Giáo trình Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

1. Khái niệm

+ Định nghĩa: Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo (QLNN về GD& ĐT là

việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ tác hoạt

đóng GD&ĐT trong phạm vi loàn ra hòi nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà

nước

QLNN về GD-ĐT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà

nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản lí có trách nhiệm về giáo dục

của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ

theo qui định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT, duy trì kỉ cương? thoả

mãn nhu câu GD-ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GD-ĐT của nhà nước.

+ Những yếu tố chủ yếu trong quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.

. Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT nổi lên 3 bộ phận chính, đó là chủ thể của

QLNN về GD&ĐT; Khách thể cua QLNN về GD&ĐT; Mục tiêu giáo dục và đào tạo.

. Chủ thể QLNN về GD&ĐT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập pháp.

hành pháp) được quy định ở điều 87 của Luật Giáo dục.

. Khách thể của QLNN về GD&ĐT là HIGDQD và mọi hoạt động GD-ĐT trong

phạm vi toàn xã bội.

. Mục tiêu GD&ĐT: về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự kỷ cương trong các

hoạt động GD-ĐT, để thực hiếm được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân; Tuy nhiên

ở mỗi cấp học, bậc học đã được cụ thể hoá mục tiêu trong Luật GD và điều lệ các nhà

trường

+ Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT còn phải kể tới 2 yếu tố quan trọng trong

việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, đó là công cụ và phương pháp

trong quản lý hành chính nhà nước về GD&ĐT:

. Công cụ chủ yếu trong QLHCNN là hệ thống các văn bản pháp luật, do đó công

tác thể chế tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động QLNN vế GD-ĐT

. Phương pháp QLHCNN chủ yếu là phương pháp Hành chính, tổ chức.

Như vậy ta có thể hiểu khái niệm QLNN về GD-ĐT dưới dạng phát biếu khác.

QLNN về GD-ĐT là sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của

bộ giáo dục từ trung ương đến cơ sở lên HTGĐQD và các hoạt động GD của xã hội

nhằm nâng cao dân trí - đào tạo lực- bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn4

thiện nhân cách cho công dân.

Cần lưu ý rằng, QLNN là việc thực thi ba quyền : Lập pháp - Hành pháp - Tư

pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân. Còn QLNN về

GD&ĐT thực chất là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều hành và điều chỉnh

mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để quản lý có hiệu lực

và hiệu quả, việc sử dụng quyền hành pháp phải kết hợp với quyền lập pháp, lập qui và

hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống.

pdf 75 trang yennguyen 5080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

Giáo trình Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
NGUYỄN VĂN HỘ 
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ 
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
Thái Nguyên-2006 
 2
MỤC LỤC 
Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ 
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ..........................................................................................3 
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO......................................3 
1. Khái niệm ...........................................................................................................................3 
2. Một số tính chất của QLNN về GD-ĐT. ............................................................................4 
3. Một số đặc điểm của QLNN về GD-ĐT. ...........................................................................4 
4. Một số nguyên tắc QLNN về GD&ĐT cần lưu ý : ............................................................6 
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QLNN VỀ GD&ĐT. ...............................10 
1. Những nội dung cơ bản của QLNN về GD-ĐT theo điều 86 Luật Giáo dục...................10 
2. Những nội dung chủ yếu của QLNN về GD&ĐT............................................................11 
3. Thực trạng, phương hướng đổi mới và biện pháp thực hiện QLNN về GD&ĐT. ...........13 
4. Những nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2010........................................14 
Phần thứ 2: QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC ..................................................16 
I - CÁC CHỨC NĂNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC.......................................................17 
1. Kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục ...............................................................................19 
2. Tổ chức trong quản lý giáo dục ........................................................................................28 
3. Điều khiển (chỉ đạo thực hiện) trong quản lý giáo dục ....................................................37 
4. Kiểm tra trong quản lý giáo dục .......................................................................................48 
II - THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC .................................................53 
1 . Mục đích của thông tin ....................................................................................................53 
2. Các loại thông tin quản lý giáo dục ..................................................................................55 
3. Những yêu cầu đối với thông tin quản lý giáo dục...........................................................55 
4.Thông tin dự đoán..............................................................................................................57 
III - HỆ THỐNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ GIÁO DỤC.....................................59 
IV- CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ................................................68 
1. Khái niệm và yêu cầu của việc sử dụng phương pháp quản lý giáo dục.........................68 
2. Các phương pháp quản lý giáo dục chủ yếu.....................................................................70 
V - CÔNG CỤ QUẢN LÝ GIÁO DỤC .....................................................................73 
1. Các loại công cụ trong quản lý giáo dục ..........................................................................74 
2. Yêu cầu đối với hệ thống công cụ quản lý giáo dục.........................................................74 
3. Đổi mới và nâng cao năng lực vận hành hệ thống công cụ quản lý giáo dục ..................75 
 3
Phần thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ 
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
1. Khái niệm 
+ Định nghĩa: Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo (QLNN về GD& ĐT là 
việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ tác hoạt 
đóng GD&ĐT trong phạm vi loàn ra hòi nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà 
nước 
QLNN về GD-ĐT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà 
nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản lí có trách nhiệm về giáo dục 
của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ 
theo qui định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT, duy trì kỉ cương? thoả 
mãn nhu câu GD-ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GD-ĐT của nhà nước. 
+ Những yếu tố chủ yếu trong quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. 
. Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT nổi lên 3 bộ phận chính, đó là chủ thể của 
QLNN về GD&ĐT; Khách thể cua QLNN về GD&ĐT; Mục tiêu giáo dục và đào tạo. 
. Chủ thể QLNN về GD&ĐT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập pháp. 
hành pháp) được quy định ở điều 87 của Luật Giáo dục. 
. Khách thể của QLNN về GD&ĐT là HIGDQD và mọi hoạt động GD-ĐT trong 
phạm vi toàn xã bội. 
. Mục tiêu GD&ĐT: về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự kỷ cương trong các 
hoạt động GD-ĐT, để thực hiếm được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi 
dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân; Tuy nhiên 
ở mỗi cấp học, bậc học đã được cụ thể hoá mục tiêu trong Luật GD và điều lệ các nhà 
trường 
+ Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT còn phải kể tới 2 yếu tố quan trọng trong 
việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, đó là công cụ và phương pháp 
trong quản lý hành chính nhà nước về GD&ĐT: 
. Công cụ chủ yếu trong QLHCNN là hệ thống các văn bản pháp luật, do đó công 
tác thể chế tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động QLNN vế GD-ĐT 
. Phương pháp QLHCNN chủ yếu là phương pháp Hành chính, tổ chức. 
Như vậy ta có thể hiểu khái niệm QLNN về GD-ĐT dưới dạng phát biếu khác. 
QLNN về GD-ĐT là sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của 
bộ giáo dục từ trung ương đến cơ sở lên HTGĐQD và các hoạt động GD của xã hội 
nhằm nâng cao dân trí - đào tạo lực- bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn 
 4
thiện nhân cách cho công dân. 
Cần lưu ý rằng, QLNN là việc thực thi ba quyền : Lập pháp - Hành pháp - Tư 
pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân. Còn QLNN về 
GD&ĐT thực chất là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều hành và điều chỉnh 
mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để quản lý có hiệu lực 
và hiệu quả, việc sử dụng quyền hành pháp phải kết hợp với quyền lập pháp, lập qui và 
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống. 
2. Một số tính chất của QLNN về GD-ĐT. 
QLNN về GD-ĐT là QLNN về một ngành, một lĩnh vực cụ thể nhưng nó cũng có 
những tính chất của QLNN và QLHCNN nói chung, ở đây chỉ xin nhắc lại năm tính 
chất cần lưu ý, đó là: 
+ Tính lệ thuộc vào chính trị: QLNN về GD phụ tùng và phục vụ nhiệm vụ chính 
trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước. 
+ Tính XH: GD là sự nghiệp của NN và của toàn XH. Trong QLNN về GD cần 
phải coi trọng tính XH hoá và dân chủ hoá GD (DCH GD). GD&ĐT luôn phát triển 
trong mối quan hệ với sự phát triển của KT-XH vì vậy QLNN về GD cần lưu ý tính 
chất này để có những điều chỉnh phù hợp. 
+ Tính pháp quyền: QLNN là QL bằng pháp luật; QLNN về GD cũng phải tuân 
thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho mọi hoạt động QL các hoạt động 
GD-ĐT. Tăng cường pháp chế XHCN. 
+ Tính chuyên môn nghiệp vụ: Công chức hoạt động trong lĩnh vực GD-ĐT cần 
phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch, bậc đã được quy định. 
Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn mà nhà nước đã ban hành. 
+ Tính hiệu lực, hiệu quả: Lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn-nghiệp vụ để 
đánh giá cán bộ công chức, viên chức ngành GD-ĐT; Chất lượng, hiệu quả và sự bảo 
đảm trật tự kỷ cương trong GD-ĐT là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở 
GD-ĐT và của các cơ quan QLNN về GD-ĐT. 
3. Một số đặc điểm của QLNN về GD-ĐT. 
Ở phần tính chất nêu trên chúng ta đã điểm qua một số tính chất của QLNN về 
GD&ĐT, tuy nhiên trong mỗi tính chất có những nét đặc biệt riêng có thể được nhấn 
mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý. Trên cơ sở nhận thức đó cần 
nhấn mạnh ba đặc điểm chủ yểu sau: 
+ Đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt 
động quản lý giáo dục (đặc điểm HC-GD). Nó vừa theo nguyên tắc quản lý hành 
chính nhà nước đối với hoạt động của quản lý giáo dục, vừa theo nguyên tắc hành 
chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục. Hành chính - giáo dục thực chất là triển 
 5
khai chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà nước qui định (phân cấp, phân công hoặc 
uỷ quyền), Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà nước triển khai sự nghiệp GD&ĐT và 
điều hành, điều chỉnh các hoạt động GD-ĐT. QLHC thực chất là việc xây dựng các 
văn bản pháp quy và chấp hành các văn bản. Kết hợp với quản lý giáo dục là đưa việc 
xây dựng các văn bản cho các hoạt động chuyên môn của giáo dục và làm cho một 
người hiểu, biết được các qui định của văn bản để thực hiện cho đúng. 
Ví dụ: Từ quy định của Bộ GD&ĐT về việc soạn bài, giảng bài, chấm bài .v.v. 
Cơ quan Sở, Phòng GD&ĐT thậm chí đến hiệu trưởng nhà trường sẽ có những quy 
định chi tiết hơn về các vấn đề đó để đảm bảo tính cụ thể, thiết thực và phù hợp với địa 
phương và cơ sở giáo dục, trên cơ sở đó giáo viên chấp hành thực hiện các quy định về 
chuyên môn. Đó chính là cách làm “hành chính hoá” các hoạt động chuyên môn 
Như vậy, Đặc điểm HC- GD là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí 
nhà nước về GD-ĐT nhằm bảo đảm môi trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện 
được mục tiêu giáo dục mà Nhà nước quy định. 
Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các CBQLGD 
giải quyết tốt mối quan hệ ngành- lãnh thổ trong hoạt động QLGD. Chỉ đạo hay quản 
lý các hoạt động GD-ĐT trên 1 địa bàn cần phải hiểu rõ nghiệp vụ SP, đặc điểm của 
quá trình GD để chỉ đạo, quản lý chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp QLHC và 
QLCM thì mới có thể chỉ đạo, quản lý tốt hoạt động GD-ĐT tiến tới thực hiện tốt mục 
tiêu GD-ĐT của Nhà nước. 
+ Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí. 
Đặc điểm thứ hai của QLNN về GD-ĐT cũng là đặc điểm nổi bật của QLNN và 
QLHCNN nói chung ở mọi lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt 
đóng quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở 3 vấn đề cơ bản sau : 
. Điều kiện để triển khai quản lí nhà nước là phải có tư cách pháp nhân và yêu 
cầu về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp nhân để 
quản lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần phải thực hiện đúng, đủ chức 
năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng 
chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết 
định quản lí trước tập thể và cấp trên. Trong QLNN sẽ không có tư cách pháp nhân để 
"ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều có trách 
nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho đúng, làm cho đủ “thẩm quyền” là 
thước đo khả năng “sử dụng quyền lực nhà nước” của một tư cách pháp nhân. Trong 
thực tế “Phép vua thua lệ làng”, “thủ kho to hơn thủ trưởng” đều phát sinh do không 
nhận thức đúng “tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí”. “Thoái 
quyền” và “lạm quyền” là hai thái cực của sự vi phạm “thẩm quyền”, mặt khác khái 
niệm “thẩm quyền” cũng gắn với sự phân cấp và tuân hủ thứ bậc chặt chẽ trong 
QLNN. 
 6
. Phương tiện QLNN về GD-ĐT là các văn bản pháp luật và pháp qui. Phương 
pháp chủ yếu để QLNN là phương pháp Hành chính - Tổ chức (HC-TC). Cần nhận 
thức rằng tháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và nhà 
nước; phản ánh lợi ích của toàn dân, vì vậy đây chính là lành lang pháp lí cho việc 
triển khai các hoạt động QLGD, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc 
không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt động QLGD tức là vi phạm trật tự kỳ 
cương và sẽ bị xử lí theo tuy định của pháp luật. 
. Trong QLNN phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự phân cấp 
rõ ràng và mệnh lệnh - phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong QLNN. 
Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc CBQL GD cấp phòng cần nhận 
thức đầy đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung 
ương trong quá rình QLGD. 
+ Đặc điểm kết hợp Nhà nước-xã hội trong quá trình triển khai QLNN về GD. 
Chúng ta đều biết GD&ĐT là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta 
cũng đã nhấn mạnh tư tưởng GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn 
dân. 
Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính 
chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và QLGD 
nói riêng; rất nhiều bài toán QLGD sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự tham gia của 
đông đảo lực trong xã hội. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong 
QLGD. 
Tóm lại : QLNN về GD&ĐT là thực hiện chức năng - nhiệm vụ thẩm quyền do 
Nhà nước qui định, phân cấp trong các hoạt động QLGD. Ở một cơ sở giáo dục, 
QLNN về GD&ĐT thực chất là quản lí các hoạt động HC-GD, vì vậy nó có hai mặt 
quản lí thâm nhập vào nhau, đó là QLHC sự nghiệp giáo dục và QLCM trong quá trình 
sư phạm: Chính vì vậy, QLNN về GD&ĐT cần lưu ý các đặc điểm nêu trên.. 
4. Một số nguyên tắc QLNN về GD&ĐT cần lưu ý : 
Trong phần QLNN, QLHCNN và lí luận QLGD có nêu một số nguyên tắc cơ bản 
trong quản lý. Ở đây xin nhấn mạnh hai nguyên tắc cần được lưu ý trong việc triển 
khai các hoạt động QLNN về GD&ĐT. 
+ Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ. 
Mọi cơ sở giáo dục - nhà trường thực hiện chức năng, nhiệm vụ GD-ĐT theo sự 
chỉ đạo của các cơ quan quản lý giáo dục đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy 
cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo qui định phân cấp của 
Nhà nước. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn đạt 
như sau: Sự nghiệp GD&ĐT, HTGDQD là một thể thống nhất. Bộ GD&ĐT là cơ quan 
QLNN về GD&ĐT thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương 
 7
QLNN về GD&ĐT thông qua cơ quan chuyên môn của mình theo chức năng, nhiệm 
vụ, quyền hạn do Nhà nước qui định phù hợp với cơ chế phân cấp. Để thực hiện được 
điều đó Nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ quyển hạn của ngành và địa phương 
như sau: 
. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA BỘ GD-ĐT được qui định ở Nghị định 
85/2003/NĐ-CP, ngày 18/7/2003. Ví dụ: 
(1) Về giáo dục đại học. 
. Trình Chính phủ: cơ cấu ngành đào tạo, cơ cấu đầu tư và các chính sách về bảo 
đảm chất lượng đào đào CĐ, ĐH và sau ĐH; chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức thực hiện sau 
khi dược phê duyệt; 
. Quy định chương trình khung GD ĐH, nội dung, phương pháp đào tạo SĐH, 
chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh 
kiểm tra các trường đại học, cao đẳng trong việc xây dựng chương trình đào tạo theo 
chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành, kiểm tra các cơ sở đào tạo SĐH thực 
hiện chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; 
(2) Về giáo dục trung học chuyên nghiệp. 
. Trình Chính phủ: cơ cấu ngành đào tạo, cơ cấu đầu tư và các chính sách về bảo 
đảm chất lượng đào đào THCN; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện sau khi được phê 
duyệt: 
. Quyết định danh mục đào tạo ngành nghề đào tạo THCN: phối hợp với các bộ 
chuyên ngành quy định chương trình khung về GDTHCN; 
. Hướng dẫn, kiểm tra các b ... phân loại khác nhau. Chẳng hạn : dựa theo nói đúng có phương pháp hành chính. 
phương pháp kinh tế, phương pháp pháp luật, phương pháp xã hội ; dựa theo chức 
năng có các phương pháp lãnh đạo của Đảng, phương pháp quản lý của Nhà nước 
phương pháp hoạt động của đoàn thể quần chúng ; dựa theo cấp bậc có phương pháp 
quân lý của cấp cao, cấp trung gian, cấp cơ sở ; dựa theo đặc trưng của đối tượng quản 
lý có phương pháp quản lý tài chính, phương pháp quản lý chuyên món ;v.v Tuy 
nhiên, việc đi sâu vào vấn đề phân loại phương pháp quản lý là vấn đề không đơn giản, 
vả lại cũng không phải là mục tiêu của cuốn sách này. 
Trong quản lý giáo dục, cách phân loại được áp dụng nhiều và tỏ ra phù hợp là 
cách phân loại dựa vào nội dung và thường được chia thành ba loại phương pháp chủ 
yếu là : phương pháp hành chính - pháp luật, phương pháp giáo dục - tâm lý và 
phương pháp kích thích. 
a) Phương pháp hành chính -pháp luật 
Phương pháp hành chính - pháp luật là tổng thể các tác động trực tiếp hoặc gián 
tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý dựa trên cơ sở quan hệ tổ chức và 
quyền lực nhà nước. 
Các mối quan hệ tổ chức và quyền uy xuất hiện ở tất cả các tổ chức giáo dục, các 
cấp bậc quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục. Đặc trưng cơ bản của phương pháp 
này là sự cưỡng bức đơn phương của chủ thể quản lý. Quan hệ ở đây là quan hệ giữa 
quyền uy và phục tùng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cá nhân và tổ chức. Cấp trên ra 
lệnh, cấp dưới buộc phải chấp hành. 
 Có nhiều hình thức thực hiện phương pháp này đó là : luật (như Luật Giáo dục), 
điều lệ (như Điều lệ trường Trung học cơ sở), Quy chế (như Quy chế tổ chức và hoạt 
động của các trường dân lập), nghị quyết, quyết định, chỉ thị (như Chỉ thị đầu năm học 
của Bộ trưởng), các văn bản hành chính, mệnh lệnh... . 
Phương pháp hành chính - pháp luật được sử dụng nhằm hai mục đích chính : tổ 
chức và điều chỉnh. Nhằm mục đích thứ nhất, chủ thể quản lý ban hành các văn bản 
pháp quy quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức giáo dục (ví dụ, Điều lệ 
trường Trung học cơ sở quy định mục đích, mục tiêu, quy mô, cơ cấu tổ chức, nội 
dung hoạt động nhà trường ; vai trò, nhiệm vụ của giáo viên: học sinh, cán bộ công 
 71
nhân viên ; trách nhiệm. quyền hạn của hiệu trưởng nhà trường), quy định quan hệ 
hoạt động trong nội bộ cũng như các đối tượng quản lý với các chủ thẻ khác. Ví dụ 
như : quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thuốc Bộ Giáo dục và Đào tạo ; 
cơ cấu tổ chức, quan hệ giữa các cơ quan trong Bộ ; đề ra quy chế hoạt động của các 
bộ phận phù hợp với luật pháp và các thể chế pháp luật khác (như Luật Bảo vệ, chăm 
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bảo vệ môi trường, Luật doanh nghiệp ). Nhằm mục 
đích thứ hai, chủ thể quản lý thông qua các hình thức như chỉ thị, mệnh lệnh hành 
chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ theo phương hướng nhất định 
nhằm bảo đảm sự đúng hướng, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Ví dụ như 
chỉ thị về dạy thêm, học thêm nhằm uốn nắn những lệch lạc, làm giảm uy tín của nhà 
trường và của giáo viên. 
Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp này như đã nêu ở trên, việc sử dụng nó 
phải bảo đảm các yêu cầu sau : 
- Xác định rõ căn cứ khoa học của quyết định hành chính sẽ ban hành ; 
- Cân nhắc đầy đủ các lợi ích của các bên có liên quan khi thực hiện quyết định, 
tránh một chiều và nhất là thiếu khách quan, chỉ nghĩ đến lợi ích của chủ thể quản lý ; 
- Nắm vững thực trạng của đối tượng quản lý, bảo đảm có những thông tin đầy 
đủ về vấn đề liên quan đến quyết định ; 
 - Sử dụng phương pháp hành chính - pháp luật phải gắn chặt với quyền hạn, 
trách nhiệm của người ra quyết định ; 
- Quyết định phải rõ ràng, dứt khoát, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện ; 
- Cần chú ý khắc phục nhược điềm của phương pháp này, đó là việc dễ gây tình 
trạng hành chính quan liêu, nặng giấy tờ, quyết định không đủ căn cứ, thiếu thông tin 
cần thiết, gây tổn thất không nhỏ cho tồ chức. Từ đó xuất hiện kiểu người lạm dụng 
quyền hành, nhưng lại chạy trốn trách nhiệm trước tổ chức. 
b) Phương pháp giáo dục -tâm lý 
Phương pháp giáo dục - tâm lý là tổng thể những tác động lên trí tuệ, tình cảm, ý 
thức và nhân cách của con người. Mục đích của phương pháp này là thông qua. những 
mối quan hệ liên nhân cách tác động lên con người nhằm cung cấp, trang bị thêm hiểu 
biết, hình thành những quan điểm đúng đắn, năng cao khả năng, trình độ thực hiện 
nhiệm vụ của họ ; đồng thời chuẩn bị tư tưởng, tình cảm, ý thức trách nhiệm, ý thức tự 
giác, tự chủ, lòng kiên trì, tinh thần tự chịu trách nhiệm, không khí lành mạnh, trong 
tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ. 
Trong quản lý giáo dục, phương pháp- này được sử dụng nhiều, một phần do đặc 
điểm của môi trường hoạt động giáo dục : phần khác, do tính hiệu quả cao của nó. 
Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, làm cho con người hiểu rõ đúng - 
sai, phải – trái, tốt - xấu, lợi - hại, thiện – ác để từ đó nâng cao tính tự giác làm việc 
 72
và sự gắn bó với tổ chức. Cơ sở khách quan của phương pháp này là các quy luật nhân 
thức - tư duy: các quan hệ và quy luật tâm lý - giáo dục - xã hội ; trong khi đó, hoạt 
động quản lý giáo dục lại diễn ra trong môi trường giáo dục, môi trường đụng chạm 
nhiều đến học thuật, chính vì thế mà phương pháp giáo dục - tâm lý được sử dụng 
nhiều trong quản lý giáo dục. 
Yêu cầu của việc sử dụng phương pháp này là : 
- Coi trọng nhân cách con người ; 
- Chú trọng việc phân tích cơ sở khoa học của các quyết định quản lý, tạo sự 
thống nhất trong quan niệm và hành động của các thành viên trong tổ chức . 
- Thuyết phục bằng lý trí, tình cảm, xây dựng lòng tin giữa chủ thể quản lý và đối 
tượng bị quản lý ; 
- Hình thành niềm tự hào vè tổ chức của mình, lòng tự tin vào bản thân trong các 
thành viên của tổ chức ; 
- Tạo nền nếp, thói quen, tập quán, nói rộng ra là tạo thành văn hoá trong tổ chức. 
trong đó có văn hoá quản lý giáo dục. 
c) Phương pháp kích thích 
Phương pháp kích thích là tổng thể những tác động đến con người thông qua lợi 
ích vật chất, lợi ích tinh thần nhằm phát huy ở họ tiềm năng, trí tuệ, tình cảm, ý chí, 
trách nhiệm và quyết tâm hành động vì lợi ích chung của tổ chức. 
Những kích thích về vật chất có thể kể như : các thang, bậc lương, tiền thưởng, 
điều kiện sinh hoạt, lao độngcó ý nghĩa tích cực đối với con người, khiến họ lao 
động nhiều hơn, tốt hơn, có năng suất hơn để có những cống hiến xứng đáng cho tập 
thể. Trong thực tiễn, giáo dục đã và đang tồn tại những kích thích này : tăng lương 
trước thời hạn cho giáo lên giỏi: thưởng tiền cho những giáo viên có học sinh đoạt giải 
quốc gia, quốc tế ,v.v 
Những kích thích về tinh thần có thể kể : phong danh hiệu thi đua, danh hiệu giáo 
viên giỏi các cấp: nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân, v.v Ngoài ra, các kích thích về 
chính trị (như kết nạp Đảng), về khoa học (như tạo điều kiện cho giáo viên đi học sau 
đại học), v.vcũng thuộc loại kích thích tinh thần. 
Điều cần lưu ý là cần kết hợp các kích thích vật chất và tinh thần trong quá trình 
quản lý. Quá coi trọng kích thích vật chất sẽ tầm thường hoá con người, vả lại cũng 
không phù hợp với môi trường giáo dục, trong đó phần lớn những trí thức hoạt động. 
Ngược lại quá coi trọng kích thích tinh thần sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Nói như 
V.G. Afanaxep : "Tuyệt đối hoá những kích thích về vật chất, sẽ có thể làm nảy sinh 
những khuynh hướng tư hữu và tính tham lam. Còn bản thân những khuyến khích về 
tinh thần không tự nó góp phần trực tiếp thoả mãn những nhu cầu về vật chất của con 
người, và vì thế, không thể đưa lại hiệu lực lớn nhất cho việc nâng cao tính tích cực 
 73
lao động sản xuất của con người. Chỉ có sự thống nhất, sự tác động lẫn nhau, một mặt 
là những khuyến khích vật chất và mặt khác là những khuyến khích tinh thần, mới 
thúc đẩy, nâng cao không ngừng tính tích cực lao động, nâng cao năng suất lao động 
và của cải xã hội, và mặt khác mới là cội nguồn tăng phúc lợi cho nhân dân, phát triển 
toàn diện con người xây dựng diện mạo tinh thần và tư tưởng cao cả của anh ta"1. 
Các phương pháp quản lý giáo dục trình bày trên đây xem như những gợi ý đối 
với các nhà quản lý. Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý cần sử dụng kết hợp 
các phương pháp, bởi những lý do sau : 
- Phương pháp nào cũng có ưu điểm và nhược điểm riêng. Việc đề cao quá mức 
bất kỳ phương pháp nào và lạm dụng nó đều rất dễ dẫn đến kém hiệu quả trong quản 
lý. 
- Đối tượng quản lý chịu sự tác động của hàng loạt quy luật khác nhau, mỗi 
phương pháp chỉ có tác dụng ưu trội phù hợp với một vài quy luật nhất định. 
- Hệ thống quản lý, về thực chất là một chỉnh thẻ bao gồm các bộ phận hợp thành 
có quan hệ tương tác, gắn bó hữu cơ với nhau. Do đó một phương pháp quản lý cụ thể 
nào đó không thể cùng một lúc tác động có hiệu quả đến tất cả các mối quan hệ trong 
hệ thống quản lý. 
- Vả lại, đối tượng quản lý giáo dục là con người, mà bản chất của nó lại là tổng 
hoà các quan hệ xã hội. Bởi vậy chỉ có sự kết hợp các phương pháp quản lý mới có thể 
tạo ra sức mạnh tổng hợp làm thay đổi trạng thái quản lý như mong muốn của chủ thể 
quản lý. 
Thực tiễn chỉ đạo giáo dục đã cho ta rất nhiều bài học rút ra từ việc vận dụng kết 
hợp các phương pháp quản lý giáo dục. Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, chủ 
trương đổi mới giáo dục, chủ trương phổ cập giáo dục và rất nhiều chủ trương giáo dục 
khác được thực hiện thành công trên khắp đất nước ta là minh chứng rõ rệt về việc sử 
dụng phối hợp nhiều phương pháp quản lý : vừa tuyên truyền, thuyết phục, giải thích, 
vừa kết hợp các biện pháp hành chính quy định trách nhiệm, quyền hạn của các chủ 
thể tham gia, lại vừa sử dụng các phương pháp khuyến khích vật chất và tinh thần 
nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của quần chúng trong và ngoài ngành giáo dục tích 
cực tham gia phải triển sự nghiệp giáo dục. 
V - CÔNG CỤ QUẢN LÝ GIÁO DỤC 
Công cụ quản lý giáo dục là những phương tiện, những giải pháp của chủ thể 
quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hoà, phối hợp và đánh giá kết quả 
hoạt động của các thành viên trong tổ chức giáo dục hướng vào việc thực hiện mục 
1. V. G. Afanaxep : Con người trong quản lý xã hội, Tập 2. NXB Khoa học xã hội. Hà 
Nội. 1979. tr. 81. 
 74
tiêu đề ra. 
1. Các loại công cụ trong quản lý giáo dục 
a) Công cụ có tính pháp lý như : luật pháp, pháp lệnh, nghị quyết, các chính sách, 
các vãn bản của các cơ quan có chức năng và thẩm quyền nhà nước ban hành (ví dụ : 
Nghị quyết của Đảng về giáo dục và các vấn đề liên quan, Luật Giáo dục, Nghị quyết 
của Quốc hội, Chỉ thị của Chính phủ, Chính sách đối với giáo viên công tác ở các 
vùng khó khăn, ). 
b) Công cụ theo lĩnh vực quản lý như : công cụ quản lý ngành, công cụ quản lý 
của các ngành liên quan đến giáo dục, công cụ quản lý liên ngành, do cơ quan chức 
năng ban hành (ví dụ : Chỉ thị của Bộ trưởng về nhiệm vụ năm học, Chế độ khen 
thưởng đối với giáo viên, Thông tư liên bộ hướng dẫn tổ chức và hoạt động của các 
trường tư thục, Hướng dẫn phân bổ ngân sách giáo dục,). 
c) Công cụ kinh tế, kỹ thuật như : công cụ hạch toán chi tiêu trong giáo dục, công 
cụ thống kê, xác suất,  (ví dụ : Hướng dẫn chi tiêu trong giáo dục, Hướng dẫn thống 
kê giáo dục, ). 
d) Công cụ quản lý theo nội dung và quá trình quản lý như : công cụ quản lý 
chuyên môn, công cụ kiểm tra đánh giá, công cụ điều chỉnh hoạt động( ví dụ : Chỉ 
thị của Bộ trưởng về thi tốt nghiệp các cấp. Hướng dẫn tuyển chọn, bồi dưỡng học 
sinh giỏi. Chỉ thị về tổ chức và quản lý dạy thêm, học thêm, Quy chế, Nội quy, Quyết 
định của hiệu trưởng nhà trường, Kế hoạch năm học). 
Trên đây là một số loại công cụ chủ yếu được sử dụng trong quản lý giáo dục. 
Trong thực tế còn nhiều loại công cụ quản lý khác dựa theo các tiêu chí khác nhau. 
Nhưng tác giả thấy không cần thiết nêu cụ thể trong sách này. 
2. Yêu cầu đối với hệ thống công cụ quản lý giáo dục 
Có bốn yêu cầu cụ thể như dưới đây : 
a) Công cụ quản lý phải được luận chứng đầy đủ dựa trên cơ sở khoa học (lý luận 
và thực tiễn) trước khi ban hành. Ví dụ trước khi ban hành Chỉ thị về tổ chức và quản 
lý dạy thêm, học thêm cần phải xem xét thực trạng, bản chất, mặt tích cực, mặt tiêu cực 
nguyên nhân, hậu quả, v.v của nó để từ đó ban hành chỉ thị kèm theo các điều kiện 
thực hiện cụ thể. 
b) Phù hợp với thực tế, mang tính khả thi và hiệu quả. Ví dụ như để thực hiện 
chủ trương phổ cập giáo dục phải có chính sách khác nhau phù hợp với đặc điểm, khả 
năng và điều kiện đối với các vùng miền khác nhau. 
c) Bảo đảm tính ổn định tương đối của hệ thống công cụ quản lý và có xu hướng 
phát triển và hoàn thiện trong tương lai. Một chủ trương hoặc chính sách giáo dục phải 
 75
ổn định trong một thời gian nhất định. Nhà quản lý kiểu "nhất dạ bách kế" chỉ dẫn đến 
tình trạng tổ chức mất phương hướng, làm mất lòng tin của thuộc cấp. 
d) Các công cụ quản lý giáo dục phải tạo thành hệ thống có tính thống nhất cao. 
Tuyệt đối tránh tình trạng chỉ thị, quy định trước "đá" chỉ thị, quy định sau : hoặc chỉ 
thị , quy định cấp dưới mâu thuẫn với chỉ thị, quy định cấp trên ; gây nên tình trạng 
hỗn loạn trong tồ chức và tổ chức sẽ đứng trước nguy cơ không tồn tại . 
3. Đổi mới và nâng cao năng lực vận hành hệ thống công cụ quản lý giáo dục 
Giáo dục và hệ thống quản lý giáo dục đang ở trong bối cảnh, mà ở đó các nhân 
tố bên trong và bên ngoài mới xuất hiện, đang vận động, đang phát triển theo cả chiều 
hướng tích cực và tiêu cực Các yêu cầu mới cũng đang đặt ra và thực sự là những 
thách thức đối với giáo dục và quản lý giáo dục. Bên cạnh đó, quản lý giáo dục đang 
có nhiều yếu kém và bất cập và vì vậy nó được xác định là khâu đột phá đối với sự 
phát triển giáo dục. 
Đó chính là lý do của đổi mới và nâng cao năng lực vận hành hệ thống công cụ 
quản lý giáo dục. Về vấn đề này, cần tập trung thực hiện một số việc : 
a) Đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng, hình thành hệ thống công cụ quản lý 
giáo dục phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đáp ứng yêu cầu 
phát triển kinh tế thị trường, yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
b) Rà soát, đánh giá lại hệ thống chính sách hiện hành để từ đó điều chỉnh hoặc 
xoá bỏ những chính sách không phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. 
c) Tổ chức, hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra, thanh tra việc vận dụng 
và thực hiện các chủ trương, chính sách, chỉ thị,  bảo đảm cho việc vận hành thông 
suốt và có hiệu quả. 
d) Nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất của các nhà hoạch định và thực hiện 
chính sách giáo dục. 
e) Tăng cường hợp tác quốc tế tham khảo kinh nghiệm nước ngoài trong việc xây 
dựng cũng như quản lý việc thực hiện chính sách giáo dục. 
Tóm lại, trong quản lý giáo dục , các chủ trương, chính sách, chỉ thị, thông tư, 
hướng dẫn, kế hoạch, v.v và là những công cụ quản lý có vai trò hết sức quan trọng. 
bởi chúng làm cho hệ thống giáo dục quốc dân được vận động và phát triển theo các 
nguyên tắc quản lý. Do đó, việc nhà quản lý giáo dục ở bất kỳ cấp nào đều phải nắm 
chắc hệ thống công cụ quản lý và vận hành có hiệu quả trong thực tiễn là yêu cầu có 
tính bắt buộc khách quan, tất yếu. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_quan_ly_nha_nuoc_ve_giao_duc_va_dao_tao.pdf