Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống - giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông

Tóm tắt. Bài viết tổng quan các hướng tiếp cận giáo dục Giá trị sống (GTS) và Giáo dục kĩ

năng sống (KNS) cho học sinh phổ thông nói chung. Phân tích mối quan hệ giữa giáo dục

GTS và giáo dục KNS cho học sinh phổ thông trong một số chương trình giáo dục GTSKNS đang tồn tại hiện nay ở các trường phổ thông của Việt Nam. Có nhiều hướng tiếp cận

giáo dục GTS và giáo dục KNS khác nhau, có hướng tiếp cận giáo dục độc lập giữa GTS và

KNS, có xu hướng tiếp cận giáo dục GTS thông qua giáo dục KNS hoặc ngược lại, có xu

hướng giáo dục tích hợp- giáo dục đồng thời cả GTS và KNS. Dù tiếp cận theo cách nào thì

giáo dục GTS và giáo dục KNS cũng không bao giờ tách rời, chúng luôn có mối liên quan

chặt chẽ, giáo dục GTS là gốc rễ, là cơ sở để giáo dục KNS; giáo dục KNS là con đường

hiện thực hoá những kiến thức, những GTS mà học sinh đã được học tập, trải nghiệm và

tích luỹ. Bài báo đồng thời cũng đề xuất một số ý kiến trong việc tích hợp giáo dục GTS và

giáo dục KNS trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.

pdf 9 trang yennguyen 2980
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống - giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống - giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông

Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống - giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông
70 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2020-0058 
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4, pp. 70-78 
This paper is available online at  
XU HƯỚNG TIẾP CẬN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC 
GIÁ TRỊ SỐNG - GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG 
Trần Thị Lệ Thu* và Trần Thị Cẩm Tú 
Khoa Tâm lí Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt. Bài viết tổng quan các hướng tiếp cận giáo dục Giá trị sống (GTS) và Giáo dục kĩ 
năng sống (KNS) cho học sinh phổ thông nói chung. Phân tích mối quan hệ giữa giáo dục 
GTS và giáo dục KNS cho học sinh phổ thông trong một số chương trình giáo dục GTS- 
KNS đang tồn tại hiện nay ở các trường phổ thông của Việt Nam. Có nhiều hướng tiếp cận 
giáo dục GTS và giáo dục KNS khác nhau, có hướng tiếp cận giáo dục độc lập giữa GTS và 
KNS, có xu hướng tiếp cận giáo dục GTS thông qua giáo dục KNS hoặc ngược lại, có xu 
hướng giáo dục tích hợp- giáo dục đồng thời cả GTS và KNS. Dù tiếp cận theo cách nào thì 
giáo dục GTS và giáo dục KNS cũng không bao giờ tách rời, chúng luôn có mối liên quan 
chặt chẽ, giáo dục GTS là gốc rễ, là cơ sở để giáo dục KNS; giáo dục KNS là con đường 
hiện thực hoá những kiến thức, những GTS mà học sinh đã được học tập, trải nghiệm và 
tích luỹ. Bài báo đồng thời cũng đề xuất một số ý kiến trong việc tích hợp giáo dục GTS và 
giáo dục KNS trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: giá trị sống, kĩ năng sống, tiếp cận, giáo dục, mối quan hệ. 
1. Mở đầu 
Giáo dục không chỉ hướng tới đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội mà còn giúp 
con người có năng lực để sống một cuộc sống có chất lượng và hạnh phúc. Sự phát triển mạnh 
mẽ của khoa học công nghệ đã tạo nên thế giới bất định, đòi hỏi con người phải có năng lực ứng 
phó vượt qua những thách thức (hay còn gọi là kĩ năng sống) (Nguyễn Thanh Bình, 2009). Bối 
cảnh những năm 1990, thanh thiếu niên toàn cầu đối diện với hai vấn đề nổi cộm đó là bạo lực 
và cuộc sống quá thiên về vật chất dẫn đến lối sống ích kỉ, buông thả. Trong năm 1996, 
UNICEF đã chủ trương xây dựng chương trình giáo dục giá trị dành cho thanh thiếu niên với 
mục đích kêu gọi chia sẻ giá trị, kĩ năng cho một thế giới tốt đẹp hơn (Tillman.D, 2010). 
Tại Việt Nam, thuật ngữ Kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông từ 
những năm 1995 - 1996 thông qua Dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống 
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc 
(UNICEF) phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ 
năm 2000, Chương trình Giáo dục Giá trị sống (LVEP) đã triển khai nhiều hoạt động như tập 
huấn giảng viên, cung cấp tài liệu, hướng dẫn thực hành các giá trị sống cho các đối tượng khác 
nhau. Tuy nhiên, Chương trình chỉ mới triển khai tại các cơ sở giáo dục – lao động – xã hội với 
các đối tượng là học viên cai nghiện, trẻ em đường phố, trẻ em bị thiệt thòi và một số trường 
dân lập ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh (Tillman.D, 2010). 
Ngày nhận bài: 11/3/2020. Ngày sửa bài: 27/3/2020. Ngày nhận đăng: 10/4/2020. 
Tác giả liên hệ: Trần Thị Lệ Thu. Địa chỉ e-mail: thuttl@hnue.edu.vn 
Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống – giáo dục kĩ năng sống... 
71 
Tại Việt Nam, Từ năm 2005 bắt đầu xuất hiện môn học/hoạt động giáo dục giá trị sống 
(GTS) và/ hoặc kĩ năng sống (KNS)- hoạt động này được lồng ghép vào giờ sinh hoạt hoặc thời 
gian tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp (Nguyễn Thanh Bình, 2009; Đặng Quốc Bảo, 2011). 
Để rèn luyện KNS, Bộ Giáo dục và Đào tạo xã định là một trong năm nội dung của phong 
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường phổ thông 
giai đoạn 2008 – 2013 (Đặng Thúy Anh, Lê Minh Châu và nhóm tác giả, 2014) . Từ năm học 
2010 – 2011, với sự hỗ trợ, kĩ thuật của UNICEF, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức biên soạn 
tài liêu, tập huấn giáo viên và chỉ đạo việc tăng cường giáo dục KNS qua các môn học, qua hoạt 
động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh các trường phổ thông, thực tiễn cho thấy hiệu quả 
giáo dục chưa thực sự hiệu quả do năng lực và nhận thức của giáo viên còn hạn chế (Nguyễn 
Thanh Bình, 2018). 
Tính đến tháng 10/2018, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hầu hết các Sở Giáo 
dục và Đào tạo đã xây dựng kế hoạch/ chương trình triển khai công tác giáo dục đạo đức, lối 
sống và kĩ năng sống trong các nhà trường (Bộ GDĐT,2018). 
Hiện nay, giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống là một nội dung quan trọng trong đổi mới 
giáo dục phổ thông và là một trong các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhân cách cho 
học sinh. Bài báo sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng quan tài liệu, tổng quan những chương 
trình hiện hành để phân tích xu hướng tiếp cận giáo dục GTS và KNS hiện nay và mối quan hệ 
giữa giáo dục GTS – giáo dục KNS; trên cơ sở nghiên cứu tổng quan đề xuất một số ý kiến/lưu 
ý trong quá trình kết hợp giữa giáo dục GTS và giáo dục KNS. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Khái quát về giáo dục giá trị sống và giáo dục kĩ năng sống 
2.1.1. Giá trị sống và giáo dục giá trị sống 
Giá trị sống là tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, quý giá, quan trọng, có ý nghĩa 
đối với cuộc sống; khiến mỗi người mong muốn lĩnh hội và thể hiện ra để cuộc sống của mình 
tốt đẹp hơn, đồng thời góp phần cải thiện đời sống chung (Mạc Văn Trang, 2011; Tillman & 
Colomina, 2000; Nguyễn Công Khanh, 2012). 
Giáo dục GTS cho học sinh phổ thông là quá trình giúp học sinh tiếp thu, lĩnh hội được 
những giá trị phổ quát của xã hội, biến thành những giá trị đặc trưng của bản thân mỗi học sinh; 
giúp các em có suy nghĩ, thái độ và hành động tích cực, hiệu quả, phù hợp với bản thân và đáp 
ứng mong đợi của cộng đồng, xã hội (Mạc Văn Trang, 2011; Nguyễn Công Khanh, 2012; Trần 
Thị Lệ Thu, 2013). 
Mục tiêu giáo dục GTS cụ thể đối với học sinh là hình thành nên những giá trị sống “của 
học sinh, do học sinh, vì học sinh”, để học sinh sống tốt đẹp hơn, làm việc chất lượng hơn, hiệu 
quả hơn; đem lại lợi ích trước hết cho học sinh, sau đó là cho gia đình, nhà trường & xã hội 
(Mạc Văn Trang, 2011). 
Các chương trình giáo dục GTS đều hướng tới giáo dục 12 giá trị sống cơ bản, mang tính 
toàn cầu, đã được công bố bởi UNESCO và UNICEF vào năm 1997: hòa bình, tôn trọng, yêu 
thương, khoan dung, hạnh phúc, trách nhiệm, hợp tác, khiêm tốn, trung thực, giản dị, tự do, 
đoàn kết (Tillman, 2008; Tillman và Hsu, 2008; Tillman và Colomina, 2000; Tillman, 2010; 
Phạm Minh Hạc, 2010; Mạc Văn Trang 2011; Bùi Ngọc Diệp và cộng sự 2010). Các giá trị này 
được lựa chọn và giáo dục cho các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông và cả cao 
đẳng, đại học. 
2.1.2. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống 
Kĩ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khỏe 
mạnh; đó là những kĩ năng mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng về giao tiếp được vận dụng trong 
Trần Thị Lệ Thu* và Trần Thị Cẩm Tú 
72 
tình huống hàng ngày để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết vấn đề, 
những tình huống trong cuộc sống hàng ngày (Nguyễn Thanh Bình, 2009; Mạc Văn Trang, 
2011; Nguyễn Công Khanh, 2012). 
Giáo dục KNS là giáo dục những kĩ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp học 
sinh/trẻ em có thể chuyển tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) 
và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp học sinh biết phải làm 
gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống (Nguyễn Thị 
Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa và Bùi Thị Thúy Hằng, 2010). 
Các chương trình giáo dục KNS đều hướng tới mục tiêu: (1) Là thay đổi nhận thức, xây 
dựng và thay đổi hành vi theo hướng tích cực trước các vấn đề đặt ra trong cuộc sống; (2) hiểu 
được tác động của thái độ và hành vi của mình đối với người khác, biết ứng dụng các nguyên 
tắc phát triển bền vững vào cuộc sống của mình (Nguyễn Thanh Bình, 2009; Mạc Văn Trang, 
2011; Bùi Ngọc Diệp và cộng sự 2010). 
Các chương trình giáo dục KNS đều tập trung vào những nhóm kĩ năng cơ bản nhất định 
theo từng cấp học/bậc học; cách nhóm các kĩ năng đều được dụ vào khung phân loại của 
UNESCO năm 2003, Cách phân loại này chia thành 3 nhóm KNS: (1) Nhóm KN nhận thức (tư 
duy phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, ra quyết định, sáng tạo, tự nhận thức bản 
thân, đặt mục tiêu, xác định giá trị, etc.); (2) Nhóm KN đương đầu với cảm xúc (kiềm chế căng 
thăng, kểm soát cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát, tự điều chỉnh, etc.); (3) Nhóm KN xã hội hay 
KN tương tác (giao tiếp, quyết đoán, thương thuyết, từ chối, lắng nghe tích cực, hợp tác, thông 
cảm, nhận biết thiện cảm của người khác) (Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi Thị 
Thúy Hằng 2010). 
2.2. Xu hướng tiếp cận giáo dục giá trị sống và giáo dục kĩ năng sống tại các 
trường phổ thông hiện nay 
Ở một số quốc gia, giáo dục GTS và KNS được đưa vào dạy học theo một trong bốn hình 
thức: (1) Tách riêng thành một môn học riêng biệt (2) Tích hợp vào một hoặc hai môn học dạy 
nghề (3) Lồng ghép vào chương trình học (4) Kết hợp cả hai hình thức lồng ghép và tích hợp 
(UNICEF, 2012) 
Tại Việt Nam, về tổng thể từ năm 2000 đến nay có 05 xu hướng tiếp cận chính trong giáo 
dục GTS và KNS dành cho học sinh từ bậc học mầm non đến trung học phổ thông: (1) tiếp cận 
độc lập- dạy GTS riêng, KNS riêng (Nguyễn Thanh Bình, 2009; Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị 
Kim Thoa, Đặng Hoàng Minh, Phan Thị Thảo Hương, Bùi Thị Thúy Hằng, 2010); (2) Tiếp cận 
lồng ghép- dạy GTS hoặc/và KNS lồng ghép với hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc các môn học 
chính quy (Bùi Ngọc Diệp và cộng sự, 2010); (3) Tiếp cận tích hợp- dạy đồng thời GTS và KNS 
trong từng bài học, từng trải nghiệm và từng hoạt động (Cánh Buồm, 2011; Tillman, 2008; 
Tillman và Hsu, 2008; Tillman và Colimina, 2000; Tillman, 2010, Trần Thị Lệ Thu & CS 2016). 
Với cách tiếp cận độc lập, Giáo dục GTS và KNS được tách riêng theo những chương trình 
đã thiết kế sao cho mục tiêu, việc lựa chọn các GTS và KNS phù hợp với từng đối tượng học 
sinh ở các cấp học khác nhau. Đối với học sinh tiểu học, nhà trường tập trung vào KNS như tự 
bảo vệ tránh tai nạn, thương tích, xâm hại tình dục(Nguyễn Thanh Bình và cộng sự, 2018) ; 
đối với lứa tuổi vị thành niên, KNS chú trọng hơn đến những KNS như Kĩ năng kiểm soát cảm 
xúc, Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng tự nhận thức, Kĩ năng tư duy phê phán, Kĩ năng ra quyết định, 
Kĩ năng kiên địnhĐối với giáo dục GTS, các chương trình giáo dục đều hướng tới 12 GTS cơ 
bản của LVEP (Tillman.D, 2010). 
Giáo dục và phát triển GTS và KNS theo khuynh hướng hiện đại ngày nay thường được tổ 
chức với các kĩ thật cụ thể như: (1) hướng dẫn người học tự khám phá, suy ngẫm và chia sẻ; (2) 
sử dụng các sự kiện có thật để cùng bàn luận và thực hành; (3) trải nghiệm giá trị và kĩ năng 
Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống – giáo dục kĩ năng sống... 
73 
thông qua từng trò chơi; (4) cảm nhận về giá trị và kĩ năng thông qua các vai đa dạng; (5) khám 
phá những ý tưởng mới, trải nghiệm mới của bản thân và người xung quanh; (6) hình dung, 
tưởng tượng các sự kiện, các tình huống; (7) hồi tưởng về quá khứ hoặc những trải nghiệm đã 
qua; (8) thể hiện giá trị thông qua các hình thức đa dạng (âm nhạc, nghệ thuật, hình thể, ngôn 
ngữ và phi ngôn ngữ,...); (9) nêu gương; (10) rèn luyện, sử dụng và thể hiện KNS dựa trên nền 
tảng của những GTS tích cực; (11) bộc lộ những GTS tích cực thông qua các kĩ năng tích cực; 
(12) lồng ghép giáo dục GTS và KNS vào các môn học và hoạt động trong nhà trường (Trần Thị 
Lệ Thu, 2013). 
Với cách tiếp cận lồng ghép, GDGTS, KNS có thể lồng ghép vào các môn học khác hoặc 
thông qua hoạt động trải nghiệm trong nhà trường (trước đây gọi là Hoạt động giáo dục ngoài 
giờ lên lớp). Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, một số giá trị sống, kĩ năng sống 
được đưa vào nội dung môn Đạo đức ở Tiểu học và Giáo dục công dân ở THCS. Tuy nhiên, tích 
hợp, lồng ghép ở đây không phải là thêm vào nội dung mà là sử dụng các phương pháp và kĩ 
thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho HS được thực hành, trải nghiệm KNS trong 
quá trình học tập Ví dụ: Bài 13: Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam 
của Chương trình Giáo dục công dân lớp 7 có xác định các KNS cơ bản được giáo dục là: KN tư 
duy phê phán về các trường hợp thực hiện hoặc vi phạm quyền trẻ em; KN ra quyết định, giải 
quyết vấn đề để bảo vệ quyền của mình; KN kiên định, KN tìm kiếm sự hỗ trợ trong tình huống 
bị kẻ xấu đe dọa, lôi kéo, dụ dỗ (Đặng Thúy Anh, Lê Minh Châu và nhóm tác giả, 2014). Đối 
với GTS, các giá trị như yêu thương có thể lồng ghép vào môn như Ngữ văn, Giáo dục công dân 
với các nội dung bài học có nhiều điểm tương đồng. 
Với cách tiếp cận tích hợp dạy đồng thời GTS và KNS, đây là xu hướng hiện nay được các 
giáo viên và các nhà trường lựa chọn. Trong từng hoạt động trải nghiệm, bài học, đều hướng tới 
mục tiêu giáo dục đồng thời các GTS và các KNS. KNS này giúp thể hiện các GTS bằng các 
hành vi, ứng xử đồng thời qua mỗi hoạt động, học sinh được rèn luyện các KNS khác để GTS 
và KNS trở nên thống nhất trong mỗi hành động. Quan niệm như vậy giáo dục GTS hay giáo 
dục KNS nên được tiếp cận tích hợp, có nghĩa là: (1) Đồng thời thực hiện hoạt động giáo dục cả 
hai lĩnh vực này (giá trị và kĩ năng); (2) Tổ chức giáo dục GTS và KNS theo hướng mở, phát 
huy tối đa những kiểu trí tuệ (trí thông minh) đa dạng của mỗi cá nhân; (3) Sử dụng tích hợp các 
kĩ thuật và các phương pháp dạy học tích cực trong từng hoạt động hoặc từng bài học (Nguyễn 
Thanh Bình & CS, 2018; Trần Thị Lệ Thu, 2013). Bài viết tập trung phân tích rõ hơn về mối 
quan hệ giữa giáo dục GTS và KNS. 
2.3. Mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống và giáo dục kĩ năng sống 
 Mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống và giáo dục kĩ năng sống thường được các tác giả 
xem xét, phân tích theo một số khía cạnh khác nhau. 
 Xét về bản chất mối quan hệ giữa giá trị và năng lực trong giá trị nhân cách, “giá trị trong 
giá trị học là cái quy định mục đích của hoạt động và động cơ thúc đẩy hoạt động đạt được mục 
đích đó” (Phạm Minh Hạc, 2012). Vì vậy, có thể thể thấy GTS đã bao hàm trong đó các hành vi, 
hoạt động (còn gọi KNS). GTS và KNS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. GTS dẫn dắt, mang 
lại mục đích cho hành vi cá nhân, tạo ra năng lực nói chung và năng lực thể hiện giá trị nói 
riêng. Nếu hành vi không dựa trên GTS sẽ thiếu nhất quán. GTS như là hạt mầm/cái gốc, KNS 
là phần hiện thực hóa của GTS, củng cố niềm tin vào giá trị và KNS giúp bộc lộ rõ nhất các 
GTS cũng như nhân cách của mỗi người. 
Xét về mối quan hệ giữa giáo dục GTS và giáo dục KNS theo mục tiêu giáo dục, mỗi nội 
dung giáo dục trong nhà trường đều hướng tới giáo dục toàn diện nhằm giúp học sinh có nhận 
thức, niềm tin, tình cảm, hành vi, thói quen tích cực (Nguyễn Thị Thanh Bình và cộng sự, 2018, 
Bộ GDĐT, 2013). 
Trần Thị Lệ Thu* và Trần Thị Cẩm Tú 
74 
Theo UNESCO, bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI là “Học để biết, Học để làm, Học để 
chung sống và Học để khẳng định mình” (J.Delors, 1998) . Để đạt hiệu quả trong mỗi trụ cột 
giáo ...  hành vi/ kĩ năng. Do đó, trong giáo dục giá trị đã 
yêu cầu thể hiện kĩ năng/ hành động tích cực phù hợp với giá trị. Trong quy trình giáo dục, giá 
trị sống đã có bước phát triển kĩ năng xã hội và cảm xúc, kĩ năng giao tiếp – chính là những kĩ 
năng xã hội (Nguyễn Thanh Bình & CS, 2018). 
Xét về phương thức/ phương pháp: Giáo dục GTS và KNS đều được thực hiện thông qua 
phương thức trải nghiệm. Đặc điểm của học tập qua trải nghiệm là người học trực tiếp tham gia 
hoạt động, được thể nghiệm bản thân, tham gia tương tác với người khác, bộc lộ những cảm xúc 
của mình (Nguyễn Thị Liên và cộng sự, 2016). Mục đích của việc tổ chức trải nghiệm là để 
người học khám phá về ý nghĩa, nội dung của GTS và KNS thông qua việc kết nối với những 
kinh nghiệm họ đã có hoặc đã biết về GTS và KNS; tạo nhiều cơ hội để người học thực hành 
những KNS và GTS trong những tình huống và bối cảnh mới, đồng thời tạo ra những tình 
huống, hoạt động để người học có thể vận dụng những hiểu biết về GTS và KNS. Chính vì vậy, 
khi tổ chức GD GTS và KNS cần sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học đa dạng và dựa 
trên quan điểm lấy người học làm trung tâm & phát huy tính tích cực của học sinh. Về cơ bản, 
thường xoay quanh 7 phương pháp chính là: dạy học nhóm, nghiên cứu trường hợp, động não, 
giải quyết vấn đề, đóng vai, trò chơi, dự án. 
Xét về mặt nội dung, cho tới nay đã có nhiều chương trình trực tiếp hoặc gián tiếp kết 
hợp/tích hợp giáo dục đồng thời. Chương trình của nhóm tác giả độc lập Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 
Đinh Thị Kim Thoa cùng cộng sự và Nhà xuất bản đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2010 xuất bản 
một bộ sách bao gồm 04 chương trình giáo dục GTS và KNS: (1) Giáo dục GTS và KNS cho trẻ 
mầm non, (2) Giáo dục GTS và KNS cho học sinh tiểu học, (3) Giáo dục GTS và KNS cho học 
sinh trung học cơ sở, (4) Giáo dục GTS và KNS cho học sinh trung học phổ thông. Chương 
trình hướng tới 12 GTS và các nhóm KNS theo từng bậc học. Ví dụ: bậc giáo dục tiểu học tập 
trung vào nhóm 8 kĩ năng: KN tự nhận thức, KN đồng cảm/chia sẻ, KN tư duy tích cực, KN 
kiểm soát tức giận, KN kiên định, KN giải quyết xung đột, KN hợp tác, KN tìm kiếm sự giúp đỡ 
(Nguyễn Thị Mỹ Lộc và cộng sự, 2010). Bậc giáo dục trung học cơ sở tập trung vào nhóm 8 kĩ 
năng: KN tự nhận thức, phát triển sự tự trọng, KN thấu cảm, KN kiên cường, KN tư duy phê 
phán, KN giải quyết vấn đề & ra quyết định, KN giải quyết xung đột, KN kiên định (Nguyễn 
Thị Mỹ Lộc và cộng sự, 2010); giáo dục trung học phổ thông tập trung vào nhóm 6 kĩ năng: KN 
Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống – giáo dục kĩ năng sống... 
75 
tự nhận thức, KN kiên định, KN từ chối, KN ra quyết định, KN hợp tác, KN lắng nghe (Nguyễn 
Thị Mỹ Lộc và cộng sự, 2010). Mặc dù, chương trình được thiết kế tích hợp GTS và KNS tuy 
nhiên các bài học và GTS và KNS vẫn bị tách rời nhau theo từng chủ đề của GTS hoặc KNS. 
Chương trình LVEP tập trung khám phá 12 GTS và hướng tới việc phát triển kĩ năng đặc 
biệt chú trọng các kĩ năng xã hội và cảm xúc cá nhân, kĩ năng giao tiếp ứng xử thể hiện thành 
các hành vi, thói quen trong cuộc sống chứa đựng các GTS (Tillman.D, 2010). 
Nhóm tác giả HIH thuộc Quỹ tài năng trẻ Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam có 
xây dựng chương trình giáo dục GTS-KNS cho học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là 
chương trình thể hiện rõ sự kết hợp giữa GTS và KNS trong từng bài học. Chương trình tập 
trung vào 12 GTS cơ bản theo sự phân chia từng lớp học: Lớp 1 (GTS bình an và tôn trọng); 
Lớp 2 (GTS: Yêu thương, Khoan dung); Lớp 3 (GTS: Hạnh phúc, Trách nhiệm); Lớp 4 
(GTS:Hợp tác – Khiêm tốn – Trung thực); Lớp 5 (GTS: Giản dị, Tự do, Đoàn kết) và 09 Kĩ 
năng mềm nền tảng xuyên suốt 5 năm học tiểu học: Lắng nghe - Thuyết trình- Chia sẻ- Tự nhận 
thức - Hợp tác – Biểu cảm - Đồng cảm - Ra quyết định - Nêu gương. Toàn bộ nội dung của bộ 
sách được xây dựng theo định hướng đồng tâm, dựa trên lí thuyết và mô hình sinh thái của nhà 
tâm lí học người Mỹ Bronfenbrenner: các bài học tập trung vào bản thân trẻ, sau đó tới các mối 
quan hệ - môi trường gần nhất với trẻ, rồi được mở rộng dần. Mỗi bài học bao gồm cả giá trị 
sống và kĩ năng sống: giá trị sống là nền tảng (cái gốc), kĩ năng sống là sự thể hiện, bộc lộ của 
cái cốt lõi là giá trị sống. Trong mỗi bài bao gồm cả phần rèn luyện các kĩ năng mềm (chính là 
những kĩ năng sống cơ bản, nền tảng). Ví dụ học về giá trị trung thực, các em được rèn kĩ năng thể 
hiện, phát triển giá trị trung thực; đồng thời được tích hợp luyện tập và phát triển cả một số kĩ 
năng mềm như kĩ năng lắng nghe, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng chia sẻ, kĩ năng hợp tác và tự nhận 
thức (Trần Thị Lệ Thu, 2015). 
 Như vậy có thể nhận thấy rõ mối quan hệ giữa giáo dục GTS và giáo dục KNS cho học 
sinh phổ thông tại Việt Nam thông qua định hướng giáo dục phổ thông hiện hành và các chương 
trình giáo dục GTS, giáo dục KNS đang tồn tại hiện nay. Có thể nói đây là mối quan hệ tương 
tác qua lại, khi thực hiện giáo dục GTS cũng đồng thời giáo dục KNS và ngược lại; trong từng 
chương trình, tuỳ cách tổ chức, tuỳ xu hướng tiếp cận chính và tuỳ nội dung tích hợp mà giáo 
dục GTS hay giáo dục KNS sẽ đóng vai trò chủ đạo chính; dù thế nào cũng không nên tách biệt 
hoàn toàn hai loại giáo dục này- thực tế mối quan hệ này cũng đã chứng minh trong tất cả 
chương trình chúng tôi đã điểm luận. 
2.4. Một số ý kiến về tích hợp giáo dục giá trị sống với giáo dục kĩ năng sống hiện nay 
Qua phân tích trên có thể thấy, GTS và KNS, giáo dục GTS và KNS có mối quan hệ biện 
chứng và không thể tách rời. Việc kết hợp GTS và KNS trong một chương trình là phù hợp, tất 
yếu và mang lại hiệu quả tích cực trong giáo dục; chính vì vậy không nên tách riêng hoàn toàn 
chỉ giáo dục GTS hoặc chỉ giáo dục KNS. Tuy nhiên, khi kết hợp giáo dục GTS và KNS cần lưu 
ý một số khía cạnh như sau: 
(1) Tích hợp linh hoạt và đồng thời, không nên kết hợp kiểu cơ học, khiên cưỡng. Cần căn 
cứ vào mục tiêu giáo dục, đối tượng giáo dục, hoàn cảnh, môi trường, yêu cầu giáo dục cụ thể 
để xác định các GTS và KNS cốt lõi. Trên cơ sở đó, phân tích các GTS và KNS nhằm làm rõ 
những nội dung giao thoa, tương đồng để có thể đưa vào chương trình giáo dục tích hợp sao cho 
phù hợp và hiệu quả. 
(2) Cần phải đảm bảo một số nguyên tắc giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống trong đó chú 
ý đến nguyên tắc trải nghiệm và cơ chế hình thành giá trị sống và kĩ năng sống (Trần Thị Lệ 
Thu và Cộng sự, 2016, Nguyễn Thị Thanh Bình và Cộng sự, 2018). Giảng dạy/giáo dục GTS và 
KNS không giống với giảng dạy các kiến thức. Học sinh chỉ thực sự bộc lộ, thể hiện các GTS và 
KNS thành các hành vi, thói quen cụ thể khi các em được trải nghiệm (được cảm nhận, được 
Trần Thị Lệ Thu* và Trần Thị Cẩm Tú 
76 
tương tác, được hoạt động) để họ có cơ hội hiểu, đánh giá, lựa chọn sau khi đã kết nối những 
điều được học về GTS, KNS với những trải nghiệm của bản thân. 
(3) Khi tổ chức giáo dục GTS và KNS, cần sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, mỗi 
bài học cần có sự kết hợp đa dạng các hoạt động dựa trên sự tiếp cận tư duy đa trí tuệ và tiềm 
năng sáng tạo của mỗi học sinh. Tạo cơ hội để học sinh thể hiện các GTS và KNS trong các tình 
huống cụ thể. 
(4) Mỗi giáo viên dạy GTS và KNS cần được trải qua đào tạo và thực hành về giáo dục 
GTS- KNS chuyên sâu; cần có những hiểu biết và trải nghiệm về kiến thức, phương pháp, 
nguyên tắc giáo dục GTS và KNS trong những khoá đào tạo chính thức này. Đồng thời, là một 
tấm gương biểu hiện (sống với) các GTS và các KNS trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày 
(Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa, 2010). 
3. Kết luận 
Bài báo đã phân tích được các xu hướng tiếp cận và chỉ rõ mối quan hệ giữa giá trị sống và 
kĩ năng sống hiện nay trong các nhà trường phổ thông. Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận về 
giáo dục GTS và KNS. Tuy nhiên, xu hướng tiếp cận tích hợp giáo dục giá trị sống và kĩ năng 
sống là xu hướng phù hợp bởi xét về bản chất, xết về mục tiêu giáo dục, xét về phương thức, 
phương pháp giáo dục và xét về nội dung giáo dục đều có thể khẳng định giáo dục GTS và KNS 
có mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời. Giáo dục GTS là gốc rễ, là cơ sở để giáo dục KNS; giáo 
dục KNS là con đường hiện thực hoá những kiến thức, những GTS mà học sinh đã được học 
tập, trải nghiệm và tích luỹ. Chính vì vậy xây dựng và triển khai các chương trình tích hợp giáo 
dục GTS và giáo dục KNS sẽ tạo nên hiệu quả lâu dài và bền vững trong quá trình giáo dục 
nhân cách ở mỗi học sinh. 
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc 
gia (NAFOSTED) Trong đề tài mã số 501.01-2016.01. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đặng Thúy Anh, Lê Minh Châu, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Thị 
Tố Oanh, Phạm Thị Thu Phương, Lưu Thu Thủy, Đào Vân Vi, 2014. Giáo dục kĩ năng 
sống trong môn Giáo dục công dân ở trường (Tài liệu dành cho giáo viên). Nxb Giáo dục 
Việt Nam. 
[2] Nguyễn Thanh Bình, 2009. Giáo trình Giáo dục Kĩ năng sống. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[3] Nguyễn Thanh Bình (chủ biên), Lưu Thu Thuỷ, Đào Thị Oanh, Nguyễn Thị Kim Dung, Lê 
Thị Thu Hà, Nguyễn Hoàng Đoan Huy, Vũ Thị Hồng, 2018. Phát triển năng lực cốt lõi cho 
học sinh phổ thông theo tiếp cận giá trị và kĩ năng sống. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[4] Đặng Quốc Bảo, 2011. Giáo dục giá trị sống cho thế hệ trẻ. Tạp chí Giáo dục Thủ đô, 20, 
tr.15- 17. 
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2013. Hệ thống môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình 
giáo dục phổ thông sau năm 2015. Hà Nội. 
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018. Chương trình giáo dục phổ thông, chương trình tổng thể. 
Hà Nội. 
[7] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội thảo Thực trạng và giải pháp Giáo dục kĩ năng sống trong 
trường học, ngày 12/10/2018, https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/gd-ky-nang-song-noi-
dung-quan-trong-trong-doi-moi-chuong-trinh-gd-pho-thong-3957061-v.html 
[8] Cánh buồm, 2011. Sách học Lối sống - lớp 1. Nxb Tri thức. 
Xu hướng tiếp cận và mối quan hệ giữa giáo dục giá trị sống – giáo dục kĩ năng sống... 
77 
[9] Cánh buồm, 2011. Sách học Lối sống - lớp 2. Nxb Tri thức. 
[10] Bùi Ngọc Diệp, Lê Minh Châu, Trần Thị Tố Oanh, Phạm Thị Thu Phương, Nguyễn Dục 
Quang, lê Thanh Sử, Lưu Thu Thuỷ, Đào Vân Vi, 2010. Giáo dục KNS trong hoạt động 
ngoài giờ lên lớp ở trường trung học phổ thông. Nxb Giáo dục Việt Nam. 
[11] Phạm Minh Hạc, 2012. Giá trị học, Cơ sở lí luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung 
của người Việt Nam thời nay. Nxb Dân trí. 
[12] J.Delors, 1998. Learning: the Treasure Within, Report of UNESCO of the international 
Commission on education for 21st century. UNESCO Publishing. 
[13] Nguyễn Công Khanh, 2012. Phương pháp giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống. Nxb Đại 
học Sư phạm, Hà Nội. 
[14] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, 2010. Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho 
học sinh trung học cơ sở (tài liệu dùng cho GV tiểu học). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[15] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Phan Thị Thảo Hương, 2010. Giáo dục giá trị 
sống và kĩ năng sống cho trẻ mầm non (tài liệu dùng cho GV mần non). Nxb Đại học Quốc 
gia Hà Nội. 
[16] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi Thị Thúy Hằng, 2010. Giáo dục giá trị sống 
và kĩ năng sống cho học sinh tiểu học (tài liệu dùng cho GV tiểu học). Nxb Đại học Quốc 
gia Hà Nội. 
[17] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Đặng Hoàng Minh, 2010. Giáo dục giá trị sống 
và kĩ năng sống cho học sinh THCS (tài liệu dùng cho GV THCS). Nxb Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 
[18] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính, Vũ Phương Liên, 2010. Giáo 
dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông (tài liệu dùng cho giáo 
viên trung học phổ thông). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[19] Nguyễn Thị Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Hằng, Tưởng Duy Hải, Đào Thị Ngọc Minh, 
2016. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Nxb Giáo dục Việt Nam. 
[20] Tillman. D, 2008. Living value activities for young adults. Health communications, InC; 
deerfield Beach, Florida, USA. 
[21] Tilman & Diana Hsu, 2010. Những Giá trị sống cho trẻ 3- 7 tuổi. Nxb Tổng hợp TP. Hồ 
Chí Minh. 
[22] Tillman.D, 2010. Những Giá trị sống cho trẻ 8 -14 tuổi. Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. 
[23] Tillman.D, 2010. Những Giá trị sống cho tuổi trẻ. Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. 
[24] Tillman.D & Diana Hsu, 2010. Những Giá trị sống trong giáo dục con trẻ. Nxb Tổng hợp 
TP. Hồ Chí Minh. 
[25] Trần Thị Lệ Thu, Bùi Bích Liên, Trần Thị Cẩm Tú, 2016. Giáo dục giá trị sống và kĩ năng 
sống cho học sinh tiểu học (tài liệu dành cho giáo viên). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[26] Trần Thị Lệ Thu, 2013. Tiếp cận tích hợp trong giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho 
sinh viên. Nâng cao chất lượng giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho sinh viên sư 
phạm. Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây, tr.21-26. 
[27] Tran Thi Le Thu, 2014. Living Values & life skills programs in Vietnamese schools. ICER 
2014, Inovations & good Practices in Education: Global Perspective, 7, tr.343- 352. 
[28] Trần Thị Lệ Thu, 2015. Chương trình giáo dục giá trị sống - kĩ năng sống dành cho học 
sinh tiểu học của nhóm HIH thuộc Quỹ tài năng trẻ Hội Khoa học Tâm lí – Giáo dục Việt 
Nam. Tâm lí học và Giáo dục học với phát triển phẩm chất và năng lực người học. Nxb 
Thế giới, tr.226- 235. 
Trần Thị Lệ Thu* và Trần Thị Cẩm Tú 
78 
[29] Mạc Văn Trang, 2011. Giáo dục GTS cho học sinh phổ thông hiện nay. Hội Khoa học 
Tâm lí Giáo dục Hà Nội. Kỉ yếu hội thảo khoa học, 01, tr.28- 39. 
[30] UNICEF, 2013. Asia – Pacific End of Decade Notes on Education for All: Life Skills and 
Lifelong Learning. UNESCO Bangkok. 
[31] UNICEF, 2012. Final Report in Global Life Skill Education Evaluation. UNICEF. 
ABSTRACT 
The approaches and the relation between Living value education 
& Life skill education for school students 
Tran Thi Le Thu và Tran Thi Cam Tu 
The Faculty of Psychology, Hanoi National University of Education 
The article provides an overview of Living value education & Life skill education 
approaches for pupilsand analyses the relationship between Living value education & Life skill 
education for pupils in some existing Living value education & Life skill education program in 
Vietnamese schools. There are different approaches of Living value education & Life skill 
education: the approach to separate between Living value education & Life skill education, the 
approach to educate Living values based on Life skill education or educate Life skills based on 
Living value education, and the approach to integrate both Living value education & Life skill 
education at the same time. In any case, Living value education & Life skill education are never 
separated, they always have a close relationship. Living value education is the root, a basis for 
educating life skills. Life skills education is a way to actualize the knowledge and living values 
that students have learned, experienced and accumulated. The paper also proposes some ideas 
on integrating Living value education & Life skill education in the current Vietnamese context. 
Keywords: living value, life skill, approach, education, relation. 

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_tiep_can_va_moi_quan_he_giua_giao_duc_gia_tri_song.pdf