó 
(thường qua các bài kiểm tra). Do đó, nghiên cứu này nhằm thiết kế một công cụ tự đánh giá 
năng lực sáng tạo của học sinh trong các bài học STEM thông qua mức độ thường xuyên thực 
hiện các hành vi sáng tạo. Việc xây dựng và phát triển công cụ dựa trên các thuộc tính của sáng 
tạo và quy trình thiết kế kĩ thuật. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Năng lực sáng tạo 
Tổ chức phi chính phủ P21 (The Partnership for 21st Century Learning) đưa sáng tạo và 
đổi mới (Creativity and innovation) là một trong những kĩ năng cần thiết của thế kỉ 21. Chương 
trình tổng thể ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT cũng xác định rõ năng lực giải quyết 
vấn đề và sáng tạo là một trong ba năng lực chung cần hình thành và phát triển cho học sinh. 
Sáng tạo là hoạt động quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động của con người. Những ngôi nhà 
và văn phòng có đầy đủ đồ nội thất, các thiết bị cùng nhiều tiện ích là sản phẩm của sáng tạo [10]. 
Có thể thấy, sáng tạo là năng lực cần thiết trong nhiều lĩnh vực như quảng cáo, âm nhạc, hội 
họa, văn học và nhất là lĩnh vực kĩ thuật. Tờ báo thiết kế (Design News, 2007) cho biết 65% kĩ 
sư trong các nghành cơ khí, ứng dụng, công ty kĩ thuật sản xuất đồng ý rằng kĩ sư ngày nay cần 
sáng tạo và đổi mới để cạnh tranh toàn cầu [11]. 
Có rất nhiều quan điểm về sáng tạo và khái niệm này đã và đang nhận được sự quan tâm 
của nhiều nhà nghiên cứu trong những năm gần đây. Sáng tạo là khả năng tạo ra những sản 
phẩm độc đáo phù hợp với bối cảnh, đáp ứng được các hạn chế của nhiệm vụ [12]. Sáng tạo là 
độc đáo, là hữu ích hoặc phù hợp với tình huống thực tiễn và phải được đưa vào sử dụng trong 
Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM 
153 
thực tế [13]. Tư duy sáng tạo đề cập đến cách con người tiếp cận các vấn đề hiện tại và đưa ra 
giải pháp [14]. Sáng tạo là việc tạo ra những ý tưởng mới và độc đáo [15]. Sáng tạo có thể được 
coi là quá trình tiến tới cái mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản 
phẩm mới, độc đáo và có giá trị [16]. Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kì cái gì có đồng thời tính 
mới và tính ích lợi. Cụm từ “bất kì cái gì” cho thấy kết quả sáng tạo cũng như hoạt động sáng tạo 
có thể có ở bất kì lĩnh vực nào của thế giới vật chất và thế giới tinh thần miễn “cái gì” đó có đồng 
thời tính mới và tính ích lợi. Nếu chỉ thỏa mãn một trong hai thì không được coi là sáng tạo [17]. 
Trong TKKT, sáng tạo được xác định khi học sinh đưa ra những giải pháp kĩ thuật mới, 
phù hợp, có giá trị hoặc hữu dụng [18]. Sáng tạo bao gồm tính độc đáo (tính mới) và tính hữu ích 
(khả năng áp dụng vào thực tiễn) [19, 20]. Sáng tạo kĩ thuật là quá trình tạo ra sáng chế được 
công nhận và được ứng dụng để sản xuất ra các công cụ cho cuộc sống con người [16]. Sáng chế có 
thể được xem là thiết bị, dụng cụ hay quá trình tạo ra sản phẩm sau khi nghiên cứu và thử 
nghiệm. Sản phẩm được công nhận là sản phẩm sáng chế khi nó có tính mới và tính hữu dụng. 
Các kĩ sư không chỉ giải quyết vấn đề về thẩm mĩ như các họa sĩ mà họ còn phải đưa ra giải 
pháp ngăn ngừa các vấn đề tiềm ẩn, giải quyết vấn đề dựa trên các hạn chế và thông số kĩ thuật. 
Hơn nữa, một khía cạnh khác trong sáng tạo kĩ thuật là sáng tạo chức năng, là một kiểu sáng tạo 
liên quan đến sản phẩm như hệ thống thông tin trong kinh doanh, một quy trình dịch vụ, kĩ thuật 
hoặc phương pháp (quy trình sản xuất, quy trình kiểm soát, dịch vụ hậu cần) [21]. 
Năng lực là một cấu trúc tâm lí của nhân cách phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi đặc trưng 
của từng loại hoạt động, làm cho hoạt động đạt kết quả cao trong những điều kiện nhất định. 
Năng lực gắn liền với hoạt động, được hình thành và phát triển qua hoạt động. Năng lực được 
tính bằng hiệu quả của hoạt động, không đạt hiệu quả cao thì không thể gọi là có năng lực [22]. 
Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học 
tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính 
cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,thực hiện thành công một loại hoạt động nhất 
định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể [23]. 
Dựa vào định nghĩa về năng lực và các quan điểm về sáng tạo, chúng tôi định nghĩa năng 
lực sáng tạo TKKT như sau: Năng lực sáng tạo TKKT là khả năng huy động tổng hợp các kiến 
thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân để thực hiện thành công một hoạt động tạo ra sản phẩm 
mới, độc đáo giải quyết được vấn đề một cách hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu và những hạn 
chế của kĩ thuật (bối cảnh cụ thể, kinh tế, môi trường, đạo đức). 
Đặc trưng của sáng tạo là các thuộc tính, các thuộc tính không tách rời nhau mà chúng liên 
quan mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau. 
Guilford cho rằng sáng tạo bao gồm các đặc điểm: tính lưu loát (khả năng tạo ra số lượng 
lớn ý tưởng hoặc giải pháp vấn đề), tính linh hoạt (khả năng đồng thời đề xuất nhiều cách tiếp 
cận cho một vấn đề cụ thể), tính độc đáo (khả năng tạo ra những ý tưởng mới, độc, lạ), tính chi 
tiết (khả năng hệ thống hóa và sắp xếp các chi tiết của một ý tưởng trong đầu và thực hiện nó) [24]. 
Sáng tạo bao gồm cả tư duy phân kì (tạo ra nhiều ý tưởng, giải pháp cho một vấn đề) và tư 
duy hội tụ (lựa chọn một ý tưởng, giải pháp độc đáo) [25]. 
Sáng tạo kĩ thuật bao gồm cả tư duy hội tụ và tư duy phân kì [26], ngoài ra đánh giá sáng 
tạo cũng có thể thông qua đánh giá các thuộc tính của sáng tạo: tính lưu loát (fluency), tính linh 
hoạt (flexibility), tính độc đáo (originality) và tính hữu ích (useful) [9]. 
Có nhiều quan điểm về thuộc tính của sáng tạo, chúng tôi cho rằng để học sinh phổ thông 
tự đánh giá năng lực của bản thân bằng mức độ thường xuyên thực hiện các hành vi thì sáng tạo 
kĩ thuật thể hiện rõ ràng ở tính linh hoạt, tính lưu loát, tính độc đáo và tính chi tiết qua các bài 
học STEM. Tính hữu ích sẽ được bộc lộ trong thiết kế, trong mô tả thiết kế, thông qua các vấn 
đề đã giải quyết như liệt kê được nhiều đối tượng sử dụng, phát hiện những chức năng mới và 
thường được đánh giá bởi chuyên gia do đó chúng tôi không lựa chọn tính hữu ích khi xây dựng 
Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Thị Vân Anh, Đặng Văn Sơn và Nguyễn Thị Tố Khuyên 
154 
công cụ để học sinh tự đánh giá. Trong cuốn Giáo trình tâm lí học sáng tạo đã cụ thể hóa các 
thuộc tính của sáng tạo gồm: tính độc đáo, tính thành thục, tính mềm dẻo, tính chi tiết (hoàn 
thiện), tính nhạy cảm vấn đề (Bảng 1) [16]. 
Bảng 1. Các thuộc tính của sáng tạo 
Thuộc tính Chỉ báo đánh giá 
Tính độc đáo 
(originality) 
Là sự hiếm lạ của câu trả lời, giải pháp, tính chất được phát hiện so 
với tổng số câu trả lời, giải pháp, tính chất được đưa ra 
Tính thành thục 
(fluency) 
Là số lượng các ý tưởng, giải pháp được đưa ra hay các thuộc tính 
được phát hiện. 
Tính mềm dẻo 
(flexibility) 
Là số lượng các nhóm câu trả lời, các thuộc tính, giải pháp được phát 
hiện, tạo dựng 
Tính chi tiết, hoàn 
thiện (elaboration) 
Là số lượng các ý tưởng chi tiết, cụ thể được ghi nhận 
Tính nhạy cảm vấn đề 
(problem sensibility) 
Là số lượng vấn đề, tình huống, bất ổn được phát hiện hay nghi ngờ 
Đại học Kĩ thuật và khoa học ứng dụng thuộc đại học Colorado Boulder kết hợp với Quỹ 
khoa học Quốc gia (NSF) đã đưa tra quy trình thiết kế kĩ thuật (TKKT) trên trang 
teachengineering.org bao gồm các bước: xác định sự cần thiết, nghiên cứu vấn đề, phát triển các 
giải pháp khả dĩ, lựa chọn một giải pháp khả thi, chế tạo sản phẩm mẫu, thử nghiệm và đánh giá 
sản phẩm mẫu, cải tiến. Dựa trên quy trình thiết kế kĩ thuật này và thuộc tính về sáng tạo, chúng 
tôi xây dựng công cụ tự đánh giá năng lực sáng tạo cho HS gồm 17 chỉ số hành vi được phân 
theo các nhóm thuộc tính của sáng tạo: lưu loát (LL), linh hoạt (LH), độc đáo (DD), chi tiết 
(CT). Bằng cách xem xét thuộc tính nào của sáng tạo được thể hiện trong từng bước của quy 
trình TKKT (Bảng 2), mỗi thuộc tính chúng tôi coi là một thành tố của năng lực sáng tạo. Ví dụ: 
Trong bước xác định sự cần thiết thì tính lưu loát thể hiện ở hành vi “liệt kê nhiều vấn đề có thể 
giải quyết”, tính linh hoạt thì lại được thể hiện bằng cách “xác định vấn đề giải quyết được theo 
nhiều cách tiếp cận, góc độ, phương diện” còn “nhận ra các vấn đề mới, bất cập” lại thể hiện 
tính độc đáo. 
Bảng 2. Thuộc tính của sáng tạo thể hiện trong từng bước của quy trình thiết kế kĩ thuật 
Các bước của quy trình 
thiết kế kĩ thuật 
Thuộc tính của sáng tạo 
Lưu loát Linh hoạt Độc đáo Chi tiết 
Xác định sự cần thiết LL4 LH3 DD1 
Nghiên cứu vấn đề LH5 DD2 
Phát triển các giải pháp có thể LL1, LL3 LH1 DD3 
Lựa chọn một giải pháp khả thi LL2 LH2, LH4 CT1, CT2 
Chế tạo sản phẩm mẫu CT3 
Thử nghiệm và đánh giá CT5 
Cải tiến CT4 
Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM 
155 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Công cụ tự đánh giá năng lực sáng tạo bao gồm 4 thành tố: lưu loát, linh hoạt, độc đáo, 
chi tiết. Sau khi xây dựng nhóm gồm 17 chỉ số hành vi dạng Likert bao gồm một câu mô tả 
hành vi và một cụm năm phản hồi tùy chọn. Chúng tôi mời 2 chuyên gia về kĩ thuật để đánh giá 
sự phù hợp của mỗi câu mô tả. Các mục bị đánh giá không giá trị đã bị xóa hoặc thay thế, 
những mục chưa rõ ràng được sửa đổi. Ngôn từ được xem xét để đảm bảo sự phù hợp với học 
sinh phổ thông (Bảng 3). 
- Thành tố “Lưu loát” gồm 4 chỉ số hành vi. 
- Thành tố “Linh hoạt” gồm 5 chỉ số hành vi. 
- Thành tố “Độc đáo” gồm 3 chỉ số hành vi. 
- Thành tố “Chi tiết” gồm 5 chỉ số hành vi. 
Bảng 3. Công cụ tự đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật 
(Các mức độ ghi trong Bảng 3: 1- Không bao giờ, 2- Hiếm khi; 3- Thỉnh thoảng;  ... sử dụng phương pháp trích Pricipal axis factoring với phép xoay 
Varimax. Độ tin cậy (hệ số Cronbach’s Alpha ), phân tích nhân tố khẳng định CFA để đánh giá 
sự phù hợp của công cụ. 
2.3. Kết quả và thảo luận 
Sau khi phân tích EFA, chúng tôi thu được 2 thành tố của năng lực thay vì 4 thành tố như 
ban đầu (Bảng 4). Nhận thấy các chỉ số hành vi tuân theo quá trình sáng tạo, chúng tôi đặt lại 
tên các thành tố là xây dựng ý tưởng và hoàn thiện ý tưởng. Thành tố “Xây dựng ý tưởng” gồm 
3 chỉ số hành vi: XDYT1 (LL3), XDYT2 (LL4), XDYT3 (LH2). Thành tố “Hoàn thiện ý 
tưởng” gồm 10 chỉ số hành vi: HTYT1 (LH3), HTYT2 (LH5), HTYT3 (DD1), HTYT4 (DD2), 
HTYT5 (DD3), HTYT6 (CT1), HTYT7 (CT2), HTYT8 (CT3), HTYT9 (CT4), HTYT10 (CT5). 
Khi đó, công cụ bao gồm gồm tổng cộng 13 chỉ số hành vi: xây dựng ý tưởng gồm 4 chỉ số hành 
vi và hoàn thiện ý tưởng gồm 10 chỉ số hành vi được đánh giá dưới dạng thang Likert trong đó 
học sinh lựa chọn câu trả lời phù hợp nhất. Thang Likert gồm 5 mức: Mức 1 = Không bao giờ, 
mức 2 = Hiếm khi, mức 3 = Thỉnh thoảng, mức 4 = Thường xuyên, mức 5 = Luôn luôn. Điểm 
trung bình của chỉ số hành vi thể hiện mức năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật, điểm trung bình 
càng cao thì tính sáng tạo càng cao. Công cụ này được thiết kế để đánh giá cá nhân, thời gian 
học sinh hoàn thành tất cả câu hỏi khoảng 10 - 15 phút (Bảng 4). 
Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM 
157 
Bảng 4. Công cụ tự đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật đã sửa đổi 
(Các mức độ ghi trong Bảng 4: 1- Không bao giờ; 2- Hiếm khi; 3- Thỉnh thoảng; 
 4- Thường xuyên; 5- Luôn luôn) 
Stt Nội dung 
Mức 
độ 1 
Mức 
độ 2 
Mức 
độ 3 
Mức 
độ 4 
Mức 
độ 5 
1 
Tôi liệt kê nhiều đối tượng sử dụng thiết kế/sản 
phẩm của tôi. 
     
2 
Tôi liệt kê nhiều vấn đề mà thiết kế/sản phẩm của tôi 
giải quyết được 
     
3 
Tôi sử dụng nhiều nhóm nguyên vật liệu khác nhau 
(VD: kim loại, gỗ, nhựa...) 
     
4 
Tôi xác định các vấn vấn đề mà thiết kế/sản phẩm 
của tôi giải quyết được theo nhiều cách tiếp cận, 
nhiều góc độ, phương diện 
     
5 
Tôi tìm kiếm (hỏi những người có chuyên môn, hoặc 
khảo sát...) và sử dụng các thông tin phản hồi/phê 
bình để sửa đổi, cải tiến mô hình. 
     
6 
Tôi nhận ra được các vấn đề mới, bất cập trong các 
sản phẩm đã có hoặc trong cuộc sống 
     
7 
Tôi phát hiện ra những chức năng mới của các sản 
phẩm/thiết kế đã có 
     
8 
Tôi đưa ra giải pháp mới, hiếm, lạ dựa trên sự kết 
hợp giữa kinh nghiệm và kiến thức khoa học 
     
9 
Tôi lựa chọn một ý tưởng thiết kế khả thi, sáng tạo, 
độc đáo dựa trên các phân tích, đánh giá của bản 
thân hoặc người có chuyên môn 
     
10 
Tôi cụ thể hóa ý tưởng của mình bằng bản vẽ kĩ 
thuật (ghi rõ các thông số kĩ thuật về kích thước, 
nguyên vật liệu, hình dáng....) 
     
11 
Tôi xây dựng mô hình vật chất và thử nghiệm mô 
hình đó 
     
12 
Tôi nghĩ các cách để sửa đổi, cải tiến mô hình tốt 
hơn 
     
13 
Tôi xem xét mô hình/sản phẩm của tôi đã đạt được 
mục đích và các yêu cầu thiết kế chưa 
     
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua 3 chỉ số: hệ số Cronbach’s Alpha, độ tin 
cậy tổng hợp (CR) và phương sai trích (AVE). Hệ số Cronbach’s Alpha của toàn bộ thang là 
0,92 > 0,6 (Bảng 5) đối với thành tố xây dựng ý tưởng và hoàn thiện ý tưởng lần lượt là 0,78 và 
0,919 > 0,6 (Bảng 5) và các chỉ số hành vi đều có tương quan biến tổng > 0,3 cho thấy công cụ 
có độ tin cậy cao [27]. Độ tin cậy tổng hợp (Composite reliability) của thành tố “Xây dựng ý 
tưởng” và “Hoàn thiện ý tưởng” lần lượt là 0,778 và 0,915, lớn hơn 0,5 đảm bảo tính nhất quán 
của tập hợp các chỉ số hành vi trong một thành tố [28]. Phương sai trích của mỗi thành tố cũng 
lớn hơn 0,5, cụ thể phương sai trích của thành tố “Xây dựng ý tưởng” là 0,540 và phương sai 
Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Thị Vân Anh, Đặng Văn Sơn và Nguyễn Thị Tố Khuyên 
158 
trích của thành tố “Hoàn thiện ý tưởng” là 0,520 [29]. Dựa vào các kết quả đã phân tích ở trên, 
chúng tôi nhận thấy thang đo với 2 thành tố “Xây dựng ý tưởng” và “Hoàn thiện ý tưởng” có độ 
tin cậy cao. 
Bảng 5. Tổng hợp kết quả phân tích CFA 
Tiêu chí Kết quả Đánh giá 
Tiêu chuẩn phù hợp sơ bộ 
 Không có sai số phương sai âm Tất cả đều dương Phù hợp 
 Tất cả sai số phương sai đều có ý nghĩa Tất cả đều có ý nghĩa Phù hợp 
 Tương quan giữa các biến khác +1 
hoặc -1 
0,694 Phù hợp 
 Hệ số tải nhân tố từ 0,50 đến 0,95 0,572 - 0,837 Phù hợp 
 Sai số chuẩn 0,135 - 0,168 
Tổng thể mô hình phù hợp 
 1. Absolute fit criteria 
 χ2 118,937* Không phù hợp 
 χ2/df is < 5 1,982 Phù hợp 
 RMR < 0,05 0,076 Không phù hợp 
 RMSEA < 0,08 (excellent if < 0,05; 
good if < 0,08) 
0,079 Phù hợp 
 GFI > 0,90 0,901 Phù hợp 
 AGFI > 0,90 0,850, gần bằng 0,9 Chấp nhận được 
 2. Incremental fit criteria 
 NFI > 0,90 0,901 Phù hợp 
 RFI > 0,90 0,871, gần bằng 0,90 Chấp nhận được 
 IFI > 0,90 0,948 Phù hợp 
 TLI > 0,90 0,932 Phù hợp 
 CFI > 0,90 0,948 Phù hợp 
 3. Parsimonious fit criteria 
 PGFI > 0,50 0,704 Phù hợp 
 PNFI > 0,50 0,693 Phù hợp 
 PCFI > 0,50 0,729 Phù hợp 
Tính nhất quán nội bộ 
 Ước lượng tham số có ý nghĩa thống 
kê 
t từ 1,000 tới 14,000 Phù hợp 
 SMC > 0,5 SMC từ 0,441 đến 0,678 Chấp nhận được 
 AVE > 0,50 0,540 và 0,520 Phù hợp 
 CR > 0,60 0,778 và 0,915 Phù hợp 
Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM 
159 
Kết quả phân tích CFA trên Amos (được tóm tắt trong Bảng 5) cho thấy Chi-square = 118,937, 
p = 0 < 0,05 do đó mô hình và dữ liệu không tương quan. Tuy nhiên, các chỉ số khác cho thấy 
CMIN/df =1,982 ( 0,9) do đó có thể thấy mô 
hình có sự phù hợp tuyệt đối (Absolute fit) chấp nhận được [30]. 
 Các chỉ số khác của mô hình phù hợp tăng dần: AGFI = 0,850 (gần bằng 0,9), CFI = 0,948 
(> 0,9), TLI = 0,932 (> 0,9) sự phù hợp tăng dần (Incremental fit) tốt [31]. 
Giá trị AIC và CAIC của mô hình lí thuyết thấp hơn mô hình bão hòa và mô hình độc lập 
(Bảng 5). Hơn nữa, các chỉ số rút gọn PGFI, PNGI, PCFI lần lượt là 0,704, 0,693, 0,729 lớn hơn 
0,5 do đó sự phù hợp chi tiết (Parsimonious fit) được thỏa mãn [30]. 
Cuối cùng, chúng tôi phân tích sự nhất quán của các chỉ số hành vi trong mô hình khi mô 
hình lí thuyết phù hợp với dữ liệu. SMC (Squared multiple correlation) của các biến quan sát từ 
0,441 đến 0,678 (Bảng 5). SMC của 13 chỉ số hành vi ở mức 0,5 chứng tỏ các biến tiềm ẩn được 
giải thích bởi các biến quan sát. Phương sai trích của các biến tiềm ẩn đều lớn hơn 0,5 chỉ ra 
rằng các biến tiềm ẩn có thể giải thích các biến quan sát. Độ tin cậy của các biến tiềm ẩn đều lớn 
hơn 0,6 có nghĩa là các chỉ số hành vi (biến quan sát) có tương quan cao trong mỗi thành tố. 
Kết quả phân tích trên chỉ ra rằng các thông số ước tính trong công cụ không làm biến động 
các tiêu chí cơ bản của mô hình. Ngoài ra, mô hình lí thuyết được củng cố bởi dữ liệu thực tế và 
có sự phù hợp tuyệt đối (Absolute fit) chấp nhận được; sự phù hợp tăng dần (Incremental fit) 
tốt; sự phù hợp chi tiết (Parsimonious fit) thỏa mãn. Như vậy mô hình lí thuyết của năng lực 
sáng tạo thiết kế kĩ thuật phù hợp tốt. 
Hình 1. Mô hình SEM 
Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Thị Vân Anh, Đặng Văn Sơn và Nguyễn Thị Tố Khuyên 
160 
3. Kết luận 
Chúng tôi đã phát triển và chuẩn hóa công cụ tự đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật 
cho học sinh phổ thông. Công cụ sau khi chỉnh sửa bao gồm 2 thành tố của năng lực sáng tạo 
thiết kế kĩ thuật bao gồm: xây dựng ý tưởng và hoàn thiện ý tưởng, được đánh giá dưới dạng 
thang Likert (5 mức độ) trong đó học sinh lựa chọn câu trả lời phù hợp nhất. Học sinh hoàn 
thành tất cả câu hỏi trong công cụ khoảng từ 10 - 15 phút. Điểm trung bình của tất cả các chỉ số 
hành vi càng cao thì tính sáng tạo của học sinh càng cao. 
Kết quả phân tích độ tin cậy Conbarch’s Alpha cho thấy công cụ có độ tin cậy cao đồng 
thời đảm bảo tính nhất quán của các chỉ số hành vi trong một thành tố. Kết quả phân tích 
AMOS cho thấy công cụ phù hợp với dữ liệu thực tế. Tóm lại, các kết quả xác minh trên chứng 
tỏ công cụ có tính nhất quán, đáng tin cậy và phù hợp để sử dụng cho học sinh THPT tự đánh 
giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật. Công cụ này có thể được sử dụng trong các bài học 
STEM. 
Để tăng tính độ chính xác và thực tiễn cho công cụ này, nghiên cứu cần được triển khai với 
số lượng mẫu lớn hơn, đồng đều ở cả ba khối lớp 10,11,12 đồng thời mời thêm sự tham gia 
đánh giá của các chuyên gia giáo dục và giáo viên các trường nhằm đưa ra bộ câu hỏi ngắn gọn, 
súc tích, đầy đủ và ngôn ngữ phù hợp với học sinh phổ thông. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] M. V. Bøe, E. K. Henriksen, T. Lyons, và C. Schreiner, 2011. Participation in science and 
technology: young people’s achievement‐related choices in late‐modern societies, Stud. 
Sci. Educ., Vol 47, Số p.h 1, tr. 37-72. 
[2] R. Romeike, 2007. Applying creativity in CS high school education: criteria, teaching 
example and evaluation, Proceedings of the Seventh Baltic Sea Conference on Computing 
Education Research-Volume 88, tr. 87-96. 
[3] W. Burleson, 2005. Developing creativity, motivation, and self-actualization with learning 
systems, Int. J. Hum. Comput. Stud., Vol. 63, Số. p.h 4-5, tr. 436-451. 
[4] R. M. Yasin, R. Mustapha, và A. Zaharim, 2009. Promoting creativity through problem 
oriented project based learning in engineering education at Malaysian polytechnics: 
Issues and challenges, Proceedings of the 8th WSEAS International Conference on 
Education and Educational Technology, tr. 253-258. 
[5] I. Chiu và F. A. Salustri, 2010. Evaluating design project creativity in engineering design 
courses, Proc. Can. Eng. Educ. Assoc. 
[6] A. Jolly, 2014. Six Characteristics of a Great STEM Lesson. [Online]. Available at: 
https://www.edweek.org/tm/articles/2014/06/17/ctq_jolly_stem.html. 
[7] J. P. Guilford, 1984. Varieties of divergent production. J. Creat. Behav., Vol 18, Số p.h 1, 
tr 1-10, 1984. 
[8] C. Charyton, R. J. Jagacinski, và J. A. Merrill, 2008. CEDA: A research instrument for 
creative engineering design assessment, Psychol. Aesthetics, Creat. Arts, Vol. 2, Số p.h 3, 
tr. 147. 
[9] C. Charyton và T. Cultures, 2015. Creativity and Innovation Among Science and Art. 
[10] D. K. Simonton, 2000. Creativity: Cognitive, personal, developmental, and social aspects, 
Am. Psychol., Vol 55, số p.h 1, tr 151. 
Xây dựng công cụ đánh giá năng lực sáng tạo thiết kế kĩ thuật trong giáo dục STEM 
161 
[11] H. Christiaans và K. Venselaar, 2005. Creativity in design engineering and the role of 
knowledge: Modelling the expert, Int. J. Technol. Des. Educ., Vol 15, số p.h 3, tr. 217-236. 
[12] R. J. Sternberg và T. I. Lubart, 1995. Defying the crowd: Cultivating creativity in a culture 
of conformity. Free Press. 
[13] C. Martindale, 1989. Personality, situation, and creativity, Handbook of creativity, 
Springer, tr 211-232. 
[14] T. M. Amabile, 1998. How to kill creativity. Vol. 87, Harvard Business School Publishing 
Boston, MA. 
[15] D. J. Rubenstein, 2000. Stimulating children’s creativity and curiosity: Does content and 
medium matter?. J. Creat. Behav., Vol 34, số p.h 1, tr 1-17. 
[16] Phạm Thành Nghị, 2007. Giáo trình Tâm lí học Sáng tạo. 
[17] P. Dũng, 2010. Đổi mới giáo dục và đào tạo, 
[18] E. M. Fodor và R. A. Carver, 2000. Achievement and power motives, performance 
feedback, and creativity. J. Res. Pers., Vol. 34, số p.h 4, tr 380-396. 
[19] J. J. Shah, S. M. Smith, và N. Vargas-Hernandez, 2003. Metrics for measuring ideation 
effectiveness, Des. Stud., Vol 24, số p.h 2, tr 111-134. 
[20] G. Thompson và M. Lordan, 1999. A review of creativity principles applied to engineering 
design, Proc. Inst. Mech. Eng. Part E J. Process Mech. Eng., Vol 213, số p.h 1, tr 17-31. 
[21] D. Cropley và A. Cropley, 2005. Engineering creativity: A systems concept of functional 
creativity, Creativity across domains, Psychology Press, 187-204. 
[22] Đ. H. Trà, 2012. Các kiểu tổ chức dạy học hiện đại trong dạy học vật lí ở trường phổ 
thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[23] Bộ GD-ĐT, 2018. Chương trình Giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể, tr 37. 
[24] J. P. Guilford, 1976. Aptitude for creative thinking: one or many?. 
[25] P. C. Cheung, S. Lau, T. Lubart, D. H. W. Chu, và M. Storme, 2016. Creative potential of 
Chinese children in Hong Kong and French children in Paris: A cross-cultural 
comparison of divergent and convergent-integrative thinking, Think. Ski. Creat., Vol. 22, 
tr. 201-211. 
[26] C. Charyton và J. A. Merrill, 2009. Assessing general Creativity and Creative engineering 
Design in first year engineering students. Journal of Engineering Education, Vol. 98, số 
p.h 2. tr. 145-156. 
[27] J. Nunnally và I. Bernstein, 1994. Psychometric Theory, 3rd edn, McGraw-Hill, New York. 
[28] R. E. Schumacker, 2006. Teacher’s Corner: Conducting Specification Searches With 
Amos, Struct. Equ. Model., Vol. 13, số p.h 1, tr 118-129. 
[29] J. F. Hair, R. E. Anderson, R. L. Tatham, và W. C. Black, 1998. Multivariate data analysis 
with readings (5nd ed.). 
[30] J. F. Hair Jr, W. C. Black, B. J. Babin, và R. E. Anderson, 2010. Multivariate data analysis 
(7th edition): Pearson Education Inc, New Jersey, USA. 
[31] A. Zainudin, 2012. A handbook on SEM: Structural equation modelling using amos 
graphics, Struct. Equ. Model. 
Nguyễn Văn Biên, Nguyễn Thị Vân Anh, Đặng Văn Sơn và Nguyễn Thị Tố Khuyên 
162 
ABSTRACT 
Reliability and validity an instrument to assess creative competency 
in engineering design on stem education 
Nguyen Van Bien
1*
, Nguyen Thi Van Anh
1,2
, Dang Van Son
3,4
, Nguyen Thi To Khuyen
2
1
Physics Department, Hanoi National University of Education, 
2
 Military University of Culture & Arts, 
3
S
3
 Academy for Creation, 
4
Nano and Energy Centre, VNU-Hanoi University of Science, 
Creativity is an important capability in the 21st century that human beings need to have in 
order to meet complex future challenges. It also plays an important role in integrated STEM 
lessons (science, technology, engineering and math) development according to the technical 
design process. Therefore, it is essential to have a tool to evaluate creativity in the technical 
design through STEM lessons. Our research aims to design such kind of tool, Data used in this 
research was collected from 160 high school students in the North and Central of Vietnam. In 
order to determine the value of the scale, reliability analysis, discovery factor analysis (EFA) 
and confirmatory factor analysis (CFA) were utilized. The results of the analysis show that the 
tool has high reliability and appropriate value to use in creativity assessment. By using this tool, 
students can assess their own creativity in technical design. Further research direction is also 
proposed in the conclusion section of the article. 
Keywords: Creativity competency, engineering design, Likert behavioral indicators. 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_cong_cu_danh_gia_nang_luc_sang_tao_thiet_ke_ki_thua.pdf