Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam

Tóm tắt

Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình thành và phát triển của

cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này với những bứt phá ngoạn mục về quy mô,

tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước

tiến mạnh mẽ của các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu hóa.

Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ

4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại

học nói chung và đối với hình thức đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của

cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 .

pdf 7 trang yennguyen 4740
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam

Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
.+2$+&9j&1*1*+…ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
8 SỐ 4 (2018)
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO TỪ XA 
Ở BẬC ĐẠI HỌC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR DISTANCE LEARNING
AT THE UNIVERSITY IN THE 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION IN VIETNAM
Tóm tắt 
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình thành và phát triển của 
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này với những bứt phá ngoạn mục về quy mô, 
tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước 
tiến mạnh mẽ của các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu hóa. 
Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 
4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại 
học nói chung và đối với hình thức đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của 
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 .
Từ khóa: cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo từ xa, đại học .
Summary
In the early decades of the 21st century, the world has witnessed the appearance and the development 
of the 4th Industrial Revolution. This revolution has the spectacular development in scale, speed and 
spread on a global scale. The hierarchy of nations is deeply disrupted by the rapid advancement of 
nations in the level of scientific and technological development in the process of globalization. The need 
to develop high-quality Science & Technology human resources in the 4th Industrial Revolution is also 
hugely demanding, requiring new requirements for the role and mission of higher education in common 
and in the form of distance learning in particular in the process of formation and development of the 4th 
industrial revolution.
Keywords: industrial revolution 4.0, distance learning, university.
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển 
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên 
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ 
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới 
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu 
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển 
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: 
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như 
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu 
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, 
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang 
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia 
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra 
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát 
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình 
VŨ THỊ THANH THỦY * 
VŨ THỊ ÁNH TUYẾT *
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù 
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển 
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều 
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều 
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như 
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức 
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều 
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất 
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư. 
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những 
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản 
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; 
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; 
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin 
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình 
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong 
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi 
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu 
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm 
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành 
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá 
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc 
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút 
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác 
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính 
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự 
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông 
minh; E-Learning... 
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh 
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công 
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu 
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông 
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp 
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung 
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại 
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành 
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận 
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân 
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu 
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo 
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo 
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. 
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống 
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện 
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các 
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên 
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy 
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. 
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận 
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang 
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với 
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số 
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành 
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được 
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề 
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi 
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc 
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực 
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều 
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay 
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương 
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học 
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người 
học với nhau và với giảng viên. 
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
* Trường Đại học Lao động - Xã hội 
Ngày nhận bài: 10/5/2018; ngày thẩm định 15/7/2018; ngày duyệt đăng: 15/9/2018
.+2$+&9j&1*1*+…ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
9SỐ 4 (2018)
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển 
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên 
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ 
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới 
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu 
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển 
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: 
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như 
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu 
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, 
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang 
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia 
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra 
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát 
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình 
hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù 
nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển 
đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều 
cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều 
thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như 
Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức 
vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều 
lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất 
- dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư. 
- Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những 
sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản 
xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; 
Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; 
Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin 
và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình 
cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong 
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi 
toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu 
dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm 
lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành 
sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá 
thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc 
biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút 
ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác 
động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính 
trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự 
hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông 
minh; E-Learning... 
- Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh 
mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công 
nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu 
lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông 
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp 
trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung 
cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại 
hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành 
phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận 
chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân 
lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu 
khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo 
nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo 
nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. 
Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống 
như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện 
tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các 
ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên 
ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy 
tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. 
Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận 
thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang 
phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với 
thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số 
lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành 
một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được 
đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề 
hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi 
phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc 
biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực 
trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều 
kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 
2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại 
học Việt Nam 
Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay 
còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương 
thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học 
tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người 
học với nhau và với giảng viên. 
So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống
Từ đó, nhận thấy ưu điểm của ĐTTX đối với 
người học như sau: 
- Địa điểm và thời gian học linh hoạt: Người học 
có thể học tập mọi lúc, mọi nơi. 
Việc trao đổi thông tin, truyền đạt kiến thức theo 
yêu cầu. Sinh viên có thể truy cập các khoá học bất 
kỳ nơi đâu như văn phòng làm việc, tại nhà, tại 
những điểm Internet công cộng, 24 giờ một ngày, 7 
ngày trong tuần, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. 
- Tiết kiệm chi phí đi lại: Sinh viên chỉ bắt buộc 
phải đi thi tập trung tại địa điểm của nhà trường. 
- Tiết kiệm thời gian so với phương thức giảng 
dạy truyền thống: do rút giảm sự phân tán và thời 
gian đi lại. 
- Linh hoạt: Sinh viên có thể đăng ký bao nhiêu 
khóa học mà việc học cần, có thể tự điều chỉnh thời 
gian, tốc độ học theo khả năng và có thể tự tham 
khảo, nghiên cứu thêm thông qua các nguồn tài liệu 
được hướng dẫn tham khảo. 
- Được hỗ trợ: Với hệ thống công nghệ E-Learn-
ing, sinh viên dễ dàng theo dõi tiến độ học tập, kết 
quả học tập, được hỗ trợ giải đáp thông tin kịp thời. 
- Đáp ứng cho mọi đối tượng. 
- Dễ dàng trao đổi thông tin giữa người học với 
người học và giữa người học với người dạy. 
Học tập trực tuyến (E-Learning) Học truyền thống 
• Tiết kiệm và linh hoạt về thời gian. 
• Tiết kiệm chi phí và công sức.
• Kiểm soát được quá trình học 
tập hơn thông qua các công cụ đánh 
giá, đưa ra những biện pháp hỗ trợ 
nhanh chóng để góp phần nâng cao 
hiệu quả học tập của từng học viên.
• Có thể lữu trữ được các bài 
học, phục cho việc ôn tập lại kiến 
thức của các học viên.
• Cung cấp tài nguyên học tập 
phong phú cho các học viên: bài 
giảng, bài tập, tài liệu học tập 
được biên soạn một cách bài bản và 
hệ thống từ cơ bản đến nâng cao.
• Mỗi học viên có thể chủ động 
tự lựa chọn cách học và tốc độ phù 
hợp đỗi viên, với mình.
• Dễ tiếp cận và thuận tiện.
• Cần thiết phải có một khoảng 
thời gian nhất định.
• Tốn nhiều công sức và chi phí.
• Số lượng học sinh bị giới hạn, 
bị giới hạn bởi không gian và địa lý
• Đánh giá kết quả thông qua 
các bài kiểm tra.
• Các tài liệu học tập: tài liệu 
nội bộ của mỗi trường, sách giáo 
khoa và sách tham khảo.
• Chương trình và tốc độ học do 
giáo viên đưa ra chung cho tất cả 
học sinh dựa trên chương trình 
chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
• Sự tương tác giữa học sinh - giáo 
viên, giữa học sinh với nhau thấp.
• Tiếp cận phụ thuộc vào thời 
gian và khu vực địa lý.
- Người học có thể chủ động lựa chọn chương 
trình học để phù hợp với vị trí công tác đào tạo, 
giảng dạy, nghiên cứu khoa học hoặc theo công 
việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. 
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính 
đến hết năm học 2016-2017, cả nước hiện có 235 
trường đại học, học viện, bao gồm: 170 trường 
công lập, tương ứng 72,34%, 60 trường tư thục và 
dân lập, chiếm 25,53%, và 5 trường có 100% vốn 
nước ngoài, chiếm 2,13% tổng số các trường đào 
tạo đại học (cơ cấu được thể hiện trong biểu đồ 1); 
37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ 
đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm 
và 2 trường trung cấp sư phạm. 
.+2$+&9j&1*1*+…ô1*ô
Taïp chí
1JKLÂQFßX7UDRõÕL
10 SỐ 4 (2018)
1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển 
của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên 
nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ 
hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới 
phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu 
thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển 
mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: 
- Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như 
trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu 
tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, 
phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang 
tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia 
hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra 
đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát 
triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình 
hay ...  
cấp. Không chỉ thế, việc nhiều trường Đại học được 
thành lập mới đã tạo cơ hội cho người học có nhiều 
sự lựa chọn hơn, làm giảm thị phần đối với ĐTTX. 
Rào cản chính dẫn đến những khó khăn, thách thức 
mà các trường ĐH có đào tạo từ xa đang gặp phải 
chính là: Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ 
trương, chính sách đúng đắn phát triển ĐTTX 
nhưng chưa có kế hoạch hành động cụ thể ở cấp 
bộ, ngành. 
Thứ hai, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam chưa thực sự 
phát triển đồng bộ tại các vùng miền của cả nước, chi 
phí cho việc lắp đặt hệ thống mạng Internet còn cao 
hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. 
Chưa có những chương trình hỗ trợ cụ thể để 
người vùng sâu, vùng xa, những tỉnh, kém phát 
triển, có điều kiện vị trí địa lý hiểm trở tiếp cận với 
cơ sở hạ tầng nối mạng. Thiết nghĩ, để giúp họ thoát 
nghèo, trước hết Chính phủ cần giúp họ tiếp cận 
những kiến thức mới. Bởi để tồn tại, thích ứng với 
cuộc sống phát triển như hiện nay, chúng ta không 
chỉ làm theo kinh nghiệm mà rất cần có kiến thức 
cơ bản.
Thứ ba, chất lượng của hình thức ĐTTX chưa 
được chú trọng. 
Một số trường chỉ chạy đua về phát triển quy mô 
đào tạo mà chưa quan tâm đến chất lượng đào tạo, 
chưa có giáo viên chuyên biệt dành riêng cho hệ 
đào tạo từ xa. Nhiều chương trình ĐTTX của các 
trường thực hiện thuê khoán những giảng viên trẻ, 
chưa có kinh nghiệm; Việc thiết kế chương trình 
đào tạo của các trường chưa chuẩn hóa, chưa gắn 
nội dung chương trình đào tạo với sứ mệnh phát 
triển của trường, chưa gắn với chuẩn kiến thức đầu 
ra cho hình thức đào tạo này. Hệ thống đào tạo này 
cũng đã xuất hiện tình trạng học hộ, thi hộ. 
Đa số các trường có ĐTTX chưa đầu tư công 
sức, tài chính để sản xuất, biên soạn học liệu và 
phát triển công nghệ, dẫn tới việc tổ chức dạy tập 
trung tại các địa phương thông qua các trạm đào 
tạo, tạo ra sự biến tướng của loại hình đào tạo này. 
Nhiều trường coi ĐTTX như là việc làm thêm để 
tăng nguồn thu. Quy trình quản lý và đảm bảo chất 
lượng còn lỏng lẻo, dẫn tới sự quan ngại cho dư 
luận xã hội. 
Thứ tư, Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo cùng 
các cơ quan ban ngành chưa xây dựng được thống 
thống giám sát chất lượng đủ mạnh để giúp người 
học và người dạy nâng cao chất lượng.
Thứ năm, đa số chứng chỉ, bằng cấp của hình 
thức đào tạo từ xa vẫn chưa được xã hội thừa nhận, 
có sự phân biệt đối xử với người học ở hình thức 
đào tạo này. 
Thông tin về việc thi, kiểm tra, đánh giá ĐTTX 
thường được tiến hành theo phương pháp tự luận và 
tổ chức tại các trạm tiếp nhận chương trình ĐTTX 
ở địa phương. Vì vậy, có nơi có lúc chưa đảm bảo 
tính nghiêm túc, khách quan. Một chỉ số phản ánh 
chất lượng ĐTTX là tỷ lệ số học viên tốt nghiệp 
trên tổng số học viên nhập học ban đầu. 
Định kiến xã hội về loại hình ĐTTX, do người 
dạy không làm việc trực tiếp với người học nên kết 
quả học tập chưa được đảm bảo, khiến nhiều người 
nghi ngờ về chất lượng và văn bằng của loại hình 
đào tạo này. Người sử dụng lao động không tuyển 
dụng những người có bằng ĐTTX cũng khiến cho 
chất lượng đào tạo không đảm bảo.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, khi cơ sở vật 
chất còn thiếu thốn, công nghệ đào tạo chưa được 
cải tiến đáng kể; phương thức xét tuyển đầu vào 
không tổ chức thi tuyển; chưa ứng dụng được công 
nghệ kiểm tra, thi, đánh giá theo phương pháp trắc 
nghiệm khách quan dẫn đến tỷ lệ tốt nghiệp chỉ 
khoảng 30 - 40% mới phù hợp với yêu cầu về chất 
lượng đào tạo. 
- Hệ thống giáo dục Việt Nam chưa thực sự chú 
trọng đến phát triển ngoại ngữ. 
Đây là trở ngại lớn khi tiếp cận học tập theo hình 
thức này. 
Trước cuộc cách mạng 4.0, đã tạo cơ hội cho 
phát triển hình thức ĐTTX, nhưng cũng gặp không 
ít thách thức. 
3. Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc 
đại học trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 
3.1. Cơ hội 
- Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách 
pháp luật của Nhà nước luôn xác định, ưu tiên cho 
phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ. 
Ngay từ Đại hội VI (1986) và Hội nghị TW 2 
khóa VIII (1996) và đến nay mọi chính sách vẫn 
khẳng định: Giáo dục, đào tạo cùng với phát triển 
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động 
lực phát triển, là điều kiện cần để giữ vững độc lập 
dân tộc và xây dựng thành công XHCN. Khoa học 
công nghệ là then chốt trong mọi hoạt động của 
mọi ngành, các cấp, là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng 
và củng cố an ninh quốc phòng. Bởi vì, chỉ có giáo 
dục, đào tạo mới có tri thức, dân trí cao và làm được 
trong nhiều ngành nghề khác nhau, phát triển được 
nền kinh tế; Cần phải ứng dụng sự phát triển khoa 
học và công nghệ để hiện đại hóa đất nước và hội 
nhập toàn cầu. Khi đó, GDP/ đầu người tại Việt 
Nam thay đổi, mức sống của người dân mới được 
nâng cao. 
Bởi vì, trong các yếu tố của quá trình sản xuất thì 
sức lao động giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Khi 
đó, giáo dục và đào tạo là quá trình tái tạo, mở rộng 
sức lao động, chỉ có giáo dục và đào tạo mới bồi 
dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao sức sản xuất, làm 
cho đất nước ngày càng phát triển. 
Song, phát triển giáo dục, đào tạo cần ứng dụng 
sự phát triển Khoa học công nghệ. Trong kỉ nguyên 
phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, 
phương thức phát triển giáo dục đại học không chỉ 
bó hẹp giáo dục và đào tạo kiểu truyền thống. Nhận 
thức được tầm quan trọng của cuộc cách mạng 4.0, 
Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao vai trò người 
thầy trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn chỉ đạo kịp 
thời, sắc bén và ban hành nghị quyết, chỉ thị để phát 
triển đa dạng các hình thức dạy và học. 
- Khung hành lang pháp lí trang bị cho hình 
thức ĐTTX khá đầy đủ. 
- Là một nước đang phát triển, việc mở rộng quy 
mô đào tạo ở bậc đại học được chú trọng, hình thức 
ĐTTX tạo ra cơ hội liên thông các lĩnh vực với các 
trường với nhau. Người học có nhiều cơ hội hơn để 
lựa chọn trường học, phương thức học. 
- Các trường có cơ hội tuyển sinh được số lượng 
lớn người học theo hình thức này. 
Tính trung bình, ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 
900.000 học sinh tốt nghiệp THPT (năm 2015, 
2016, 2017). Trong khi đó, chỉ tiêu tuyển sinh của 
17 trường ĐTTX mới chỉ là 70.425, chiếm 7,83% 
cơ hội tuyển sinh của chương trình đào nào này. Thị 
phần cho các trường tuyển sinh là khá rộng với số 
lượng các trường đại học và học viện lớn (235 
trường), dễ hơn cho người học và kết nối được 
người học ở các lĩnh vực. Tận dụng lợi thế mạng 
lưới các trường nguồn tuyển phong phú hơn, thông 
tin đến với người học nhanh chóng và kịp thời. Đặc 
biệt, nhu cầu học tập của con người ngày càng cao. 
Với truyền thống hiếu học của người Việt Nam, nếu 
các trường chú trọng đến chất lượng đào tạo theo 
hình thức này, sẽ được người học lựa chọn. 
- Nhu cầu về học tập và phát triển trình độ tại 
Việt Nam cao. 
Đứng trước sự hội nhập kinh tế toàn cầu, do yêu 
cầu khi thực hiện công việc, đòi hỏi người học có 
sự am hiểu nhất định về lĩnh vực mình phụ trách. 
Hơn nữa, hiện nay, định hướng nghề nghiệp đối với 
học sinh tốt nghiệp THPT và những đối tượng khác 
khá rõ ràng. Người dân không nhất thiết phải thi 
tuyển vào trường đại học nào đó tại Việt Nam. Song 
bản thân những người làm nghề cũng rất mong 
muốn có kiến thức lí thuyết cơ bản cho những lĩnh 
vực làm việc của họ và trình độ dân trí chưa thực sự 
cao, khiến nhu cầu học tập nâng cao trình độ. Do 
vậy, khoảng trống thị trường để các trường ĐTTX 
còn khá nhiều.
- Phương tiện để phục vụ học theo chương trình 
ĐTTX đơn giản, chi phí cho phương tiện học 
tập thấp. 
Như trên đã đề cập, có nhiều phương thức học 
theo hình thức ĐTTX, tuy nhiên, người học chỉ cần 
trang bị cho mình máy tính, điện thoại thông minh. 
Song trước cuộc cách mạng 4.0, chi phí để trang bị 
phương tiện học tập được coi là thấp. 
3.2. Thách thức 
Bên cạnh những cơ hội có được trước cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 4, giáo dục đại học nói 
chung và hình thức ĐTTX nói riêng cũng gặp phải 
rất nhiều thách thức: 
- Sự phối, kết hợp 3 nhà: Nhà nước - Nhà 
trường - Nhà sử dụng lao động tại Việt Nam chưa 
nhịp nhàng. 
Bản thân các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị sử 
dụng lao động cũng chưa sẵn sàng chia sẻ thông tin 
về kế hoạch ngắn hạn và dài hạn tuyển dụng bao 
gồm: số lượng tuyển dụng, chất lượng tuyển dụng, 
đòi hỏi những kĩ năng cơ bản ở người được tuyển 
dụng... trên các website chính thức. Các trường Đại 
học chưa phối hợp cùng nhau để thực hiện khảo sát 
điều tra về nhu cầu thị trường lao động trong từng 
giai đoạn phát triển cụ thể của nền kinh tế, do tốc độ 
thay đổi công nghệ từ cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4 diễn ra quá nhanh. Nhà nước cũng chưa có 
những hỗ trợ cụ thể và chọn lọc ra một số trường 
đại học làm điểm cho sự kết hợp 3 bên này. 
- Hình thức ĐTTX khiến người học khó tiếp cận 
với cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm 
phục vụ cuộc sống.
Các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học 
từ các trường đại học đối mặt với các yêu cầu cải 
cách và cạnh tranh mới. Nhiều tập đoàn công nghệ 
ngày nay có tiềm lực công nghệ, con người và tài 
chính rất lớn, họ lại ở tuyến đầu trong cuộc chạy 
đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống 
vì thế họ có nhiều trải nghiệm quý giá mà giới hàn 
lâm đại học không có. Chính điều đó đã làm giảm 
đáng kể ranh giới và khoảng cách về tri thức và khả 
năng sáng tạo giữa khu vực Đại học & công nghiệp. 
Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ 
trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi 
giáo dục phải đem lại cho người học những kỹ năng 
và kiến thức cơ bản lẫn tư duy sáng tạo, khả năng 
thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc 
thay đổi liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải. Tất cả 
tạo ra một bức tranh giáo dục đào tạo sinh động mà 
các phương thức giáo dục truyền thống chắc chắn 
sẽ không thể đáp ứng. 
- Hệ thống kiểm soát chất lượng đối với ĐTTX 
chưa đáp ứng trước ứng dụng cách mạng công 
nghiệp 4.0. 
Như trên đã đề cập, tại Việt Nam hình thức 
ĐTTX vẫn bị đối xử chưa bình đẳng với hình thức 
đào tạo truyền thống, nguyên nhân chính là chúng 
ta chưa xây dựng được nguyên tắc trong ĐTTX, 
chưa xây dựng được thang đo đánh giá rõ ràng đủ 
minh bạch với kết quả học tập của người học. 
Trong thời đại công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, nếu 
đơn vị cung cấp dịch vụ đào tạo này chưa có những 
chế tài đủ mạnh để xử lí những gian lận đối với 
người học trong thi cử khi cấp bằng, thì dù là giai 
đoạn phát triển nào của nền kinh tế vẫn tạo ra 
những định kiến đối với các loại bằng cấp khác nhau. 
Cũng phải bàn luận thêm rằng tính kỉ luật, ý thức 
tự giác của đa số người dân chưa cao nên việc 
không có hệ thống giám sát chất lượng học và kiến 
thức được lĩnh hội ở hình thức đào tạo này luôn là 
một thách thức lớn. Đặc biệt, ở một đất nước vẫn 
còn coi trọng bằng cấp như hiện nay, thì đây là một 
thách thức không hề nhỏ đối với các trường đại học 
tổ chức ĐTTX bậc đại học. 
- Hệ thống kiểm soát triển khai thực hiện chưa 
đầy đủ. 
Đây lại là vấn đề nghiêm trọng không chỉ trong 
lĩnh vực đào tạo mà ở nhiều lĩnh vực khác nhau tại 
Việt Nam. Tại sao, lại cho rằng hệ thống kiểm soát 
triển khai thực hiện chưa đầy đủ? Vì, sau khi các 
trường được chấp thuận ĐTTX, bản thân mỗi 
trường họ cũng mong muốn xây dựng hình ảnh, 
nâng cao chất lượng để tăng nguồn thu và phát triển 
bền vững, nên họ cũng chú trọng đến tuyển dụng 
giảng viên, người dạy, biên soạn giáo trình. Song, 
việc quản lí triển khai thực hiện yếu, kém dẫn đến 
việc việc sao chép bản quyền tác giả diễn ra khá 
phổ biến. 
Sự rõ ràng giữa người dạy và đơn vị tổ chức 
chưa có, nhiều bài giảng của giảng viên được tổ 
chức cung cấp đào tạo tự ý sử dụng cho nhiều đối 
tượng học, thời gian học mà không được sự đồng ý 
của người dạy.
- Giảng viên chưa thực sự cống hiến hết mình 
cho hình thức ĐTTX, trong không gian bó hẹp. 
Với lối học truyền thống được duy trì nhiều năm 
nay, sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và các 
nước phát triển trong khối giảng viên chưa nhiều. 
Kinh phí cho việc học tập và nâng cao trình độ ở 
giảng viên hạn chế. Điều này, có thể là nguyên nhân 
dẫn đến người dạy ít tạo ra hứng thú hơn với hình 
thức đào tạo này. Do vậy, chưa tạo ra được cảm 
hứng trong không gian khi chỉ xuất hiện một giảng 
viên với một vài người học, hay thậm chí chỉ một 
người học cho một khung thời gian đó. 
4. Một số đề xuất nhằm phát triển hình thức đào 
tạo từ xa ở bậc đại học trước cuộc cách mạng 
công nghiệp 4.0 
Để nâng cao chất lượng dạy và học theo hình 
thức ĐTTX trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng 
4.0, với sự phát triển công nghệ số và trí tuệ nhân 
tạo, đòi hỏi phải có sự chung tay của nhiều tổ chức, 
ban ngành, sự nghiêm túc trong hoạt động dạy và 
học cùng ý thức kỉ luật cao của người học mới 
mang lại một hình hài hoàn thiện cho ĐTTX tại các 
trường đại học ở Việt Nam. Do vậy, nhóm tác giả 
xin đề xuất một số giải pháp như sau: 
Thứ nhất, Chính phủ nên cụ thể hóa thành nghị 
định quy định quyền hạn, trách nhiệm 3 bên trong 
quá trình kiểm tra, giám sát, thực hiện sự phối hợp 
của Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao động 
của quá trình đào tạo để chất lượng đào tạo đại học 
nói chung và đào tạo đại học từ xa nói riêng được 
nâng cao. 
Thứ hai, hoàn thiện chương trình ĐTTX, trên cơ 
sở đó bổ sung thời gian cần thiết đối với người học 
về thực hành để khắc phục hạn chế như hiện nay 
(hạn chế mà trên đã đề cập Hình thức ĐTTX khiến 
người học khó tiếp cận với cuộc chạy đua biến tri 
thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống). Theo đó, 
nhóm tác giả gợi ý về cách thực hiện như sau: 
người học có thể gửi bản mềm về kết quả thực hành 
của mình thông qua quay phim, chụp ảnh. Trong 
đó, người học được tổ chức cấp bằng kiểm chứng 
về tính trung thực của bài nộp. 
Thứ ba, khẩn trương xây dựng nguyên tắc 
ĐTTX, chế tài trong hoạt động đào tạo từ xa. Đây 
là một trong những cơ sở pháp lí để xử lí những vi 
phạm gian lận đối với người học và người cung cấp 
dịch vụ đào tạo trong hoạt động đào tạo từ xa. Theo 
đó, bằng cấp đối với người học theo hệ đào tạo này 
sẽ được chấp nhận rộng rãi và không bị phân biệt 
đối xử trong tuyển dụng. Đặc biệt, trong nền kinh tế 
số như hiện nay các bài giảng trực tuyến mới thực 
sự được bảo vệ về bản quyền. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lentell (2003): 'The Importance of the Tutor 
in Open and Distance Learning', 
in A. Tait & R. Mills. Rethinking Learner 
Support in Distance Education, pp. 64-76. London: 
Routledge Falmer. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 
29-NQ/TW về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo 
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế." 
3. Mai Văn Tỉnh (2016) "Tác động của cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục đào tạo 
đặc biệt là vai trò của người thầy", Báo Giáo dục 
Việt Nam 
4. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 
1559/QĐ-TTg, quyết định phê duyệt đề án "Phát 
triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015 - 2020" 
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Thông tư 
10/2017-TT/BGDĐT, ban hành quy chế đào tạo từ 
xa trình độ đại học. 
6.  
7. https://moet.gov.vn 

File đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_dao_tao_tu_xa_o_bac_dai_hoc_tro.pdf