Động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời đại 4.0

B4.0 hiện nay. Sử dụng phương pháp thu thập, thống kê thông tin và phỏng vấn, tác giả đã chỉ ra ài viết nghiên cứu động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời đại

động lực và thách thức đối với các bên liên quan; cũng như tiềm năng và thực trạng đào tạo trực tuyến đại

học tại Việt Nam hiện nay. Đào tạo đại học trực tuyến cho phép sinh viên, giảng viên dễ dàng tiếp cận công

nghệ mới, tiết kiệm thời gian, chi phí, đặc biệt trong bối cảnh khoảng cách địa lý và khủng hoảng an sinh

xã hội, dịch bệnh. Trong thời gian qua, mặc dù có tiềm năng lớn, đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam

chưa được khai thác rộng rãi và triệt để. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp

và kiến nghị thúc đẩy triển khai đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời gian tới.

pdf 12 trang yennguyen 3900
Bạn đang xem tài liệu "Động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời đại 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời đại 4.0

Động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời đại 4.0
Sè 139/2020 thương mại
khoa học
1
2 
13 
24 
39 
47 
55 
62 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Nguyễn Hoàng Việt, Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt, Nguyễn Mạnh Hùng và Phan Thanh Tú - Tác 
động của đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển bền vững của các địa phương ở Việt Nam. Mã số: 
139.1TrEM.11 
Impacts of FDI on the Sustainability of Provinces in Vietnam 
2. Nguyễn Thị Minh Nhàn và Bùi Thị Ánh Tuyết - Đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh 
hưởng đến quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực y tế trình độ cao ở địa phương. Mã số: 
139.1HRMg.12 
Suggested Research Model on the Factors Affecting Government Management in Developing 
High Quality Medical Human Resources at Localities 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
3. Nguyễn Trần Hưng và Đỗ Thị Thu Hiền - Nghiên cứu những yếu tố tác động đến quyết định sử 
dụng dịch vụ 4G của người dùng Việt Nam. Mã số: 139.2NMkt.21 
A Study on the Factors Affecting the Decision to Use 4G Services by Vietnamese Users 
4. Lê Hà Trang - Nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người tham gia bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt 
Nam. Mã số: 139.2BMkt.21 
The Factors Affecting the Satisfaction of Non-Life Insurance Policy Holders in Vietnam 
5. Vũ Văn Hùng và Hồ Kim Hương - Vai trò của học vấn đối với hiệu quả sản xuất chè của nông hộ 
vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Mã số: 139.2OMIs.22 
The role of education on tea production efficiency of farmers in the North Central Coast of 
Vietnam 
6. Nguyễn Thu Hà - Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận biết thương hiệu của sinh viên đối với các công 
ty thương mại điện tử trên phương tiện truyền thông xã hội. Mã số: 139.2BMkt.21 
The Factors Affecting Student Brand Identity towards E-commerce Enterprises via Social 
Media 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
7. Nguyễn Hoàng và Ngô Thanh Hà - Động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam 
trong thời đại 4.0. Mã số: 139.3OMIs.32 
Online Tertiary Training Motivation and Potential in Vietnam in the Industrial Revolution 4.0 
ISSN 1859-3666
1
?1. Mở đầu 
Công nghệ 4.0 đã và đang trở thành xu hướng 
phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc 
tự động hóa và trao đổi dữ liệu dần trở nên phổ biến 
ở các lĩnh vực từ sản xuất, kinh doanh, mua bán, đến 
đời sống hàng ngày. Thông qua công cụ, internet, 
điện toán đám mây, điện toán nhận thức, con người 
dần thu hẹp khoảng cách địa lý. Các hoạt động ở 
khắp mọi nơi được diễn ra thông suốt liên tục, đạt 
hiệu quả cao. Không nằm ngoài xu thế đó, áp dụng 
công nghệ 4.0 trong lĩnh vực giáo dục là phương 
pháp tối ưu được nhiều cơ sở giáo dục trên thế giới 
nghiên cứu, phát triển. 
Hiện nay, học viên có nhu cầu thay đổi thời gian 
học tập linh hoạt để có thể vừa học vừa làm, cũng 
như đẩy nhanh tiến độ học. Bên cạnh đó, nhiều học 
viên có nhu cầu học tập, nghiên cứu từ xa do không 
có điều kiện tới các cơ sở giáo dục. Công nghệ 4.0 
có thể giúp học viên đạt được các nhu cầu này. Học 
viên ở các khu vực xa trung tâm, trường học hoàn 
toàn có thể hoàn thành chương trình học từ xa theo 
chương trình của các trường nước ngoài. Đặc biệt 
hơn, đào tạo trực tuyến sử dụng công nghệ 4.0 còn 
cho phép chương trình đào tạo của các trường đại 
học không bị gián đoạn ngay cả trong bối cảnh dịch 
bệnh truyền nhiễm như dịch SARS năm 2003, dịch 
Ebola, hay hiện nay mở đầu 2020 là dịch viêm phổi 
cấp Covid-19. 
Xuất phát từ tính cấp thiết của công nghệ 4.0 đối 
với hoạt động giáo dục đại học, tác giả tiến hành 
phân tích, đánh giá động lực và tiềm năng đào tạo 
trực tuyến đại học tại Việt Nam. Trên cơ sở nghiên 
cứu lý thuyết và thực tiễn về hoạt động triển khai và 
các mô hình đào tạo trực tuyến tại các trường đại 
Sè 139/202062
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
ĐỘNG LỰC VÀ TIỀM NĂNG 
ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TRỰC TUYẾN TẠI VIỆT NAM 
TRONG THỜI ĐẠI 4.0 
Nguyễn Hoàng 
Trường Đại học Thương mại 
Email: nguyenhoang@tmu.edu.vn 
Ngô Thanh Hà 
Trường Đại học Thương mại 
Email: Ngothanhha@tmu.edu.vn
Ngày nhận: 31/01/2020 Ngày nhận lại: 26/02/2020 Ngày duyệt đăng: 03/03/2020 
B ài viết nghiên cứu động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời đại 4.0 hiện nay. Sử dụng phương pháp thu thập, thống kê thông tin và phỏng vấn, tác giả đã chỉ ra 
động lực và thách thức đối với các bên liên quan; cũng như tiềm năng và thực trạng đào tạo trực tuyến đại 
học tại Việt Nam hiện nay. Đào tạo đại học trực tuyến cho phép sinh viên, giảng viên dễ dàng tiếp cận công 
nghệ mới, tiết kiệm thời gian, chi phí, đặc biệt trong bối cảnh khoảng cách địa lý và khủng hoảng an sinh 
xã hội, dịch bệnh. Trong thời gian qua, mặc dù có tiềm năng lớn, đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam 
chưa được khai thác rộng rãi và triệt để. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp 
và kiến nghị thúc đẩy triển khai đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam trong thời gian tới. 
Từ khóa: đào tạo, đại học, đào tạo đại học trực tuyến, thời đại 4.0, Việt Nam. 
học, tác giả tiến hành đề xuất một số giải pháp thúc 
đẩy triển khai đào tạo đại học trực tuyến tại Việt 
Nam, qua đó góp phần thúc đẩy chất lượng hoạt 
động giáo dục tại các trường đại học tại Việt Nam 
hiện nay. 
2. Cơ sở lý luận 
2.1. Tổng quan về đào tạo trực tuyến và ứng 
dụng trong đào tạo đại học 
Định nghĩa đào tạo trực tuyến 
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đào tạo trực 
tuyến (E-learning). Theo nghĩa hẹp, đào tạo trực 
tuyến là hoạt động học tập thông qua internet 
(Jones,2003). Theo nghĩa rộng hơn, hoạt động đào 
tạo trực tuyến có thể được thực hiện thông qua 
Internet, mạng nội bộ, âm thanh, video, phát sóng vệ 
tinh, TV tương tác và CD-ROM. Hoạt động này 
không chỉ phân phối nội dung, mà còn cho phép 
người giảng dạy và các học viên tương tác với nhau. 
Ngoài ra, trong thời đại bùng nổ phát triển điện thoại 
di động thông minh như hiện nay, khái niệm này có 
thể được mở rộng hơn, có thể được thực hiện thông 
qua điện thoại di động, máy tính bảng và các ứng 
dụng học tập không dây. Theo đó, người giảng dạy có 
thể truyền tải nội dung học, hình ảnh, âm thanh, video 
thông qua đường truyền băng thông rộng hoặc kết nối 
không dây (WiFi, WiMAX). Về cơ bản, các cá nhân 
hay các tổ chức đều có thể tự lập ra một trường học 
trực tuyến. Giáo dục trực tuyến là hình thức sử dụng 
công nghệ điện tử trong hoạt động giáo dục như giảng 
dạy, hướng dẫn, đào tạo, nghiên cứu, học tập, (Ong 
và các cộng sự, 2004; Trần Thị Lan Thu, 2019). 
Lịch sử đào tạo trực tuyến đại học 
Đào tạo trực tuyến đã xuất hiện trên thế giới từ 
những năm 90 của thế kỷ 20. Hình thức giáo dục 
điện tử đầu tiên là đào tạo trên máy tính (CBT). Đây 
được coi là nền tảng của đào tạo trực tuyến hiện nay 
(Garrison, 2011). Theo đó, hệ thống CBT yêu cầu 
kết nối máy tính cá nhân với các đa phương tiện 
khác, ví dụ CD-ROM. Bản thân hệ thống này là một 
tiến bộ lớn, mặc dù nội dung của hình thức này chưa 
được kỹ lưỡng và đầy đủ tính năng như đào tạo trực 
tuyến sau này, tuy nhiên hoạt động giáo dục đã 
không bị giới hạn bởi thời gian hay địa điểm. 
Cùng với sự phát triển của CBT là sự phát triển 
của internet và hệ thống website tại Hoa Kỳ. Hệ 
thống web đã được cải tiến thành www (web toàn 
cầu) nổi tiếng và phổ biến hiện nay. Chương trình 
đào tạo trực tuyến dựa trên web mới (WBT) đã được 
hình thành. Các chương trình mới được tạo ra cho 
phép giáo viên và học viên có thể tương tác, giao 
tiếp với nhau. Hệ thống mới này tương ứng với hệ 
thống ngày nay (Tsang và các cộng sự, 2007). Hệ 
thống WBT đã lan truyền nhanh chóng và được cải 
thiện. Để phát triển hình thức này, dự án ODL NET 
(Mạng giáo dục mở và từ xa) được triển khai nhằm 
mở rộng khả năng tiếp xúc với các quốc gia khác. 
Dự án này được phát triển trong khuôn khổ chương 
trình châu Âu, tập trung vào việc truyền bá giáo dục 
trực tuyến dựa trên công nghệ thông tin và truyền 
thông. Mục tiêu quan trọng là để cải thiện chất 
lượng giảng dạy trực tuyến thông qua sử dụng 
phương pháp học tập và phương pháp công nghệ 
mới. Thời điểm ban đầu, có tám quốc gia châu Âu 
tham gia vào dự án này, gồm: Vương quốc Anh, 
Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Phần 
Lan, Síp và Cộng hòa Séc. Sau đó, chương trình đã 
lan rộng ra toàn thế giới. Tại Việt Nam, giáo dục 
điện tử đã phát triển từ rất sớm, tuy nhiên, trong vài 
năm trở lại đây, hình thức đào tạo này mới được 
quan tâm và áp dụng rộng rãi hơn. 
Hiện nay, trên thế giới, đào tạo trực tuyến tập 
trung đặc biệt vào các tổ chức giáo dục đại học, áp 
dụng cho việc sử dụng các hệ thống học tập dựa trên 
web để hỗ trợ giáo dục đại học trực tuyến (Garrison, 
2011). Hoạt động đào tạo đại học trực tuyến không 
yêu cầu nhiều kỹ năng máy tính, mặc dù thành thạo 
máy tính và phần mềm (đặc biệt là trình duyệt Web) 
giúp sinh viên dễ dàng tiếp cận kiến thức (Tarhini và 
các cộng sự, 2013). Hoạt động đào tạo đại học trực 
tuyến có ba loại chính: (i) Tự học theo tiến độ quy 
định; (ii) chủ động xác định thời khóa biểu và (iii) 
học theo thời khóa biểu riêng. Đào tạo đại học trực 
tuyến cho phép sinh viên xem lại các tài liệu khi cần 
thiết. Đồng thời, các câu hỏi trực tuyến có các câu 
trả lời được lập trình sẵn. 
Đặc điểm của đào tạo trực tuyến đại học 
Hoạt động đào tạo trực tuyến đại học cho phép 
sinh viên tham dự các lớp học mọi lúc khi cần hoặc 
cho đến khi tài liệu khóa học được hoàn thành. Điều 
này sẽ tạo ra một môi trường chủ động, khi đó giáo 
viên đóng vai trò là người hướng dẫn kiến thức 
(McCombs, 2011). 
63
?
Sè 139/2020
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
?Trong đào tạo trực tuyến có tương tác không 
đồng bộ, học viên tham gia đào tạo cùng một người 
hướng dẫn và các học viên khác, tuy nhiên không 
cùng một thời điểm. Ngược lại, trong đào tạo trực 
tuyến có tính tương tác đồng bộ, học viên có thể 
nhận được phản hồi từ người hướng dẫn hoặc từ các 
bạn học. Đào tạo trực tuyến đồng bộ cũng cho học 
viên có thời gian xem xét các câu trả lời, góp phần 
nâng cao khả năng tư duy của họ (McCombs, 2011; 
Trần Thanh Điện và Nguyễn Thái Nghe, 2017). 
Đồng thời, đào tạo trực tuyến đồng bộ khuyến 
khích nỗ lực của các thành viên trong các hoạt động 
học tập nhóm. Cách tiếp cận này coi người học là 
trung tâm của hoạt động đào tạo. Trong đào tạo trực 
tuyến đồng bộ, học viên tham dự các bài giảng trực 
tiếp qua máy tính và đặt câu hỏi qua e-mail hoặc trò 
chuyện trực tuyến theo thời gian thực. Phương pháp 
này tương tự như thực hiện hoạt động giảng dạy 
trực tuyến. 
Ưu và nhược điểm của đào tạo trực tuyến đại học 
Đào tạo trực tuyến khi được các trường đại học 
áp dựng đào tạo trực tuyến cũng có ưu và nhược 
điểm (Callan và cộng sự, 2010; Trần Thanh Điện và 
Nguyễn Thái Nghe, 2017; Trần Thị Lan Thu, 2019). 
Cụ thể, các ưu điểm gồm: 
- Tiết kiệm thời gian và chi phí giảng dạy 
- Khả năng sử dụng linh hoạt mọi lúc mọi nơi. 
Nói cách khác, đào tạo đại học trực tuyến cho phép 
sinh viên truy cập các tài liệu từ bất cứ nơi nào, bất 
cứ lúc nào. 
- Truy cập vào các tài nguyên và tài liệu trên toàn 
cầu, đáp ứng mọi nhu cầu về kiến thức và sở thích 
cho sinh viên. 
- Cho phép sinh viên chủ động thời gian biểu học 
tập, góp phần giảm căng thẳng và tăng sự hài lòng 
trong quá trình học tập của sinh viên. 
- Đào tạo đại học trực tuyến cho phép tăng cường 
tương tác giữa sinh viên và người dạy của họ thông 
qua sử dụng email, bảng thảo luận. 
- Sinh viên có khả năng theo dõi tiến trình học 
tập của mình. 
- Sinh viên có thể học thông qua nhiều hoạt động 
áp dụng, nhiều cách học khác nhau 
- Đào tạo đại học trực tuyến giúp sinh viên phát 
triển kiến thức sử dụng các công nghệ Internet, cũng 
như các công nghệ mới nhất trên thế giới. 
- Đào tạo đại học trực tuyến góp phần cải thiện 
chất lượng dạy và học thông qua hỗ trợ các phương 
pháp giảng dạy trực tuyến. 
Mặc dù đào tạo đại học trực tuyến có nhiều lợi 
thế, tuy nhiên, hoạt động này vẫn tồn tại những hạn 
chế nhất định. So với đào tạo truyền thống, mối liên 
Sè 139/202064
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 1: Đặc điểm đào tạo trực tuyến đại học 
(Nguồn: Wagner và cộng sự (2008, tr 2)) 
ĈһFÿLӇm Thuӝc tính éQJKƭD Ví dө thӵc tӃ 
Khҧ QăQJ
ÿӗng bӝ 
Không 
ÿӗng bӝ 
TruyӅn tҧi nӝLGXQJÿjRWҥo tҥi mӝt thӡLÿLӇm 
khác vӟi thӡLÿLӇm hӑc tұp cӫa sinh viên 
Mô-ÿXQEài giҧng gӱi qua Email 
Ĉӗng bӝ TruyӅn tҧi nӝLGXQJÿjRWҥo cùng thӡLÿLӇm vӟi 
thӡLÿLӇm hӑc tұp cӫa sinh viên 
Bài giҧng trӵc tuyӃn 
thông qua video 
Vӏ trí Cùng vӏ trí Sinh viên sӱ dөng ӭng dөng cùng mӝt vӏ trí vӟi 
giҧng viên và các sinh viên khác 
Sӱ dөQJ*66ÿӇ giҧi quyӃt vҩn 
ÿӅ trong lӟp hӑc 
Phân tán Sinh viên sӱ dөng ӭng dөng tҥLFiFÿӏDÿLӇm khác 
nhau, tách biӋt vӟLFiFVLQKYLrQNKiFYjQJѭӡi 
Kѭӟng dүn 
Sӱ dөng *66ÿӇ giҧi quyӃt vҩn 
ÿӅ tӯ các vӏ trí phân tán 
Tính 
ÿӝc lұp 
Cá nhân Sinh viên làm viӋFÿӝc lұp vӟLQKDXÿӇ hoàn 
thành nhiӋm vө hӑc tұp 
Sinh viên hoàn thành các mô-ÿXQ
hӑc tұSÿLӋn tӱ mӝt cách tӵ ÿӝng 
Tұp thӇ Sinh viên cùng nhau hoàn thành nhiӋm vө hӑc tұp Sinh viên tham gia các diӉQÿjQ
thҧo luұQÿӇ chia sҿ êWѭӣng 
Tính 
hiӋQÿҥi 
ĈiӋn tӱ Tҩt cҧ nӝLGXQJÿѭӧc truyӅntҧi thông qua công 
nghӋ, không có yӃu tӕ trӵc diӋn 
ĈLӋn tӱ cho phép kích hoҥt khóa 
hӑc tӯ xa 
Hӛn hӧp ĈjRWҥo trӵc tuyӃn ÿѭӧc sӱ dөQJÿӇ bә sung cho 
viӋc hӑc trên lӟp hӑc truyӅn thӕng 
Các bài giҧng trên lӟSÿѭӧFWăQJ
Fѭӡng thông qua các bài tұp thӵc 
hành trên máy tính 
hệ trực tiếp giữa học viên với người giảng viên trong 
đào tạo trực tuyến đại học ít hơn. Sinh viên không 
có tương tác nhiều với giảng viên và các bạn sinh 
viên khác. Bên cạnh đó, hoạt động đào tạo trực 
tuyến phụ thuộc nhiều vào internet, đường truyền tín 
hiệu và các công cụ công nghệ. Chính vì vậy, quá 
trình học có thể xảy ra gián đoạn do các sự cố thiết 
bị như mất tín hiệu internet, hỏng máy tính,... 
Đào tạo đại học trực tuyến đòi hỏi sinh viên cần 
có máy tính và mạng internet. Điều này gây ra hạn 
chế đối với sinh viên có hoàn cảnh khó khăn 
(Wagner và cộng sự, 2008). Ngoài ra, theo Bouhnik 
và Marcus (2006), đào tạo đại học trực tuyến chưa 
khuyến khích sinh viên tự giác học tập, nghiên cứu, 
cũng như không tạo ra không khí học tập trong các 
hệ thống học tập điện tử. Thêm vào đó, đào tạo đại 
học trực tuyến giảm thiểu mức độ tiếp xúc, tương 
tác giữa sinh viên và giảng viên. 
2.2. Triển khai và các mô hình đào tạo trực 
tuyến tại các trường đại học 
Triển khai đào tạo trực tuyến tại các trường 
đại học 
Mặc dù đào tạo đại học trực tuyến đem lại nhiều 
lợi ích trong tăng cường hiệu quả của hoạt động 
giáo dục đại học, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh 
truyền nhiễm như dịch SARS năm 2003, dịch Ebola 
và Covid-19 như hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động 
này sẽ không thể phổ biến nếu người dùng có xu 
hướng không chấp nhận và không biết cách sử 
dụng, vận hành hệ thống. Do đó, việc triển khai đào 
tạo đại học trực tuyến phụ thuộcvào khả năng sẵn 
sàng sử dụng công nghệ của sinh viên cũng như 
giảng viên. Chính vì vậy, sinh viên, giảng viên, và 
các nhà hoạch định chính sách cần phải quan tâm 
đến các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đào tạo đại 
học trực tuyến, góp phần nâng cao trải nghiệm học 
tập của sinh ... châu Á có thị trường đào tạo đại học trực tuyến phát 
triển nhanh. Thị trường đào tạo trực tuyến tại Việt 
Nam có tiềm năng lớn với tốc độ tăng trưởng doanh 
thu hơn 40% mỗi năm, ước tính quy mô thị trường 
khoảng 2 tỷ USD, tỷ lệ tăng trưởng 44,3%. Đồng 
thời, Việt Nam cũng nằm trong top 10 thị trường có 
tốc độ tăng trưởng đào tạo trực tuyến lớn nhất thế 
giới trong năm 2018. Giá trị của các công ty công 
nghệ chuyên về giáo dục được ước tính hơn 190 tỷ 
USD vào năm 2018 và dự kiến vượt 300 tỷ USD vào 
năm 2025. 
Thêm vào đó, hiện nay, tại Việt Nam, hơn 50% 
dân số nối internet cá nhân, người dùng chủ yếu là 
giới trẻ với nhu cầu học tập cao. Hầu hết tất cả mọi 
người đều có smartphone, cũng như các thiết bị 
công nghệ như máy tính bàn, máy tính xách tay, máy 
tính bảng, Vì vậy, đào tạo trực tuyến tại Việt Nam 
thực sự là một thị trường giàu tiềm năng. Trong 
tương lai, Việt Nam sẽ tiếp tục tạo ra sức hút đầu tư 
lớn vào lĩnh vực này, không chỉ các doanh nghiệp 
trong nước mà còn cả các nhà đầu tư nước ngoài. 
Nền kinh tế tri thức tại Việt Nam tạo ra nhu cầu 
lớn về đào tạo và nâng cấp liên tục kỹ năng. Số 
lượng sinh viên ngày càng gia tăng. Theo số liệu của 
Bộ GD&ĐT, năm học 2018-2019, cả nước có hơn 
23,5 triệu học sinh, sinh viên, tăng hơn một triệu về 
số lượng so với năm học trước. Bên cạnh đó, sinh 
viên ngày càng có nhu cầu linh hoạt về thời gian học 
tập. Chính vì vậy, đây là tiềm năng vô cùng lớn để 
phát triển đào tạo trực tuyến đại học tại Việt Nam. 
Đặc biệt, với diễn biến thời tiết, dịch bệnh CoVid-19 
ngày càng phức tạp như hiện nay, đào tạo đại học 
trực tuyến đã thể hiện rõ vai trò quan trọng trong 
việc duy trì hoạt động học tập của sinh viên. 
Thực trạng đào tạo trực tuyến đại học hiện nay 
tại Việt Nam 
Đầu những năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu xuất 
hiện một số doanh nghiệp tiên phong với mô hình 
đào tạo trực tuyến như Violet.vn, Topica, Đến 
nay, các doanh nghiệp này khá thành công và dần 
tạo được vị thế trên thị trường. Chứng minh rằng, 
sinh viên Việt Nam có khả năng thích ứng nhanh và 
sẵn sàng tham gia đào tạo trực tuyến, ứng dụng 
công nghệ giáo dục ở các cấp học cao hơn. Rất 
nhiều trường đại học đã mở các khóa học đào tạo 
trực tuyến, chủ yếu là các khóa đào tạo liên kết với 
các trường nước ngoài, tạo điều kiện cho sinh viên 
tham gia và lấy bằng của cơ sở giáo dục ngoài nước 
khi không có điều kiện ra theo học. Rất nhiều 
trường đầu tư, quan tâm tới phương pháp giáo dục 
này, chủ động cử giáo viên, nhân viên học tập, tập 
huấn để triển khai công nghệ trong hoạt động đào 
tạo của trường. 
Theo số liệu thống kê của Công ty More 
(www.idgvv.com.vn) cho thấy, hoạt động giáo dục 
trực tuyến tại Việt Nam cung cấp chủ yếu một số 
nhóm dịch vụ: Cung cấp khóa học ngoại ngữ, các 
69
?
Sè 139/2020
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
?chương trình ôn thi/bài giảng kiến thức phổ thông 
(cấp 2, cấp 3) và khóa học kỹ năng. Theo số liệu 
nghiên cứu thống kê của phòng nghiên cứu của 
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các 
trường đại học thời gian qua đã vận dụng yếu tố 
công nghệ vào giảng dạy làm cho hoạt động trở nên 
hiệu quả, sinh động, tăng sự tương tác giữa giáo 
viên và người học. 
Tuy nhiên, mặc dù có tiềm năng khá lớn, nhưng 
đào tạo trực tuyến hiện nay tại Việt Nam chưa được 
khai thác rộng rãi và triệt để. Chưa có trường đại học 
nào áp dụng hoàn toàn chương trình giáo dục điện 
tử. Việc áp dụng mới chỉ dừng lại ở một số bộ môn, 
một số môn. Hệ thống cơ sở vật chất đáp ứng cho 
hoạt động đào tạo trực tuyến còn sơ sài. Các trường 
đại học hầu như chưa có phòng học trực tuyến mà 
tận dụng các phòng học, phòng họp để thực hiện 
hoạt động giáo dục trực tuyến. 
Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên của nhiều 
trường đại học chưa thành thạo công nghệ để có thể 
giảng dạy và trực tiếp hỗ trợ sinh viên kịp thời. Đội 
ngũ nhân viên hỗ trợ còn khá ít, chủ yếu là các thầy 
cô của bộ môn công nghệ thông tin, tin học phụ 
trách, Mặt khác, nhiều sinh viên chưa có điều 
kiện mua các thiết bị phục vụ cho hoạt động đào tạo 
trực tuyến như máy tính, mạng internet, Điều này 
cũng gây ra nhiều khó khăn để triển khai đào tạo 
trực tuyến diện rộng tại Việt Nam hiện nay. 
5. Một số giải pháp và kiến nghị thúc đẩy triển 
khai đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam 
Nhằm vượt qua những thách thức cũng như tạo 
động lực triển khai đào tạo đại học trực tuyến tại 
Việt Nam, tác giả tiến hành đề xuất một số giải pháp 
như sau: 
Một là, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và 
các đại học, trường đại học không nên coi ĐTTT 
chỉ là một phương pháp đào tạo đại học có tính tình 
thế trong bối cảnh phương pháp đào tạo truyền 
thống là không khả thi như tác động của dịch bệnh 
COVID-19 hiện tại, mà nó - dưới tác động của các 
thành tựu của công cuộc cách mạng công nghiệp 
4.0 đang trở nên là một công nghệ đào tạo đại học 
hiện thực và ngày càng hoàn thiện hữu hiệu, là 
phương pháp tổ chức đào tạo có tính chiến lược 
toàn cục và dài hạn khi được tích hợp hiệu quả với 
phương pháp đào tạo đại học truyền thống. Điều đó 
có nghĩa, Chính phủ thông qua Bộ Giáo dục và Đào 
tạo cần có nghiên cứu toàn diện và đưa vào trong 
Chiến lược đổi mới căn bản và toàn diện đào tạo đại 
học Việt Nam như là một hợp phần về Chiến lược 
phát triển đào tạo trực tuyến, trong đó chỉ rõ vai trò 
của 4 tác nhân chính: Nhà mạng, Nhà cung cấp các 
dịch vụ mạng hỗ trợ ĐTTT, Trường Đại học - nhà 
cung cấp dịch vụ ĐTTT, Học viên - khách hàng 
dịch vụ). Trên cơ sở đó các đại học, trường đại học 
đặc biệt là các trường ĐH khối xã hội - nhân văn 
nói chung và kinh tế - quản trị kinh doanh nói riêng 
cần có một thiết kế chi tiết một công nghệ đào tạo 
cho phù hợp với điều kiện và tiềm lực môi trường 
để tích hợp có hiệu năng giữa đào tạo truyền thống 
và đào tạo trực tuyến. 
Hai là, Nhà nước cần xây dựng các chính sách 
về vốn, nhân lực nhằm khuyến khích các trường 
đại học áp dụng và nhân rộng đào tạo trực tuyến 
4.0. Các chính sách cần xây dựng phù hợp với đặc 
điểm của các trường đại học tại Việt Nam hiện nay 
và thực trạng, nhu cầu về đào tạo trực tuyến ngoài 
thị trường. 
Ba là, các trường đại học cần chủ động triển khai 
công tác phổ biến về phương pháp, kỹ năng sử dụng 
công nghệ, tin học của đội ngũ giảng viên cũng như 
sinh viên của trường. Các trường có thể mở các lớp 
tin học trước khi bắt đầu chương trình đào tạo, hoặc 
thuê các đơn vị đào tạo công nghệ từ bên ngoài để 
hướng dẫn chi tiết cho sinh viên, giảng viên. Đồng 
thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các kỹ thuật 
viên đào tạo trực tuyến, tiến hành đánh giá được vai 
trò và trách nhiệm của quản trị viên và các kỹ thuật 
viên cũng như những người hướng dẫn kỹ thuật. 
Bốn là, các trường đại học cần nâng cấp hạ tầng 
công nghệ phục vụ hoạt động đào tạo trực tuyến. Hạ 
tầng công nghệ đóng vai trò quan trọng, quyết định 
thành công việc triển khai đào tạo trực tuyến. Xây 
dựng hạ tầng công nghệ phải trong dài hạn, tính toán 
những bất cập, khó khăn hay xu hướng sử dụng có 
thể xảy đến trong tương lai. Chính vì vậy, các trường 
đại học cần có mức đầu tư hợp lý nhằm thực hiện 
được đầy đủ các hạng mục và không ảnh hưởng tới 
quá trình học tập của sinh viên. 
Năm là, các trường đại học cần hỗ trợ thiết bị học 
tập cho sinh viên. Để khắc phục thực trạng sinh viên 
không đủ điều kiện trang bị học tập, mỗi trường đại 
Sè 139/202070
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
học có thể xây dựng các phòng máy tính cho sinh 
viên sử dụng, hỗ trợ học bổng hoặc xây dựng chính 
sách giảm học phí. Điều này giúp sinh viên có đủ 
điều kiện để tham gia các khóa học trực tuyến. 
Sáu là, các trường đại học cần đẩy mạnh hoạt 
động nghiên cứu mở thêm các khóa đào tạo trực 
tuyến, nhằm hướng tới sự thay đổi toàn diện cả về 
chất và lượng cho đào tạo trực tuyến 4.0 ở các 
trường đại học tại Việt Nam hiện nay. Đào tạo trực 
tuyến có nhiều ưu điểm, tuy nhiên vẫn tồn tại những 
hạn chế nhất định. Vì vậy, để triển khai thành công 
các khóa học trực tuyến, các trường đại học cần 
nghiên cứu thật kỹ, áp dụng có lộ trình cụ thể. Ban 
đầu, có thể kết hợp các phương pháp giáo dục truyền 
thống, sau đó mở rộng và thay thế dần. Không nên 
thay đổi đột ngột, gây khó khăn trong khả năng hòa 
nhập của sinh viên và giảng viên. 
Bảy là, các trường đại học cần thực hiện tuyên 
truyền, nhân rộng, các chiến dịch quảng bá chương 
trình đào tạo trực tuyến. Điều này góp phần đưa 
hình thức đào tạo trực tuyến đến với mọi người, 
khuyến khích tinh thần học tập của sinh viên cũng 
như rút ngắn những rào cản mà đào tạo truyền thống 
mang lại.. 
Tám là, các trường đại học cần thường xuyên tổ 
chức hoạt động tự đánh giá các chương trình đào tạo 
trực tuyến của mình để có thể tìm ra nhược điểm, 
cũng như rút kinh nghiệm các khó khăn, sai lầm mắc 
phải. Bên cạnh đó, các trường đại học cần thực hiện 
điều tra ý kiến sinh viên, giảng viên về đánh giá mức 
độ tiện ích, hợp lý của chương trình học. Ý kiến của 
giảng viên và sinh viên sẽ đảm bảo tính khách quan, 
thực tế vì đây là đối tượng trực tiếp tham gia đào tạo 
trực tuyến 4.0. 
6. Kết luận 
Nghiên cứu phân tích và đánh giá thực trạng 
động lực và tiềm năng đào tạo đại học trực tuyến tại 
Việt Nam trong thời đại 4.0 hiện nay. Kết quả cho 
thấy đa số giảng viên và các chuyên gia đều cho 
rằng sử dụng công nghệ 4.0 trong hoạt động giảng 
dạy và đào tạo đại học là phương pháp học tiến tiến, 
tạo ra một số thuận lợi nhất định mà hình thức giáo 
dục truyền thống không đem lại. Về tiềm năng và 
thực trạng triển khai đào tạo đại học trực tuyến, đào 
tạo trực tuyến đại học đang là phân ngành phát triển 
nhanh nhất của thị trường giáo dục toàn cầu nói 
chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo đánh giá, Việt 
Nam nằm trong top các quốc gia châu Á có thị 
trường phát triển nhanh về giáo dục trực tuyến. Đặc 
biệt, với diễn biến thời tiết, dịch bệnh ngày càng 
phức tạp, điển hình như dịch Covid-19 hiện nay, đào 
tạo đại học trực tuyến đã thể hiện rõ vai trò trong 
việc duy trì hoạt động học tập của sinh viên. Tuy 
nhiên, mặc dù có tiềm năng khá lớn, đào tạo đại học 
trực tuyến hiện nay tại Việt Nam chưa được khai 
thác rộng rãi, triệt để và còn tồn tại nhiều thách thức 
với các bên liên quan. 
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất 
một số giải pháp và kiến nghị thúc đẩy triển khai 
đào tạo đại học trực tuyến tại Việt Nam. Cụ thể, các 
trường đại học cần chủ động triển khai công tác phổ 
biến về phương pháp, kỹ năng sử dụng công nghệ, 
tin học hay nâng cấp hạ tầng công nghệ phục vụ 
hoạt động đào tạo trực tuyến, Bên cạnh đó, các 
trường đại học cần thực hiện đồng bộ các giải pháp 
để có thể triển khai thành công mô hình đào tạo đại 
học trực tuyến trong thời đại 4.0 tại Việt Nam.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Bouhnik, D.Marcus, T. (2006), Interaction in 
Distance-Learning Courses, Journal of the 
American Society for Information Science and 
Technology, 57, 299-305. 
2. Callan, V.J.Bowman, K., & Framework, A. F. 
L. (2010), Sustaining E-Learning Innovations: A 
Review of the Evidence and Future Directions: 
Final Report, November 2010. 
3. Garrison, D.R. (2011), E-Learning in the 21st 
Century: A Framework for Research and Practice, 
Taylor & Francis. 
4. Huỳnh Đệ Thủ (2019), Hệ thống đào tạo trực 
tuyến E-Learning tại Trường Đại học Kinh tế - Tài 
chính TP. Hồ Chí Minh: Nghiên cứu đánh giá và 
kiến nghị, Phát triển & Hội nhập, Số 46 (56) - Tháng 
05 - 06/2019. 
5. Jones A.J. (2003), ICT and Future Teachers: 
Are we preparing for e-Learning?, the IFIP Working 
Groups 3.1 and 3.3 Conference: ICT and the 
Teacher of the Future, January 27-31, 2003, 
Melbourne, Australia. 
71
?
Sè 139/2020
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
6. Liaw, S. S & Huang, H. M. (2011), A Study of 
Investigating Learners Attitudes toward E-
Learning, International Conference on Distance 
Learning and Education Vol. 12, pp. 28-32. 
7. McCombs, B. (2011), Learner-Centered 
Practices: Providing the Context for Positive 
Learner Development, Motivation, and 
Achievement (Chapter 7), Handbook of Research 
on Schools, Schooling, and Human Development. 
Mahwah, NJ: Erlbaum. 
8. Moravec, T., Stepanek, P., & Valenta, P. 
(2015), The Influence of Using E-Learning Tools on 
the Results of Students at the Tests, Procedia Social 
and Behavioural Sciences, 176, 81-86. 
9. Nguyễn Minh Tân (2015), Nghiên cứu mô 
hình và đề xuất giải pháp đào tạo trực tuyến hỗ trợ 
một số môn học, ngành học tại Trường Đại học Thái 
Nguyên, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 133(03)/1: 
167 - 172. 
10. Ong, C-S.Lai, J.-Y & Wang, Y-S. (2004), 
Factors affecting engineers’ acceptance of asyn-
chronous e-learningsystems in high-tech compa-
nies, Information & Management 41 (6), 795-804. 
11. Tarhini, A.Hassouna, M. Abbasi, M.S & 
Orozco (2015), Towards the Acceptance of RSS to 
Support Learning: An empirical study to validate 
the Technology Acceptance Model in Lebanon, 
Electronic Journal of e-Learning 13(1), 30-41. 
12. Tarhini, A.Hone, K & Liu, X. (2013), 
Extending the TAM to Empirically Investigate the 
Students’ Behavioural Intention toUse E-
Learning in Developing Countries, Science and 
Information Conference (IEEE), United 
Kingdom, 07-09 Oct 2013. 
13. Tarhini, A.Hone, K & Liu, X. (2014), The 
effects of individual differences on e-learning users’ 
behaviour in developing countries: A structural 
equation model, Computers in Human Behavior, 41, 
153-163. 
14. Tsang, P., Kwan, R., & Fox, R. (2007), 
Enhancing Learning through Technology, World 
Scientific. 
15. Trần Thanh Điện, Nguyễn Thái Nghe (2017), 
Các mô hình E-learning hỗ trợ dạy và học, Tạp chí 
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề: 
Công nghệ thông tin (2017): 103-111. 
16. Trần Thị Lan Thu (2019), Quản lý đào tạo 
trực tuyến tại các trường đại học Việt Nam hiện nay, 
Luận án tiến sỹ quản lý giáo dục, Viện Hàn lâm 
Khoa học & Xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học 
& Xã hội. 
17. Wagner, N.Hassanein, K & Head, M. (2008), 
Who is responsible for E-Learning Success in 
Higher Education? A Stakeholders' Analysis, 
Educational Technology & Society, 11 (3), 26-36. 
Summary 
The study looks at the motivation and potential 
of online tertiary training in Vietnam during the 
ongoing Industrial Revolution 4.0. In employing 
methods of data collection and statistics and inter-
views, the researchers identify the motivations and 
challenges to the stakeholders as well as the poten-
tial and situation of online tertiary training in 
Vietnam at present. Online training allows students 
and lecturers to easily access new technologies and 
save time and resources especially in the context of 
geographical distance, social security crisis, and dis-
eases and epidemic. In the recent time, despite great 
potentials, online tertiary training in Vietnam hasn’t 
been exploited intensively and extensively. On the 
basis of their study, the researchers suggest several 
solutions to enhancing online tertiary training in 
Vietnam in the coming time. 
Sè 139/202072
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfdong_luc_va_tiem_nang_dao_tao_dai_hoc_truc_tuyen_tai_viet_na.pdf