Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản
ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo
cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm
của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong
mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay
vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM
mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc
giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do
những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong
môi trường kinh doanh.
Bạn đang xem tài liệu "Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo - Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam
37 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo- bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Đào Nam Giang Ngày nhận: 01/06/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/06/2018 Ngày duyệt đăng: 18/06/2018 Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong môi trường kinh doanh. Từ khóa: thao túng lợi nhuận kế toán; phân phối của lợi nhuận; tránh báo cáo lỗ; thao túng số liệu để đạt được các mục tiêu đề ra. 1. Tổng quan nghiên cứu về điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận ai mục tiêu chủ yếu mà các nhà quản trị muốn điều chỉnh số liệu để đạt tới là tránh báo cáo lỗ và tránh báo cáo mức lợi nhuận sụt giảm. Để nghiên cứu hành vi này, các nhà nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp xem xét phân phối của lợi nhuận hoặc phân phối của mức thay đổi của lợi nhuận (earnings distribution approach- EDA) do Burgstahler and Dichev (1997) đưa ra. Theo đó, nếu số liệu báo cáo bị bóp méo để tránh báo có lỗ, khi xem xét phân phối của lợi nhuận ta có thể thấy một mức độ tập trung bất thường của các khoản lãi nhỏ. Đánh giá rõ hơn, một số nhà nghiên cứu có thể so sánh giữa tần suất các khoản lãi nhỏ với tần suất của các khoản lỗ nhỏ (ví dụ Jeanjean and Stolowy, 2008; Leuz, Nanda, and Wysocki, 2003). Ngoài việc tránh báo cáo lỗ, các nhà quản trị cũng có mong muốn báo cáo mức lợi nhuận tăng dần, tức là tránh việc báo cáo mức lợi nhuận thấp hơn so với năm trước, tức chênh QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018 lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước liền kề lớn hơn không. Mặt khác cũng tương tự như khi tránh báo cáo lỗ, việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua điều chỉnh số liệu kế toán sẽ có những giới hạn nhất định. Do đó, các nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh số liệu nhiều hơn khi mức sụt giảm lợi nhuận là nhỏ. Để nghiên cứu hành vi này, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung xem xét phân phối của chênh lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước liền kề; tập trung vào tần suất xuất hiện mức tăng nhẹ và mức giảm nhẹ (tức là phân phối của chênh lệch giữa lợi nhuận năm nay và năm trước quanh điểm 0). Phương pháp này được Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ của các ngân hàng thương mại Nghiên cứu Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ Mẫu nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu chính có liên quan Bornemann, Kick, Memmel, & Pfingsten (2012) Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản nhỏ hơn 0,02% Các NHTM Đức trong giai đoạn từ 1997 đến 2009 Bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Đức đã sử dụng các khoản dự trữ ngầm được phép để tránh báo cáo lỗ, tránh báo cáo mức lợi nhuận sụt giảm so với năm trước hoặc thấp hơn so với các ngân hàng cùng nhóm. Shen và Chih (2005) Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) nhỏ hơn 1% Các NHTM từ 49 quốc gia trong giai đoạn từ 1993 đến 1999 Tại 2/3 số nước khảo sát phân phối của ROE có dạng nửa hình chuông điển hình cho sự thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ. Tại các nước còn lại số quan sát có tỷ lệ ROE dưới 0 cũng thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng. Ngoài ra, các thước đo thống kê khác trong nghiên cứu này cũng cho thấy sự phổ biến của việc thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ hoặc sự giảm sút của lợi nhuận báo cáo ở các NHTM trong mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên mức độ thao túng số liệu có sự khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự giám sát từ khu vực tư. Hamdi và Zarai (2012) Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đầu kỳ nhỏ hơn 0,25% 125 Ngân hàng Hồi giáo trong giai đoạn 2000- 2009 Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Hồi giáo trong mẫu nghiên cứu có xu hướng thao túng số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ nhưng không có bằng chứng về việc thao túng số liệu để báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Maia et al. (2013) Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng khối lượng giao dịch cho vay nhỏ hơn 0,1% Số liệu báo cáo bán niên của 405 Quỹ tín dụng tại Brazil trong giai đoạn 2001- 2011 Nghiên cứu này khảo sát mức độ thao túng số liệu kế toán của các Qũy tín dụng tại Brazil ở 3 khía cạnh: thao túng số liệu để đạt yêu cầu về hệ số an toàn vốn; thao túng số liệu để ổn định lợi nhuận báo cáo và tránh báo cáo lỗ. Các phân tích sơ đồ histogram của lợi nhuận báo cáo cũng cho thấy bằng chứng về việc thao túng số liệu để tránh báo cáo lỗ. Biurrun và Rudolf (2010) Lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản đầu kỳ nhỏ hơn 0,1254 * độ lệch chuẩn của phân phối 21985 ngân hàng từ 47 nước khác nhau, từ 1990 đến 2006 Xem xét thao túng lợi nhuận ở 3 khía cạnh: ổn định lợi nhuận báo cáo; tránh báo cáo lỗ; và báo cáo lợi nhuận cao. Đồng thời xem xét mối quan hệ giữa thao túng lợi nhuận và mức độ quản lý cũng như sự giám sát từ khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế. Các bằng chứng thực nghiệm cũng khẳng định sự phổ biến của việc thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và hoạt động này có thể được hạn chế thông qua giám sát và quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động của các NHTM. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 các nhà nghiên cứu áp dụng trong các nghiên cứu trên mẫu là các ngân hàng Mỹ như Beatty, Ke, and Petroni (2002), mẫu nghiên cứu đa quốc gia như Shen and Chih (2005), cũng như tại các thị trường đang phát triển như Maia, Bressan, Lamounier, and Braga (2013), Hamdi and Zarai (2012). Về cơ bản, các nghiên cứu đều chứng minh mức độ tập trung bất thường của mức lợi nhuận dương nhỏ và mức tăng nhẹ của lợi nhuận năm báo cáo so với năm trước liền kề. Khi áp dụng phương pháp EDA cho lĩnh vực ngân hàng, theo tác giả được biết, chỉ có một số ít nghiên cứu, ví dụ Quttainah, Song, & Wu (2013), áp dụng trực tiếp tiêu chí xác định mức lợi nhuận dương nhỏ/lỗ nhỏ đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước ở lĩnh vực phi tài chính. Theo đó một đơn vị có mức lãi (lỗ) nhỏ là đơn vị có tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đầu kỳ từ 0% đến 1% (-1%). Thước đo này không thực sự phù hợp do đã bỏ qua đặc điểm của lĩnh vực ngân hàng là có hệ số nợ lớn nên hệ số ROA (biến đại diện cho lợi nhuận) sẽ nhỏ hơn so các doanh nghiệp phi tài chính. Do đó, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào các NHTM đã điều chỉnh thước đo lợi nhuận dương nhỏ/lỗ nhỏ cho phù hợp với lĩnh tài chính. Tuy nhiên, mức tiêu chuẩn để xác định một khoảng lỗ/lãi báo cáo là nhỏ hay không khá đa dạng giữa các nghiên cứu (Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ của các ngân hàng thương mại). Hơn nữa, phần lớn các nghiên cứu đều thực hiện với mẫu là các ngân hàng ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Ngoài ra, các nghiên cứu trước trong hướng này cũng sử dụng hàm hồi quy với biến phụ thuộc là biến giả. Biến giả có giá trị là 0 hoặc 1 tùy thuộc vào việc mức lợi nhuận báo cáo (hoặc thay đổi giữa lợi nhuận báo cáo năm nay so với năm trước liền kề) nằm trong giới hạn lợi nhuận nhỏ hoặc sự gia tăng lợi nhuận thấp hay không. Phương pháp này thường được áp dụng khi các nhà nghiên cứu dựa vào tổng quan lý thuyết trước đó, khẳng định có tồn tại hành vi điều chỉnh số liệu này và muốn xác định nhân tố tác động đến hành vi này. Phương pháp này được sử dụng cho cả các nghiên cứu trên mẫu đa ngành nghề như Mary E Barth, Landsman, Lang, and Williams (2012); Mary E. Barth, Landsman, and Lang (2008), cũng như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực tài chính ngân hàng (Altamuro and Beatty, 2010; Biurrun and Rudolf, 2010; Kanagaretnam, Krishnan, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, Lim, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, Lim, and Lobo, 2011; Zhou and Chen, 2004; Leventis and Dimitropoulos, 2012; và các tác giả khác). Tiêu chí để xác định mức lợi nhuận nhỏ cũng có sự khác biệt giữa các nghiên cứu, ví dụ Kanagaretnam, Lim, et al. (2010) xác định mức lợi nhuận nhỏ là mức ROA nằm trong khoảng (0-0,002), tức là dưới 0,2% chứ không phải là 1% như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực phi tài chính. Mức tăng giảm lợi nhuận được coi là nhỏ khi ROA tăng/giảm ít hơn 0,0005 (0,05%), trong đó ROA được tính bằng lợi nhuận trước thuế chia cho tổng tài sản. Altamuro and Beatty (2010) xác định mức tăng lợi nhuận nhỏ là khi ROA tăng ít hơn 0,0008 (0,08%). Con số tương ứng trong các nghiên cứu của Kanagaretnam, Lim, & Lobo (2014) và Kanagaretnam et al. (2011) là 0,001 (0,1%). Mặc dù các nghiên cứu trước khẳng định sự phổ biến của việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo, nhưng đặt trong điều kiện của Việt Nam khi yếu tố thuế có vai trò rất quan trọng thì liệu rằng các NHTM Việt Nam có điều chỉnh số liệu kế toán theo hướng này hay không vẫn là một câu hỏi mở. 2. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu Các nghiên cứu trước khẳng định nếu các cơ chế quản trị công ty khuyến khích việc chấp nhận rủi ro nhiều hơn thì các NHTM sẽ có xu hướng điều chỉnh số liệu kế toán nhiều hơn (ví dụ Cornett, McNutt, & Tehranian, 2009; Leventis & Dimitropoulos, 2012; Altamuro & Beatty, 2010). Trong khi đó, theo Nguyen Dinh Cung (2008), mặc dù các quy định liên quan đến khung quản trị công ty của các công ty cổ phần ở Việt Nam đã được ban hành đầy đủ nhưng việc vận hành trong thực tế còn khác khá xa so với quy định. Cụ thể cơ cấu quản trị công ty tại Việt Nam vẫn mang tính tập quyền QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018 với quyền lực tập trung ở một ít cá nhân, kiểm soát nội bộ lỏng lẻo, kiểm soát từ bên ngoài còn chưa hình thành hoặc không hiệu quả. Do đó nguy cơ lạm quyền là rất cao, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển lâu dài của công ty, lợi ích của các cổ đông và các bên có liên quan cũng như lợi ích chung của cả nền kinh tế. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, & Pham Bao Khanh (2014) cũng kết luận rằng quản trị công ty của các NHTM Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu của OECD và còn thấp rất xa so với chuẩn mực quốc tế. Và những yếu kém trong quản trị công ty đưa đến hậu quả là xu hướng chấp nhận rủi ro quá mức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặt khác, theo Kanagaretnam et al. (2011), tại các nước theo chủ nghĩa cá nhân, có thiên hướng nam tính và mức độ né tránh rủi ro thấp, các NHTM cũng có xu hướng điều chỉnh số liệu nhiều hơn để đạt được các mục tiêu lợi nhuận (tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút trong lợi nhuận báo cáo). Đồng thời, theo G. Hofstede (2017), mặc dù Việt Nam là nước theo chủ nghĩa tập thể nhưng mức độ né tránh các vấn đề không chắc chắn là rất thấp với những biểu hiện như coi trọng thực tiễn hơn là nguyên tắc; và những sai lệch so với chuẩn xã hội dễ dàng được tha thứ. Các kế hoạch, lịch trình luôn linh hoạt, lao động chăm chỉ khi cần thiết chứ không phải vì giá trị hay ý nghĩa của sự cần mẫn; sự chính xác và đúng giờ không phải là điều đương nhiên, sự đổi mới không bị coi như mối đe dọa. Xét về môi trường kinh doanh chung, các doanh nghiệp Việt Nam bị chi phối bởi mong muốn giảm thiểu thuế phải nộp nhiều hơn là làm đẹp số liệu báo cáo để tăng sức hấp dẫn với thị trường tài chính. Tuy nhiên với sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) trong giai đoạn 2005 đến nay, vai trò của thị trường đã được củng cố và các nhà đầu tư, các nhà phân tích ngày càng quan tâm hơn đến số liệu công bố của các công ty niêm yết. Điều này dẫn đến hiệu ứng là các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty và tập đoàn lớn quan tâm hơn tới phản ứng của thị trường và các bên liên đới trước thông tin kế toán công bố. Hơn nữa, tài chính ngân hàng là lĩnh vực bị kiểm soát rất chặt chẽ trong nền kinh tế, việc kinh doanh ngân hàng nói chung và huy động vốn nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào lòng tin của công chúng. Nếu một ngân hàng làm ăn thua lỗ cũng sẽ nhận được sự chú ý đặc biệt từ các cơ quan thanh tra giám sát, và đây là điều các NHTM hoàn toàn không mong muốn. Nguy cơ bị can thiệp bởi các cơ quan giám sát ngân hàng là một trong những nhân tố làm gia tăng việc điều chỉnh số liệu (Cheng, Warfield, & Ye, 2011). Do đó, các NHTM có động cơ khá rõ ràng trong việc không muốn công bố các thông tin kế toán bất lợi. Tất cả những phân tích trên đều cho thấy cơ sở để đưa ra giả thuyết về việc các NHTM Việt Nam sẽ điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ hoặc tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận báo cáo. Do đó, giả thuyết nghiên cứu được đưa ra là: Giả thuyết 1: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ. Giả thuyết 2: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh số liệu kế toán để tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận báo cáo. 3. Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên cứu 3.1. Phương pháp nghiên cứu Kế thừa theo các nghiên cứu trước, để tìm kiếm bằng chứng của việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút của lợi nhuận, tác giả sử dụng cách tiếp cận phân tích phân phối của lợi nhuận (EDA- earnings distribution approach). Hai vấn đề chính cần xác định khi áp dụng phương pháp này là biến đại diện cho lợi nhuận báo cáo và tiêu chuẩn để xác định mức lợi nhuận (lỗ) nhỏ và xác định mức tăng (giảm) lợi nhuận nhỏ. Hai biến số chính để phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng là ROA- tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và ROE- tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: ROAit = Lợi nhuận sau thuế NH i năm t Tổng tài sản của NH i cuối năm t ROEit = Lợi nhuận sau thuế của NH i năm t Vốn chủ sở hữu của NH i cuối năm t QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 Phân tích phân phối của của ROA và ROE giúp xác định xem có sự tập trung bất thường của những quan sát có mức lợi nhuận nhỏ hay không và từ đó đưa ra bằng chứng về việc số liệu bị điều chỉnh nhằm tránh báo cáo lỗ. Kế thừa các nghiên cứu trước (Kanagaretnam, Lim, et al., 2010; Maia et al., 2013; và Hamdi & Zarai, 2012), một ngân hàng có mức lợi nhuận báo cáo nhỏ khi tỷ lệ ROA của ngân hàng nằm trong khoảng từ 0 đến 0,2%. Điều này cũng là phù hợp với điều kiện của các NHTM Việt Nam khi theo Bảng 2, hệ số ROA có giá trị bình quân là 1,0% và giá trị lớn nhất là 4,7%. Đối với ... ác, khi quan sát phân phối droa và droe, ta có thể nhận thấy sự tập trung rất cao các quan sát quanh mức 0. Đây có thể là dấu hiệu cho thấy các các ngân hàng không muốn để lợi nhuận báo cáo biến động mạnh và coi trọng việc ổn định dòng lợi nhuận báo cáo hơn là việc báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. 5. Thảo luận kết quả nghiên cứu và khuyến nghị Các bằng chứng thực nghiệm ở Phần 4 của bài viết đã cho thấy bằng chứng để khẳng định Giả thuyết 1, theo đó các NHTM Việt Nam có thao túng số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng để khẳng định Giả thuyết 2, các NHTM Việt Nam có điều chỉnh số liệu để báo cáo mức lợi nhuận tăng dần hay không. Thay vào đó, sự biến động của tỷ suất ROA và ROE cho thấy các NHTM có xu hướng ổn định lợi nhuận hơn, tức là tỷ suất lợi nhuận có thể tăng hoặc giảm nhưng ở mức nhỏ. Hơn nữa, các kết quả này khẳng định sự tồn tại của hiện tượng điều chỉnh số liệu nhằm báo cáo lợi nhuận theo mong muốn của nhà quản trị (không báo cáo lỗ hoặc lợi nhuận ổn định). Nếu đối chiếu với những nội dung phân tích ở Phần 2 của bài viết khi xây dựng giả thuyết nghiên cứu, có thể thấy nguyên nhân của hiện tượng này là do những yếu kém trong quản trị công ty; đặc điểm môi trường kinh doanh và việc các ngân hàng mong muốn báo cáo tính hình tài chính ổn định để tránh sự can thiệp có thể của cơ quan quản lý và thanh tra. Hình 3. Phân phối tăng/giảm ROA (droa) của NHTM Việt Nam 2004- 2017 Tăng/giảm của tỷ lệ Lợi nhuận trên tổng tài sản hàng năm Tăng/giảm của tỷ lệ Lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu hàng năm Hình 4. Phân phối tăng /giảm ROE (droe) của NHTM Việt Nam 2005- 2017 S ố qu an s át S ố qu an s át Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu công bố của các NHTM bằng phần mềm R Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu công bố của các NHTM bằng phần mềm R QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018 Bên cạnh đó, việc các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu không báo cáo lỗ trong giai đoạn nghiên cứu còn cho thấy, bản thân các cơ quan quản lý có xu hướng chấp nhận việc các NHTM tránh công bố thông tin bất lợi. Một thực tế có thể quan sát là các ngân hàng khi gặp khó khăn về tài chính có thể không hoặc lùi việc công bố các BCTC mà không có sự giải trình nào. Trong khi đó, tất cả các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam đều phải công bố thông tin tài chính trong thời hạn quy định, nếu không đảm bảo thời hạn công bố đều phải có giải trình và xin phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Các NHTM gặp khó khăn bị buộc phải tái cơ cấu hoặc sáp nhập cũng không công bố BCTC nếu các con số báo cáo là không thuận lợi. Hơn nữa, các BCTC của những năm trước liền kề của năm phải tái cơ cấu hoặc sáp nhập vẫn cho thấy ngân hàng làm ăn có lãi. Nhưng, sau khi công bố ngân hàng gặp khó khăn tài chính và phải tái cơ cấu hoặc bị mua lại, không có cơ quản lý hoặc tổ chức nào đặt vấn đề hoặc yêu cầu rà soát lại các BCTC được công bố ngay trước đó với các khoản lãi được ghi nhận. Bản thân các cơ quan quản lý khi ban hành các văn bản pháp quy cũng vẫn duy trì thông lệ cho phép các NHTM lùi thời hạn thực hiện nếu các quy định mới có thể tạo ra các khoản lỗ báo cáo (ví dụ cho phép lùi thời gian trích lập đủ dự phòng nếu tạo ra lỗ). Như vậy, ở một chừng mực nhất định khác với kỳ vọng của thị trường, quy chế về công khai và minh bạch thông tin của các NHTM chưa thật chặt chẽ. Hơn nữa, cách xử lý của các cơ quan quản lý trong một số trường hợp tạo ra một kỳ vọng hợp lý cho các NHTM về việc họ có thể điều chỉnh số liệu và không công khai thông tin khi gặp khó khăn. Từ giác độ của cơ quan quản lý, việc chấp nhận cho các NHTM chậm hoặc không công khai một số thông tin bất lợi hoặc cho phép lùi thời hạn thực hiện một số quy định pháp lý khi các quy định này có thể tạo ra những khoản lỗ cho các ngân hàng có thể được giải thích bởi một số nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất có lẽ là việc muốn tránh tác động tâm lý bất ổn đến thị trường nhằm giữ ổn định hệ thống tài chính. Hệ thống NHTM là xương sống của nền kinh tế và hoạt động của hệ thống này dựa rất lớn vào yếu tố niềm tin. Khi thị trường hoảng loạn và mất niềm tin dẫn đến việc rút tiền gửi ồ ạt thì về cơ bản không một NHTM nào có đủ khả năng thanh khoản. Do đó, việc ổn định tâm lý cho công chúng và người gửi tiền sẽ đặc biệt quan trọng để tránh những cuộc khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên, việc chấp nhận những tiền lệ về việc không công khai thông tin và chấp nhận không ghi nhận các khoản lỗ/chi phí kịp thời có thể mang lại những rủi ro tiềm tàng dài hạn cho cả hệ thống. Môi trường không minh bạch lại trở thành một yếu tố khuyến khích xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn trong kinh doanh ngân hàng. Và việc chấp nhận rủi ro thái quá có thể tạo ra những rủi ro ngoài khả năng chịu đựng của bản thân ngân hàng cũng như toàn hệ thống. Do đó, về mặt lâu dài, cần có những chiến lược và chính sách tăng cường tính công khai minh bạch và hạn chế sự thao túng số liệu kế toán nhằm báo cáo những con số theo mong muốn của nhà quản trị. Để làm rõ hơn về vấn đề này, các nghiên cứu trong tương lai có thể dùng cách tiếp cận sử Tài liệu tham khảo 1. Altamuro, J., & Beatty, A. (2010). How does internal control regulation affect financial reporting? Journal of Accounting and Economics, 49(1–2), 58-74. doi: 2. Barth, M. E., Landsman, W. R., Lang, M., & Williams, C. (2012). Are IFRS-based and US GAAP-based accounting amounts comparable? Journal of Accounting and Economics, 54(1), 68-93. 3. Barth, M. E., Landsman, W. R., & Lang, M. H. (2008). International Accounting Standards and Accounting Quality. Journal of Accounting Research, 46(3), 467-498. doi: 10.1111/j.1475-679X.2008.00287.x 4. Beatty, A. L., Ke, B., & Petroni, K. R. (2002). Earnings management to avoid earnings declines across pubicily and privately held banks. The Accounting Review, 77(3), 547-570. 5. Biurrun, V., & Rudolf, M. (2010). Mitigating Bank Earnings Management - The Role of Regulation and Supervision. Rochester: Social Science Research Network. 6. Bornemann, S., Kick, T., Memmel, C., & Pfingsten, A. (2012). Are banks using hidden reserves to beat earnings benchmarks? Evidence from Germany. Journal of Banking & Finance, 36(8), 2403-2415. doi: xem tiếp trang 75 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 7. Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997). Earnings management to avoid earnings decreases and losses. Journal of Accounting and Economics, 24(1), 99-126. 8. Cheng, Q., Warfield, T., & Ye, M. (2011). Equity Incentives and Earnings Management Evidence from the Banking Industry. Journal of Accounting, Auditing & Finance, 26(2), 317-349. 9. Cornett, M. M., McNutt, J. J., & Tehranian, H. (2009). Corporate governance and earnings management at large U.S. bank holding companies. Journal of Corporate Finance, 15(4), 412-430. doi: 10. Hamdi, F. M., & Zarai, M. A. (2012). Earnings management to avoid earnings decreases and losses: empirical evidence from Islamic banking industry. Research Journal of Finance and Accounting, 3(3), 88-106. 11. Hofstede, G. What about Vietnam, https://www.hofstede-insights.com/country/vietnam/, truy cập tháng 12/2017. 12. Jeanjean, T., & Stolowy, H. (2008). Do accounting standards matter? An exploratory analysis of earnings management before and after IFRS adoption. Journal of Accounting and Public Policy, 27(6), 480-494. doi: jaccpubpol.2008.09.008 13. Kanagaretnam, K., Krishnan, G. V., & Lobo, G. J. (2010). An Empirical Analysis of Auditor Independence in the Banking Industry. The Accounting Review, 85(6), 2011-2046. 14. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2010). Auditor reputation and earnings management: International evidence from the banking industry. Journal of Banking & Finance, 34(10), 2318-2327. doi: jbankfin.2010.02.020 15. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2011). Effects of national culture on earnings quality of banks. Journal of International Business Studies, 42(6), 853-874. 16. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2014). Effects of international institutional factors on earnings quality of banks. Journal of Banking & Finance, 39(0), 87-106. doi: 17. Leuz, C., Nanda, D., & Wysocki, P. D. (2003). Earnings management and investor protection: an international comparison. Journal of Financial Economics, 69(3), 505-527. 18. Leventis, S., & Dimitropoulos, P. (2012). The role of corporate governance in earnings management: experience from US banks. Journal of Applied Accounting Research, 13(2), 161-177. doi: 19. Maia, S. C., Bressan, V. G. F., Lamounier, W. M., & Braga, M. J. (2013). Earnings management in Brazilian credit unions*. Brazilian Business Review, 10(4), 91-109. 20. Nguyen Dinh Cung. (2008). Corporate governance in Vietnam: regulations, practices and problems. available at: www. sme-gtz. org. vn/Download/Component% 20I/ENGLISH/1.% 20RESEARCH% 20AND% 20REPORTS/CORPORATE% 20GOVERNANCE% 20IN% 20VIETNAM. pdf (accessed April 27, 2012). 21. Quttainah, M. A., Song, L., & Wu, Q. (2013). Do Islamic Banks Employ Less Earnings Management? Journal of International Financial Management & Accounting, 24(3), 203-233. doi: 22. Shen, C.-H., & Chih, H.-L. (2005). Investor protection, prospect theory, and earnings management: An international comparison of the banking industry. Journal of Banking & Finance, 29(10), 2675-2697. doi: jbankfin.2004.10.004 23. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, & Pham Bao Khanh. (2014). Testing the Relationship between Corporate Governance and Bank Performance–An Empirical Study on Vietnamese Banks. Asian Social Science, 10(9), p213. 24. Zhou, J., & Chen, K. Y. (2004). Audit committee, board characteristics and earnings management by commercial banks. Unpublished Manuscript. Thông tin tác giả Đào Nam Giang, Tiến sĩ Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Email: namgiangriver@gmail.com/ giangdn@hvnh.edu.vn Summary Manipulating accounting figures to avoid reporting a loss and/or an earnings decrease - evidences from Vietnamese commercial banks Using earnings distribution approach, this paper provides evidence that Vietnamese commercial banks did manipulate accounting figures to avoid reporting a loss. Analysis of changing in reported profit reveals that the banks do not manage earnings to report an increasing profit. However, we can see some indicators of income smoothing activities. Possible causes include weak corporate governance mechanis and issues in business environment. Keywords: Earnings management, earnings distribution, loss avoidance, target-beating earnings management. Giang Nam Dao, PhD. Faculty of Accounting and Auditing, Banking Academy PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 75Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 dụng hồi quy với biến giả (đã đề cập ở Phần 1 của bài viết) để tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về tác động của một số nhân tố đến mức độ điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và ổn định lợi nhuận. Bên cạnh đó, các bằng chứng thực nghiệm trong nghiên cứu này cũng cho thấy các NHTM có xu hướng điều chỉnh số and colleges and allows schools to be autonomous in developing enrollment plans. The number of candidates has decreased over the years, while increasing enrollment targets of universities and colleges has created pressure for universities and colleges to compete to improve quality, reputation, and job orientation in order to attract candidates. The research was conducted to develop a model that illustrates the factors that determines the choice of the BA’s undergraduate program of students. The results of multiple linear regression analyzed from 186 questionaire respondents of BA’s 1st year and 2nd year students show that the groups of factors that have the significant impact in descending order are: Fixed Characteristics of the insitute, Communication Efforts of the institue, Social influencers to the student’s choice of the institute, Individual Characteristics of the student. Based on the obtained results, the research team proposes recommendations to improve the effectiveness of the enrollment process for universities, colleges in general and for BA institute in particular. Keywords: Factors, bachelor program, enrollment, Banking Academy of Vietnam. Mai Ngoc Tran, MEc. Faculty of International Business, Banking Academy Huong Thi Thu Nguyen Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy Linh Thuy Do Student of K18KDQTA, Faculty of International Business, Banking Academy kiệm, vay vốn với quy mô nhỏ, thời gian đáo hạn nhanh phù hợp hơn với nhóm khách hàng này. Mặt khác, thủ tục, giấy tờ luôn là một rào cản lớn đối với người dân khi tiếp cận các dịch vụ tài chính tại nông thôn, điều này đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu. Việc cải thiện thủ tục hành chính sẽ tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của khu vực nông thôn. ■ tiếp theo trang 63 thích điểm tín dụng theo những đặc điểm của khách hàng, bởi phần lớn cơ chế giải thích của các kĩ thuật này rất phức tạp và vẫn còn nằm trong “hộp đen”. Những kết quả được đưa ra trong bài nghiên cứu có thể là cơ sở để mở ra các nghiên cứu, đưa ra những phương pháp mới kết hợp các kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu quả các mô hình chấm điểm tín dụng. Ngoài việc xem xét kết quả của của các mô hình kết hợp thì việc giải thích cơ chế tác động của các nhân tố đầu vào với nhân tố mục tiêu phân loại đối với các mô hình cũng cần được quan tâm nghiên cứu. ■ tiếp theo trang 54 tiếp theo trang 44 cho nhiều trường hợp khác nhau. Việc sử dụng tốt sẽ dẫn đến các giao dịch nhanh hơn, minh bạch hơn. Giải pháp Blockchain cũng sẽ làm giảm chi phí và gánh nặng hành chính đối với ngân hàng và khách hàng. Ước tính rằng các công nghệ Blockchain có thể làm giảm chi phí cơ sở hạ tầng của ngân hàng khoảng 15- 20 tỷ USD một năm vào năm 2022- như tuyên bố trong “FinTech 2.0 Paper” của Santander InnoVentures. Blockchain cũng đặt ra thách thức đòi hỏi tất cả các bên liên quan sẽ phải tham gia hợp tác vào sự phát triển trong lĩnh vực này, “sẽ cần phải có một tập thể chung” giữa các ngân hàng, nhà quản lý và các công ty công nghệ. Bên cạnh đó, thách thức về sự riêng tư, bảo mật, khả năng mở rộng cũng là những vấn đề cần xem xét. Blockchain có thể là giải pháp công nghệ tiềm năng cho ngành tài chính ngân hàng, tuy nhiên nó còn cần phải tiếp tục được hoàn thiện, phát triển về công nghệ, giảm thiểu chi phí khi áp dụng và khắc phục các vấn đề khác đang tồn tại. ■ tiếp theo trang 36 liệu nhằm báo cáo mức lợi nhuận ổn định. Do đó, các nghiên cứu tương lai có thể phát triển các mô hình nghiên cứu nhằm tìm kếm bằng chứng bổ sung để có thể đưa ra kết luận về việc có NHTM có thực sự thao túng số liệu để ổn định lợi nhuận hay không, và các công cụ nào hay ước tính kế toán nào có thể bị lợi dụng để ổn định lợi nhuận. ■
File đính kèm:
- dieu_chinh_so_lieu_ke_toan_nham_tranh_bao_cao_lo_va_tranh_su.pdf