Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản

ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương

mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo

cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm

của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong

mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay

vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM

mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc

giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do

những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong

môi trường kinh doanh.

pdf 10 trang yennguyen 6820
Bạn đang xem tài liệu "Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam

Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam
37
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 193- Tháng 6. 2018
Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ 
và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo- bằng 
chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
Đào Nam Giang
Ngày nhận: 01/06/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/06/2018 Ngày duyệt đăng: 18/06/2018
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản 
ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương 
mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo 
cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm 
của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong 
mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay 
vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM 
mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc 
giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do 
những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong 
môi trường kinh doanh.
Từ khóa: thao túng lợi nhuận kế toán; phân phối của lợi nhuận; 
tránh báo cáo lỗ; thao túng số liệu để đạt được các mục tiêu đề ra.
1. Tổng quan nghiên cứu về điều chỉnh số 
liệu kế toán để tránh báo lỗ và tránh sự sụt 
giảm của lợi nhuận 
ai mục tiêu chủ yếu mà các 
nhà quản trị muốn điều chỉnh 
số liệu để đạt tới là tránh báo 
cáo lỗ và tránh báo cáo mức lợi 
nhuận sụt giảm. Để nghiên cứu 
hành vi này, các nhà nghiên cứu chủ yếu sử 
dụng phương pháp xem xét phân phối của lợi 
nhuận hoặc phân phối của mức thay đổi của lợi 
nhuận (earnings distribution approach- EDA) 
do Burgstahler and Dichev (1997) đưa ra. Theo 
đó, nếu số liệu báo cáo bị bóp méo để tránh báo 
có lỗ, khi xem xét phân phối của lợi nhuận ta 
có thể thấy một mức độ tập trung bất thường 
của các khoản lãi nhỏ. Đánh giá rõ hơn, một 
số nhà nghiên cứu có thể so sánh giữa tần suất 
các khoản lãi nhỏ với tần suất của các khoản lỗ 
nhỏ (ví dụ Jeanjean and Stolowy, 2008; Leuz, 
Nanda, and Wysocki, 2003). 
Ngoài việc tránh báo cáo lỗ, các nhà quản trị 
cũng có mong muốn báo cáo mức lợi nhuận 
tăng dần, tức là tránh việc báo cáo mức lợi 
nhuận thấp hơn so với năm trước, tức chênh 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước 
liền kề lớn hơn không. Mặt khác cũng tương 
tự như khi tránh báo cáo lỗ, việc điều chỉnh 
lợi nhuận thông qua điều chỉnh số liệu kế toán 
sẽ có những giới hạn nhất định. Do đó, các 
nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh số liệu 
nhiều hơn khi mức sụt giảm lợi nhuận là nhỏ. 
Để nghiên cứu hành vi này, các nhà nghiên 
cứu sẽ tập trung xem xét phân phối của chênh 
lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước 
liền kề; tập trung vào tần suất xuất hiện mức 
tăng nhẹ và mức giảm nhẹ (tức là phân phối 
của chênh lệch giữa lợi nhuận năm nay và năm 
trước quanh điểm 0). Phương pháp này được 
Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ của các ngân hàng thương mại 
Nghiên cứu Tiêu chuẩn 
xác định mức 
lợi nhuận nhỏ 
Mẫu nghiên 
cứu
Các kết quả nghiên cứu chính có liên quan
Bornemann, 
Kick, 
Memmel, & 
Pfingsten 
(2012)
Tỷ lệ lợi nhuận 
sau thuế trên 
tổng tài sản 
nhỏ hơn 0,02%
Các NHTM 
Đức trong 
giai đoạn từ 
1997 đến 
2009
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Đức đã sử 
dụng các khoản dự trữ ngầm được phép để tránh báo cáo 
lỗ, tránh báo cáo mức lợi nhuận sụt giảm so với năm trước 
hoặc thấp hơn so với các ngân hàng cùng nhóm.
Shen và 
Chih (2005)
Lợi nhuận trên 
vốn chủ sở 
hữu (ROE) nhỏ 
hơn 1%
Các NHTM 
từ 49 quốc 
gia trong giai 
đoạn từ 1993 
đến 1999
Tại 2/3 số nước khảo sát phân phối của ROE có dạng nửa 
hình chuông điển hình cho sự thao túng số liệu nhằm tránh 
báo cáo lỗ. Tại các nước còn lại số quan sát có tỷ lệ ROE 
dưới 0 cũng thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng.
Ngoài ra, các thước đo thống kê khác trong nghiên cứu 
này cũng cho thấy sự phổ biến của việc thao túng số liệu 
nhằm tránh báo cáo lỗ hoặc sự giảm sút của lợi nhuận báo 
cáo ở các NHTM trong mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên mức 
độ thao túng số liệu có sự khác nhau giữa các quốc gia, 
phụ thuộc vào mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự giám sát 
từ khu vực tư.
Hamdi và 
Zarai (2012)
Tỷ lệ lợi nhuận 
trên tổng tài 
sản đầu kỳ nhỏ 
hơn 0,25%
125 Ngân 
hàng Hồi 
giáo trong 
giai đoạn 
2000- 2009 
Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Hồi 
giáo trong mẫu nghiên cứu có xu hướng thao túng số 
liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ nhưng không có bằng 
chứng về việc thao túng số liệu để báo cáo mức lợi nhuận 
tăng dần. 
Maia et al. 
(2013)
Tỷ lệ lợi nhuận 
trên tổng khối 
lượng giao 
dịch cho vay 
nhỏ hơn 0,1%
Số liệu báo 
cáo bán niên 
của 405 Quỹ 
tín dụng tại 
Brazil trong 
giai đoạn 
2001- 2011
Nghiên cứu này khảo sát mức độ thao túng số liệu kế toán 
của các Qũy tín dụng tại Brazil ở 3 khía cạnh: thao túng số 
liệu để đạt yêu cầu về hệ số an toàn vốn; thao túng số liệu 
để ổn định lợi nhuận báo cáo và tránh báo cáo lỗ.
Các phân tích sơ đồ histogram của lợi nhuận báo cáo 
cũng cho thấy bằng chứng về việc thao túng số liệu để 
tránh báo cáo lỗ.
Biurrun 
và Rudolf 
(2010)
Lợi nhuận sau 
thuế chia cho 
tổng tài sản 
đầu kỳ nhỏ 
hơn 0,1254 * 
độ lệch chuẩn 
của phân phối
21985 ngân 
hàng từ 47 
nước khác 
nhau, từ 
1990 đến 
2006
Xem xét thao túng lợi nhuận ở 3 khía cạnh: ổn định lợi 
nhuận báo cáo; tránh báo cáo lỗ; và báo cáo lợi nhuận 
cao. Đồng thời xem xét mối quan hệ giữa thao túng lợi 
nhuận và mức độ quản lý cũng như sự giám sát từ khu 
vực công và khu vực tư trong nền kinh tế.
Các bằng chứng thực nghiệm cũng khẳng định sự phổ 
biến của việc thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và 
hoạt động này có thể được hạn chế thông qua giám sát và 
quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động của các NHTM.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
các nhà nghiên cứu áp dụng trong các nghiên 
cứu trên mẫu là các ngân hàng Mỹ như Beatty, 
Ke, and Petroni (2002), mẫu nghiên cứu đa 
quốc gia như Shen and Chih (2005), cũng như 
tại các thị trường đang phát triển như Maia, 
Bressan, Lamounier, and Braga (2013), Hamdi 
and Zarai (2012). 
Về cơ bản, các nghiên cứu đều chứng minh 
mức độ tập trung bất thường của mức lợi nhuận 
dương nhỏ và mức tăng nhẹ của lợi nhuận năm 
báo cáo so với năm trước liền kề. Khi áp dụng 
phương pháp EDA cho lĩnh vực ngân hàng, 
theo tác giả được biết, chỉ có một số ít nghiên 
cứu, ví dụ Quttainah, Song, & Wu (2013), áp 
dụng trực tiếp tiêu chí xác định mức lợi nhuận 
dương nhỏ/lỗ nhỏ đã được sử dụng trong các 
nghiên cứu trước ở lĩnh vực phi tài chính. Theo 
đó một đơn vị có mức lãi (lỗ) nhỏ là đơn vị có 
tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đầu kỳ từ 0% 
đến 1% (-1%). Thước đo này không thực sự 
phù hợp do đã bỏ qua đặc điểm của lĩnh vực 
ngân hàng là có hệ số nợ lớn nên hệ số ROA 
(biến đại diện cho lợi nhuận) sẽ nhỏ hơn so các 
doanh nghiệp phi tài chính. Do đó, phần lớn các 
nghiên cứu tập trung vào các NHTM đã điều 
chỉnh thước đo lợi nhuận dương nhỏ/lỗ nhỏ cho 
phù hợp với lĩnh tài chính. Tuy nhiên, mức tiêu 
chuẩn để xác định một khoảng lỗ/lãi báo cáo là 
nhỏ hay không khá đa dạng giữa các nghiên cứu 
(Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận 
nhỏ của các ngân hàng thương mại). Hơn nữa, 
phần lớn các nghiên cứu đều thực hiện với mẫu 
là các ngân hàng ở các nước phát triển, đặc biệt 
là Mỹ. 
Ngoài ra, các nghiên cứu trước trong hướng 
này cũng sử dụng hàm hồi quy với biến phụ 
thuộc là biến giả. Biến giả có giá trị là 0 hoặc 
1 tùy thuộc vào việc mức lợi nhuận báo cáo 
(hoặc thay đổi giữa lợi nhuận báo cáo năm nay 
so với năm trước liền kề) nằm trong giới hạn 
lợi nhuận nhỏ hoặc sự gia tăng lợi nhuận thấp 
hay không. Phương pháp này thường được 
áp dụng khi các nhà nghiên cứu dựa vào tổng 
quan lý thuyết trước đó, khẳng định có tồn tại 
hành vi điều chỉnh số liệu này và muốn xác 
định nhân tố tác động đến hành vi này. Phương 
pháp này được sử dụng cho cả các nghiên cứu 
trên mẫu đa ngành nghề như Mary E Barth, 
Landsman, Lang, and Williams (2012); Mary 
E. Barth, Landsman, and Lang (2008), cũng 
như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực tài 
chính ngân hàng (Altamuro and Beatty, 2010; 
Biurrun and Rudolf, 2010; Kanagaretnam, 
Krishnan, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, 
Lim, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, Lim, and 
Lobo, 2011; Zhou and Chen, 2004; Leventis 
and Dimitropoulos, 2012; và các tác giả khác). 
Tiêu chí để xác định mức lợi nhuận nhỏ cũng 
có sự khác biệt giữa các nghiên cứu, ví dụ 
Kanagaretnam, Lim, et al. (2010) xác định mức 
lợi nhuận nhỏ là mức ROA nằm trong khoảng 
(0-0,002), tức là dưới 0,2% chứ không phải là 
1% như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực phi 
tài chính. Mức tăng giảm lợi nhuận được coi là 
nhỏ khi ROA tăng/giảm ít hơn 0,0005 (0,05%), 
trong đó ROA được tính bằng lợi nhuận trước 
thuế chia cho tổng tài sản. Altamuro and Beatty 
(2010) xác định mức tăng lợi nhuận nhỏ là khi 
ROA tăng ít hơn 0,0008 (0,08%). Con số tương 
ứng trong các nghiên cứu của Kanagaretnam, 
Lim, & Lobo (2014) và Kanagaretnam et al. 
(2011) là 0,001 (0,1%).
Mặc dù các nghiên cứu trước khẳng định sự phổ 
biến của việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo 
cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo 
cáo, nhưng đặt trong điều kiện của Việt Nam 
khi yếu tố thuế có vai trò rất quan trọng thì liệu 
rằng các NHTM Việt Nam có điều chỉnh số liệu 
kế toán theo hướng này hay không vẫn là một 
câu hỏi mở.
2. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu 
Các nghiên cứu trước khẳng định nếu các cơ 
chế quản trị công ty khuyến khích việc chấp 
nhận rủi ro nhiều hơn thì các NHTM sẽ có xu 
hướng điều chỉnh số liệu kế toán nhiều hơn 
(ví dụ Cornett, McNutt, & Tehranian, 2009; 
Leventis & Dimitropoulos, 2012; Altamuro & 
Beatty, 2010). Trong khi đó, theo Nguyen 
Dinh Cung (2008), mặc dù các quy định liên 
quan đến khung quản trị công ty của các công 
ty cổ phần ở Việt Nam đã được ban hành đầy 
đủ nhưng việc vận hành trong thực tế còn khác 
khá xa so với quy định. Cụ thể cơ cấu quản trị 
công ty tại Việt Nam vẫn mang tính tập quyền 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
với quyền lực tập trung ở một ít cá nhân, kiểm 
soát nội bộ lỏng lẻo, kiểm soát từ bên ngoài 
còn chưa hình thành hoặc không hiệu quả. Do 
đó nguy cơ lạm quyền là rất cao, điều này sẽ 
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển lâu dài 
của công ty, lợi ích của các cổ đông và các bên 
có liên quan cũng như lợi ích chung của cả nền 
kinh tế. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, 
& Pham Bao Khanh (2014) cũng kết luận rằng 
quản trị công ty của các NHTM Việt Nam chỉ 
đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu của OECD 
và còn thấp rất xa so với chuẩn mực quốc tế. Và 
những yếu kém trong quản trị công ty đưa đến 
hậu quả là xu hướng chấp nhận rủi ro quá mức 
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. 
Mặt khác, theo Kanagaretnam et al. (2011), 
tại các nước theo chủ nghĩa cá nhân, có thiên 
hướng nam tính và mức độ né tránh rủi ro thấp, 
các NHTM cũng có xu hướng điều chỉnh số liệu 
nhiều hơn để đạt được các mục tiêu lợi nhuận 
(tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút trong lợi 
nhuận báo cáo). Đồng thời, theo G. Hofstede 
(2017), mặc dù Việt Nam là nước theo chủ 
nghĩa tập thể nhưng mức độ né tránh các vấn 
đề không chắc chắn là rất thấp với những biểu 
hiện như coi trọng thực tiễn hơn là nguyên tắc; 
và những sai lệch so với chuẩn xã hội dễ dàng 
được tha thứ. Các kế hoạch, lịch trình luôn linh 
hoạt, lao động chăm chỉ khi cần thiết chứ không 
phải vì giá trị hay ý nghĩa của sự cần mẫn; 
sự chính xác và đúng giờ không phải là điều 
đương nhiên, sự đổi mới không bị coi như mối 
đe dọa. 
Xét về môi trường kinh doanh chung, các doanh 
nghiệp Việt Nam bị chi phối bởi mong muốn 
giảm thiểu thuế phải nộp nhiều hơn là làm đẹp 
số liệu báo cáo để tăng sức hấp dẫn với thị 
trường tài chính. Tuy nhiên với sự phát triển 
của thị trường chứng khoán (TTCK) trong giai 
đoạn 2005 đến nay, vai trò của thị trường đã 
được củng cố và các nhà đầu tư, các nhà phân 
tích ngày càng quan tâm hơn đến số liệu công 
bố của các công ty niêm yết. Điều này dẫn đến 
hiệu ứng là các doanh nghiệp, đặc biệt là các 
công ty và tập đoàn lớn quan tâm hơn tới phản 
ứng của thị trường và các bên liên đới trước 
thông tin kế toán công bố. Hơn nữa, tài chính 
ngân hàng là lĩnh vực bị kiểm soát rất chặt chẽ 
trong nền kinh tế, việc kinh doanh ngân hàng 
nói chung và huy động vốn nói riêng phụ thuộc 
rất nhiều vào lòng tin của công chúng. Nếu 
một ngân hàng làm ăn thua lỗ cũng sẽ nhận 
được sự chú ý đặc biệt từ các cơ quan thanh tra 
giám sát, và đây là điều các NHTM hoàn toàn 
không mong muốn. Nguy cơ bị can thiệp bởi 
các cơ quan giám sát ngân hàng là một trong 
những nhân tố làm gia tăng việc điều chỉnh số 
liệu (Cheng, Warfield, & Ye, 2011). Do đó, 
các NHTM có động cơ khá rõ ràng trong việc 
không muốn công bố các thông tin kế toán bất 
lợi. 
Tất cả những phân tích trên đều cho thấy cơ sở 
để đưa ra giả thuyết về việc các NHTM Việt 
Nam sẽ điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo 
cáo lỗ hoặc tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận 
báo cáo. Do đó, giả thuyết nghiên cứu được đưa 
ra là:
Giả thuyết 1: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh 
số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ.
Giả thuyết 2: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh 
số liệu kế toán để tránh sự sụt giảm trong lợi 
nhuận báo cáo.
3. Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên 
cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Kế thừa theo các nghiên cứu trước, để tìm 
kiếm bằng chứng của việc điều chỉnh số liệu 
nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút của 
lợi nhuận, tác giả sử dụng cách tiếp cận phân 
tích phân phối của lợi nhuận (EDA- earnings 
distribution approach). Hai vấn đề chính cần 
xác định khi áp dụng phương pháp này là biến 
đại diện cho lợi nhuận báo cáo và tiêu chuẩn 
để xác định mức lợi nhuận (lỗ) nhỏ và xác định 
mức tăng (giảm) lợi nhuận nhỏ. Hai biến số 
chính để phản ánh khả năng sinh lời của ngân 
hàng là ROA- tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản 
và ROE- tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu:
ROAit =
Lợi nhuận sau thuế NH i năm t
Tổng tài sản của NH i cuối năm t
ROEit =
Lợi nhuận sau thuế của NH i năm t
Vốn chủ sở hữu của NH i cuối năm t
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
Phân tích phân phối của của ROA và ROE 
giúp xác định xem có sự tập trung bất thường 
của những quan sát có mức lợi nhuận nhỏ hay 
không và từ đó đưa ra bằng chứng về việc số 
liệu bị điều chỉnh nhằm tránh báo cáo lỗ. Kế 
thừa các nghiên cứu trước (Kanagaretnam, 
Lim, et al., 2010; Maia et al., 2013; và Hamdi 
& Zarai, 2012), một ngân hàng có mức lợi 
nhuận báo cáo nhỏ khi tỷ lệ ROA của ngân 
hàng nằm trong khoảng từ 0 đến 0,2%. Điều 
này cũng là phù hợp với điều kiện của các 
NHTM Việt Nam khi theo Bảng 2, hệ số ROA 
có giá trị bình quân là 1,0% và giá trị lớn nhất 
là 4,7%. Đối với ... ác, khi quan sát phân phối 
droa và droe, ta có thể nhận thấy 
sự tập trung rất cao các quan sát 
quanh mức 0. Đây có thể là dấu 
hiệu cho thấy các các ngân hàng 
không muốn để lợi nhuận báo cáo 
biến động mạnh và coi trọng việc 
ổn định dòng lợi nhuận báo cáo 
hơn là việc báo cáo mức lợi nhuận 
tăng dần.
5. Thảo luận kết quả nghiên cứu 
và khuyến nghị
Các bằng chứng thực nghiệm ở 
Phần 4 của bài viết đã cho thấy 
bằng chứng để khẳng định Giả 
thuyết 1, theo đó các NHTM Việt 
Nam có thao túng số liệu kế toán 
để tránh báo cáo lỗ. Tuy nhiên, 
chưa có bằng chứng để khẳng định 
Giả thuyết 2, các NHTM Việt 
Nam có điều chỉnh số liệu để báo 
cáo mức lợi nhuận tăng dần hay 
không. Thay vào đó, sự biến động 
của tỷ suất ROA và ROE cho 
thấy các NHTM có xu hướng ổn 
định lợi nhuận hơn, tức là tỷ suất 
lợi nhuận có thể tăng hoặc giảm 
nhưng ở mức nhỏ. Hơn nữa, các 
kết quả này khẳng định sự tồn tại 
của hiện tượng điều chỉnh số liệu 
nhằm báo cáo lợi nhuận theo mong muốn của 
nhà quản trị (không báo cáo lỗ hoặc lợi nhuận 
ổn định). 
Nếu đối chiếu với những nội dung phân tích 
ở Phần 2 của bài viết khi xây dựng giả thuyết 
nghiên cứu, có thể thấy nguyên nhân của hiện 
tượng này là do những yếu kém trong quản trị 
công ty; đặc điểm môi trường kinh doanh và 
việc các ngân hàng mong muốn báo cáo tính 
hình tài chính ổn định để tránh sự can thiệp có 
thể của cơ quan quản lý và thanh tra.
Hình 3. Phân phối tăng/giảm ROA (droa) 
của NHTM Việt Nam 2004- 2017
Tăng/giảm của tỷ lệ Lợi nhuận trên tổng tài sản hàng năm
Tăng/giảm của tỷ lệ Lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu hàng năm
Hình 4. Phân phối tăng /giảm ROE (droe) của NHTM 
Việt Nam 2005- 2017
S
ố 
qu
an
 s
át
S
ố 
qu
an
 s
át
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu công bố của các NHTM bằng 
phần mềm R
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu công bố của các NHTM bằng 
phần mềm R
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
Bên cạnh đó, việc các ngân hàng trong mẫu 
nghiên cứu không báo cáo lỗ trong giai đoạn 
nghiên cứu còn cho thấy, bản thân các cơ quan 
quản lý có xu hướng chấp nhận việc các NHTM 
tránh công bố thông tin bất lợi. Một thực tế có 
thể quan sát là các ngân hàng khi gặp khó khăn 
về tài chính có thể không hoặc lùi việc công 
bố các BCTC mà không có sự giải trình nào. 
Trong khi đó, tất cả các công ty niêm yết trên 
TTCK Việt Nam đều phải công bố thông tin tài 
chính trong thời hạn quy định, nếu không đảm 
bảo thời hạn công bố đều phải có giải trình và 
xin phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Các 
NHTM gặp khó khăn bị buộc phải tái cơ cấu 
hoặc sáp nhập cũng không công bố BCTC nếu 
các con số báo cáo là không thuận lợi. Hơn nữa, 
các BCTC của những năm trước liền kề của 
năm phải tái cơ cấu hoặc sáp nhập vẫn cho thấy 
ngân hàng làm ăn có lãi. Nhưng, sau khi công 
bố ngân hàng gặp khó khăn tài chính và phải 
tái cơ cấu hoặc bị mua lại, không có cơ quản 
lý hoặc tổ chức nào đặt vấn đề hoặc yêu cầu 
rà soát lại các BCTC được công bố ngay trước 
đó với các khoản lãi được ghi nhận. Bản thân 
các cơ quan quản lý khi ban hành các văn bản 
pháp quy cũng vẫn duy trì thông lệ cho phép 
các NHTM lùi thời hạn thực hiện nếu các quy 
định mới có thể tạo ra các khoản lỗ báo cáo (ví 
dụ cho phép lùi thời gian trích lập đủ dự phòng 
nếu tạo ra lỗ). Như vậy, ở một chừng mực nhất 
định khác với kỳ vọng của thị trường, quy chế 
về công khai và minh bạch thông tin của các 
NHTM chưa thật chặt chẽ. Hơn nữa, cách xử 
lý của các cơ quan quản lý trong một số trường 
hợp tạo ra một kỳ vọng hợp lý cho các NHTM 
về việc họ có thể điều chỉnh số liệu và không 
công khai thông tin khi gặp khó khăn.
Từ giác độ của cơ quan quản lý, việc chấp nhận 
cho các NHTM chậm hoặc không công khai 
một số thông tin bất lợi hoặc cho phép lùi thời 
hạn thực hiện một số quy định pháp lý khi các 
quy định này có thể tạo ra những khoản lỗ cho 
các ngân hàng có thể được giải thích bởi một số 
nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất có lẽ là 
việc muốn tránh tác động tâm lý bất ổn đến thị 
trường nhằm giữ ổn định hệ thống tài chính.
Hệ thống NHTM là xương sống của nền kinh 
tế và hoạt động của hệ thống này dựa rất lớn 
vào yếu tố niềm tin. Khi thị trường hoảng loạn 
và mất niềm tin dẫn đến việc rút tiền gửi ồ ạt 
thì về cơ bản không một NHTM nào có đủ khả 
năng thanh khoản. Do đó, việc ổn định tâm lý 
cho công chúng và người gửi tiền sẽ đặc biệt 
quan trọng để tránh những cuộc khủng hoảng 
ngân hàng. Tuy nhiên, việc chấp nhận những 
tiền lệ về việc không công khai thông tin và 
chấp nhận không ghi nhận các khoản lỗ/chi phí 
kịp thời có thể mang lại những rủi ro tiềm tàng 
dài hạn cho cả hệ thống. Môi trường không 
minh bạch lại trở thành một yếu tố khuyến 
khích xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn trong 
kinh doanh ngân hàng. Và việc chấp nhận rủi 
ro thái quá có thể tạo ra những rủi ro ngoài khả 
năng chịu đựng của bản thân ngân hàng cũng 
như toàn hệ thống. Do đó, về mặt lâu dài, cần 
có những chiến lược và chính sách tăng cường 
tính công khai minh bạch và hạn chế sự thao 
túng số liệu kế toán nhằm báo cáo những con số 
theo mong muốn của nhà quản trị.
Để làm rõ hơn về vấn đề này, các nghiên cứu 
trong tương lai có thể dùng cách tiếp cận sử 
Tài liệu tham khảo
1. Altamuro, J., & Beatty, A. (2010). How does internal control regulation affect financial reporting? Journal of Accounting 
and Economics, 49(1–2), 58-74. doi: 
2. Barth, M. E., Landsman, W. R., Lang, M., & Williams, C. (2012). Are IFRS-based and US GAAP-based accounting amounts 
comparable? Journal of Accounting and Economics, 54(1), 68-93. 
3. Barth, M. E., Landsman, W. R., & Lang, M. H. (2008). International Accounting Standards and Accounting Quality. Journal 
of Accounting Research, 46(3), 467-498. doi: 10.1111/j.1475-679X.2008.00287.x
4. Beatty, A. L., Ke, B., & Petroni, K. R. (2002). Earnings management to avoid earnings declines across pubicily and privately 
held banks. The Accounting Review, 77(3), 547-570. 
5. Biurrun, V., & Rudolf, M. (2010). Mitigating Bank Earnings Management - The Role of Regulation and Supervision. 
Rochester: Social Science Research Network.
6. Bornemann, S., Kick, T., Memmel, C., & Pfingsten, A. (2012). Are banks using hidden reserves to beat earnings benchmarks? 
Evidence from Germany. Journal of Banking & Finance, 36(8), 2403-2415. doi: 
xem tiếp trang 75
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
7. Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997). Earnings management to avoid earnings decreases and losses. Journal of Accounting 
and Economics, 24(1), 99-126. 
8. Cheng, Q., Warfield, T., & Ye, M. (2011). Equity Incentives and Earnings Management Evidence from the Banking Industry. 
Journal of Accounting, Auditing & Finance, 26(2), 317-349. 
9. Cornett, M. M., McNutt, J. J., & Tehranian, H. (2009). Corporate governance and earnings management at large U.S. bank 
holding companies. Journal of Corporate Finance, 15(4), 412-430. doi: 
10. Hamdi, F. M., & Zarai, M. A. (2012). Earnings management to avoid earnings decreases and losses: empirical evidence from 
Islamic banking industry. Research Journal of Finance and Accounting, 3(3), 88-106. 
11. Hofstede, G. What about Vietnam, https://www.hofstede-insights.com/country/vietnam/, truy cập tháng 12/2017.
12. Jeanjean, T., & Stolowy, H. (2008). Do accounting standards matter? An exploratory analysis of earnings management 
before and after IFRS adoption. Journal of Accounting and Public Policy, 27(6), 480-494. doi: 
jaccpubpol.2008.09.008
13. Kanagaretnam, K., Krishnan, G. V., & Lobo, G. J. (2010). An Empirical Analysis of Auditor Independence in the Banking 
Industry. The Accounting Review, 85(6), 2011-2046. 
14. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2010). Auditor reputation and earnings management: International 
evidence from the banking industry. Journal of Banking & Finance, 34(10), 2318-2327. doi: 
jbankfin.2010.02.020
15. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2011). Effects of national culture on earnings quality of banks. Journal of 
International Business Studies, 42(6), 853-874. 
16. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2014). Effects of international institutional factors on earnings quality of banks. 
Journal of Banking & Finance, 39(0), 87-106. doi: 
17. Leuz, C., Nanda, D., & Wysocki, P. D. (2003). Earnings management and investor protection: an international comparison. 
Journal of Financial Economics, 69(3), 505-527. 
18. Leventis, S., & Dimitropoulos, P. (2012). The role of corporate governance in earnings management: experience from US 
banks. Journal of Applied Accounting Research, 13(2), 161-177. doi: 
19. Maia, S. C., Bressan, V. G. F., Lamounier, W. M., & Braga, M. J. (2013). Earnings management in Brazilian credit unions*. 
Brazilian Business Review, 10(4), 91-109. 
20. Nguyen Dinh Cung. (2008). Corporate governance in Vietnam: regulations, practices and problems. available at: www. 
sme-gtz. org. vn/Download/Component% 20I/ENGLISH/1.% 20RESEARCH% 20AND% 20REPORTS/CORPORATE% 
20GOVERNANCE% 20IN% 20VIETNAM. pdf (accessed April 27, 2012). 
21. Quttainah, M. A., Song, L., & Wu, Q. (2013). Do Islamic Banks Employ Less Earnings Management? Journal of International 
Financial Management & Accounting, 24(3), 203-233. doi: 
22. Shen, C.-H., & Chih, H.-L. (2005). Investor protection, prospect theory, and earnings management: An international 
comparison of the banking industry. Journal of Banking & Finance, 29(10), 2675-2697. doi: 
jbankfin.2004.10.004
23. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, & Pham Bao Khanh. (2014). Testing the Relationship between Corporate Governance 
and Bank Performance–An Empirical Study on Vietnamese Banks. Asian Social Science, 10(9), p213. 
24. Zhou, J., & Chen, K. Y. (2004). Audit committee, board characteristics and earnings management by commercial banks. 
Unpublished Manuscript.
Thông tin tác giả
Đào Nam Giang, Tiến sĩ
Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Email: namgiangriver@gmail.com/ giangdn@hvnh.edu.vn
Summary
Manipulating accounting figures to avoid reporting a loss and/or an earnings decrease - evidences from 
Vietnamese commercial banks
Using earnings distribution approach, this paper provides evidence that Vietnamese commercial banks did 
manipulate accounting figures to avoid reporting a loss. Analysis of changing in reported profit reveals that the 
banks do not manage earnings to report an increasing profit. However, we can see some indicators of income 
smoothing activities. Possible causes include weak corporate governance mechanis and issues in business 
environment.
Keywords: Earnings management, earnings distribution, loss avoidance, target-beating earnings management. 
Giang Nam Dao, PhD.
Faculty of Accounting and Auditing, Banking Academy
 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
75Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
dụng hồi quy với biến giả (đã đề cập ở Phần 
1 của bài viết) để tìm kiếm bằng chứng thực 
nghiệm về tác động của một số nhân tố đến 
mức độ điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo 
lỗ và ổn định lợi nhuận. Bên cạnh đó, các bằng 
chứng thực nghiệm trong nghiên cứu này cũng 
cho thấy các NHTM có xu hướng điều chỉnh số 
and colleges and allows schools to be autonomous in developing enrollment plans. The number of candidates has 
decreased over the years, while increasing enrollment targets of universities and colleges has created pressure 
for universities and colleges to compete to improve quality, reputation, and job orientation in order to attract 
candidates. The research was conducted to develop a model that illustrates the factors that determines the 
choice of the BA’s undergraduate program of students. The results of multiple linear regression analyzed from 
186 questionaire respondents of BA’s 1st year and 2nd year students show that the groups of factors that have 
the significant impact in descending order are: Fixed Characteristics of the insitute, Communication Efforts of 
the institue, Social influencers to the student’s choice of the institute, Individual Characteristics of the student. 
Based on the obtained results, the research team proposes recommendations to improve the effectiveness of the 
enrollment process for universities, colleges in general and for BA institute in particular.
Keywords: Factors, bachelor program, enrollment, Banking Academy of Vietnam. 
Mai Ngoc Tran, MEc.
Faculty of International Business, Banking Academy 
Huong Thi Thu Nguyen
Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy
Linh Thuy Do
Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy
kiệm, vay vốn với quy mô nhỏ, thời gian đáo 
hạn nhanh phù hợp hơn với nhóm khách hàng 
này. Mặt khác, thủ tục, giấy tờ luôn là một rào 
cản lớn đối với người dân khi tiếp cận các dịch 
vụ tài chính tại nông thôn, điều này đã được đề 
cập trong nhiều nghiên cứu. Việc cải thiện thủ 
tục hành chính sẽ tăng khả năng tiếp cận dịch 
vụ tài chính của khu vực nông thôn. ■
tiếp theo trang 63
thích điểm tín dụng theo những đặc điểm của 
khách hàng, bởi phần lớn cơ chế giải thích của 
các kĩ thuật này rất phức tạp và vẫn còn nằm 
trong “hộp đen”.
Những kết quả được đưa ra trong bài nghiên 
cứu có thể là cơ sở để mở ra các nghiên cứu, 
đưa ra những phương pháp mới kết hợp các 
kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu quả các mô hình 
chấm điểm tín dụng. Ngoài việc xem xét kết 
quả của của các mô hình kết hợp thì việc giải 
thích cơ chế tác động của các nhân tố đầu vào 
với nhân tố mục tiêu phân loại đối với các mô 
hình cũng cần được quan tâm nghiên cứu. ■
tiếp theo trang 54
tiếp theo trang 44
cho nhiều trường hợp khác nhau. Việc sử dụng 
tốt sẽ dẫn đến các giao dịch nhanh hơn, minh 
bạch hơn. Giải pháp Blockchain cũng sẽ làm 
giảm chi phí và gánh nặng hành chính đối với 
ngân hàng và khách hàng. Ước tính rằng các 
công nghệ Blockchain có thể làm giảm chi 
phí cơ sở hạ tầng của ngân hàng khoảng 15-
20 tỷ USD một năm vào năm 2022- như tuyên 
bố trong “FinTech 2.0 Paper” của Santander 
InnoVentures. Blockchain cũng đặt ra thách 
thức đòi hỏi tất cả các bên liên quan sẽ phải 
tham gia hợp tác vào sự phát triển trong lĩnh 
vực này, “sẽ cần phải có một tập thể chung” 
giữa các ngân hàng, nhà quản lý và các công ty 
công nghệ. Bên cạnh đó, thách thức về sự riêng 
tư, bảo mật, khả năng mở rộng cũng là những 
vấn đề cần xem xét. Blockchain có thể là giải 
pháp công nghệ tiềm năng cho ngành tài chính 
ngân hàng, tuy nhiên nó còn cần phải tiếp tục 
được hoàn thiện, phát triển về công nghệ, giảm 
thiểu chi phí khi áp dụng và khắc phục các vấn 
đề khác đang tồn tại. ■
tiếp theo trang 36
liệu nhằm báo cáo mức lợi nhuận ổn định. Do 
đó, các nghiên cứu tương lai có thể phát triển 
các mô hình nghiên cứu nhằm tìm kếm bằng 
chứng bổ sung để có thể đưa ra kết luận về việc 
có NHTM có thực sự thao túng số liệu để ổn 
định lợi nhuận hay không, và các công cụ nào 
hay ước tính kế toán nào có thể bị lợi dụng để 
ổn định lợi nhuận. ■

File đính kèm:

  • pdfdieu_chinh_so_lieu_ke_toan_nham_tranh_bao_cao_lo_va_tranh_su.pdf