Đô thị và phát triển bền vững - Một số lý luận và thực tiễn ở Thái Nguyên

TÓM TẮT

Hệ thống đô thị Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước đang gặp nhiều thách thức và trở

ngại về nhiều mặt, như các vấn đề: Di dân từ nông thôn ra thành thị, phát triển kinh tế đô thị, giao

thông đô thị, công bằng xã hội, môi trường, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt ở tại các thành

phố lớn, vấn đề này càng trở nên bức xúc, đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu và giải pháp đồng

bộ để giải quyết, giảm thiểu những tác động bất lợi của chúng, đảm bảo cho quá trình phát triển

bền vững của đô thị; trong đó có thành phố Thái Nguyên: Đô thị loại I, trung tâm phát triển vùng

Đông Bắc, nơi đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ theo hướng CNH-HĐH. Bộ mặt đô thị TP

đã thay đổi rõ nét và dần hình thành vóc dáng một đô thị mang bản sắc riêng của vùng TDMN Bắc

Bộ. Năm 2009 TP. Thái Nguyên được Hiệp hội Các đô thị Việt Nam bình chọn là 1 trong 10 đô thị

sạch trên toàn quốc.

pdf 5 trang yennguyen 3920
Bạn đang xem tài liệu "Đô thị và phát triển bền vững - Một số lý luận và thực tiễn ở Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đô thị và phát triển bền vững - Một số lý luận và thực tiễn ở Thái Nguyên

Đô thị và phát triển bền vững - Một số lý luận và thực tiễn ở Thái Nguyên
Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 55 - 59 
55 
ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - 
MỘT SỐ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở THÁI NGUYÊN 
Vũ Vân Anh 
Khoa Địa lý , Trường ĐH Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Hệ thống đô thị Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước đang gặp nhiều thách thức và trở 
ngại về nhiều mặt, như các vấn đề: Di dân từ nông thôn ra thành thị, phát triển kinh tế đô thị, giao 
thông đô thị, công bằng xã hội, môi trường, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt ở tại các thành 
phố lớn, vấn đề này càng trở nên bức xúc, đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu và giải pháp đồng 
bộ để giải quyết, giảm thiểu những tác động bất lợi của chúng, đảm bảo cho quá trình phát triển 
bền vững của đô thị; trong đó có thành phố Thái Nguyên: Đô thị loại I, trung tâm phát triển vùng 
Đông Bắc, nơi đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ theo hướng CNH-HĐH. Bộ mặt đô thị TP 
đã thay đổi rõ nét và dần hình thành vóc dáng một đô thị mang bản sắc riêng của vùng TDMN Bắc 
Bộ. Năm 2009 TP. Thái Nguyên được Hiệp hội Các đô thị Việt Nam bình chọn là 1 trong 10 đô thị 
sạch trên toàn quốc. 
Từ khóa: đô thị, phát triển bền vững, thành phố Thái Nguyên 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Hệ thống đô thị đóng vai trò như một hệ 
thống “khung xương” phát triển của mỗi lãnh 
thổ, mỗi quốc gia. Hệ thống đô thị Việt Nam 
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước đang gặp nhiều thách thức và trở 
ngại về nhiều mặt, như các vấn đề: Di dân từ 
nông thôn ra thành thị, phát triển kinh tế đô 
thị, giao thông đô thị, công bằng xã hội, môi 
trường, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc 
biệt ở tại các thành phố lớn, vấn đề này càng 
trở nên bức xúc, đòi hỏi cần phải có những 
nghiên cứu và giải pháp đồng bộ để giải 
quyết, giảm thiểu những tác động bất lợi của 
chúng, đảm bảo cho quá trình phát triển bền 
vững của đô thị; trong đó có thành phố Thái 
Nguyên: Đô thị loại I, trung tâm phát triển 
vùng Đông Bắc, nơi đang trong quá trình đô 
thị hóa mạnh mẽ theo hướng công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa. 
NỘI DUNG 
Một số lý luận về đô thị phát triển bền 
vững (PTBV) 
a) Quan niệm về PTBV đô thị: 
Tổng quan kinh nghiệm nghiên cứu và thực 
tiễn hành động về PTBV đô thị của một số 
các tổ chức ở các nước, các tổ chức quốc tế 
trên thế giới, có thể kết luận rằng: Một đô thị 
*
 Tel: 0912687173; email: vac_03061982@yahoo.com 
bền vững trong quá trình phát triển, quan 
niệm đầy đủ là: khi nó đạt được sự thống nhất 
trong một khuôn khổ bền vững cả ba mặt kinh 
tế, xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất 
lượng sống của thế hệ hiện tại mà không làm 
ảnh hưởng tới các nhu cầu phát triển của thế 
hệ tương lai. [3] 
b) Nguyên tắc chung của sự phát triển đô thị 
bền vững: 
- Xu hướng phát triển của đô thị không làm 
thế hệ tương lai phải trả giá các hậu quả xấu 
của thế hệ hiện tại để lại,... 
- Đô thị phát triển cân bằng giữa các mặt kinh 
tế, xã hội và môi trường. 
- Một đô thị chỉ phát triển bền vững trong mối 
quan hệ bền vững với vùng lãnh thổ đô thị, 
các vùng và các đô thị khác mà nó chịu ảnh 
hưởng cũng phát triển bền vững 
Tuy nhiên, để đo được sự phát triển bền vững 
và có thể đưa ra khái niệm “PTBV ở mức 
chấp nhận được”? Đã có nhiều hệ thống tiêu 
chí, chỉ tiêu được đề xuất, nhưng được thừa 
nhận ngày càng rộng rãi là 4 mức độ đo sau: 
Độ đo kinh tế: Độ đo kinh tế của sự phát triển 
bền vững được tính trên giá trị GDP hoặc 
GNP. Do vậy, trong độ đo này cần phải tính 
đến việc hạn chế tối đa nhu cầu tiêu thụ tài 
nguyên không tái tạo và mức độ tái sinh tài 
nguyên, vật liệu từ các chất thải. 
Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 
56 
Độ đo môi trường:Độ đo môi trường của sự 
phát triển bền vững có thể đánh giá thông qua 
chất lượng các thành phần môi trường không 
khí, nước, đất, sinh thái; 
Độ đo xã hội: Phát triển bền vững đòi hỏi phải 
thay đổi chính sách xã hội cho phù hợp như: 
chính sách trợ cấp, chính sách thuế để loại trừ 
xu hướng già hoá ở các xã hội phát triển. 
Độ đo văn hoá: Độ đo văn hoá của phát triển 
bền vững còn là “văn hoá xanh”. Văn hoá 
xanh thể hiện trong: việc xây dựng cơ sở hạ 
tầng như nhà ở, giao thông đô thị, các quan 
hệ xã hội của con người và thái độ của con 
người đối với thiên nhiên. 
c) Thành phố phát triển bền vững 
Sự phát triển thành phố bền vững cần đạt 
được 3 mục tiêu cơ bản sau: 
- Thành phố PTBV về kinh tế. 
- Thành phố PTBV về môi trường. 
- Thành phố PTBV về xã hội. 
Thành phố PTBV về kinh tế thể hiện ở quá 
trình tăng trưởng liên tục, ổn định, lâu dài các 
chỉ tiêu kinh tế theo thời gian. 
Thành phố PTBV về tài nguyên và môi trường 
thể hiện ở việc sử dụng tài nguyên một cách 
hợp lý, đảm bảo sự bảo tồn đa dạng sinh học, 
không có những tác động tiêu cực đến môi 
trường. 
Thành phố PTBV về văn hoá xã hội thể hiện ở 
việc mang lại những lợi ích lâu dài cho xã hội 
như tạo công ăn việc làm cho người lao động, 
nâng cao mức sống cuả người dân và sự ổn 
định cuả xã hội, bảo tồn các giá trị văn hoá. 
d) Một số chỉ tiêu đánh giá sự PTBV đô thị[2] 
Các chỉ tiêu kinh tế xã hội và môi trường sẽ 
được sử dụng để đánh giá sự phát triển bền 
vững đô thị (thành phố) được tóm tắt trong 
bảng sau: 
TT Chỉ tiêu Nội dung 
A. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ 
01 Tăng trưởng kinh tế Mức tăng thực GDP (tính theo giá cố định) 
02 Thu nhập bình quân Thu nhập bình quân đầu người (PPP) 
03 Xuất nhập khẩu Cán cân thương mại (B) 
Thâm hụt tài khoản vãng lai (D) 
04 Lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 
05 Việc làm Tỉ lệ có việc làm 
B. CÁC CHỈ TIÊU XÃ HỘI 
01 Tăng dân số Tự nhiên (sinh-tử) 
02 Sức khoẻ Tỉ lệ tử vong trẻ em 
03 Nước sạch Tỉ lệ dùng nước sạch 
04 Giáo dục Số năm đi học trung bình (N) 
Tỉ lệ dân số biết chữ 
05 Phát triển phụ nữ Tỉ lệ phụ nữ biết chữ 
06 Các chỉ tiêu về phát triển y tế Tuổi thọ và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. 
C. CÁC CHỈ TIÊU VỀ MÔI TRƯỜNG 
01 Ô nhiễm không khí và tiếng ồn So sánh nồng độ các chất ô nhiễm không khí với tiêu 
chuẩn môi trường 
02 Ô nhiễm nguồn nước và nước thải So sánh nồng độ các chất ô nhiễm trong nước và nước 
thải với tiêu chuẩn môi trường 
04 Cây xanh đô thị Tỷ lệ diện tích cây xanh che phủ 
Tỷ lệ diện tích cây xanh bình quân đầu người 
05 Tiết kiệm năng lượng Tiêu dùng năng lượng bình quân 
06 Đa dạng sinh học Suy thoái đa dạng sinh học 
Nguồn: Trung tâm Công nghệ Môi trường, 2005 
Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 
57 
Phát triển bền vững đô thị tại Việt Nam 
Dân số đô thị Việt Nam không ngừng gia tăng: 
- Năm 1986 là 11,870 triệu người; năm 2000 
là 18,772 triệu người; năm 2003 là 20,870 
triệu người; năm 2005 là 22,337 triệu người 
và năm 2007 là 23,370 triệu người, đưa tỷ lệ 
đô thị hóa cả nước từ 19% (1986) lên 27,5% 
(năm 2007). 
- Mạng lưới đô thị Việt Nam không ngừng 
được mở rộng với trên 700 đô thị, trong đó có 
02 đô thị đặc biệt, 5 đô thị loại I, 10 đô thị 
loại II, 40 đô thị loại III, 28 đô thị loại IV, còn 
lại là các đô thị loại V. 
- Đô thị Việt Nam được chia thành 06 loại và 
03 cấp quản lý. Thành phố trực thuộc Trung 
ương (cấp tỉnh); thành phố, thị xã thuộc tỉnh 
(cấp huyện); thị trấn thuộc huyện (cấp 
xã).Tốc độ phát triển đô thị trong giai đoạn 
hiện nay rất nhanh, điển hình như khu vực 
phía Bắc gồm Thủ đô Hà Nội, Tp. Hạ Long, 
Tp. Điện Biên; Khu vực Miền Trung gồm Tp. 
Đà Nẵng, Tp. Đồng Hới; Tp. Huế; khu vực 
phía Nam gồm Tp. Hồ Chí Minh;, Tp. Biên 
Hòa, Tp. Vũng Tàu, TX. Thủ Dầu Một, Tp. 
Cần Thơ, ... Bên cạnh việc phát triển đô thị 
kéo theo nhu cầu giao thông như xe gắn máy, 
xe ôtô gia tăng rất nhanh. [1] 
Với một đất nước hơn 80 triệu dân, hiện hay 
theo thống kê chưa đầy đủ Việt Nam đã có 
hơn 10 triệu xe gắn máy. Sự phát triển các đô 
thị cùng với việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị 
gây áp lực rất lớn đến môi trường đô thị. Nếu 
không có các giải pháp bảo vệ môi trường thì 
đô thị sẽ không thể phát triển bền vững. 
Phát triển bền vững đô thị tại Thái Nguyên 
Từ 1991 đến nay, tỷ lệ dân cư thành thị ở 
Thái Nguyên luôn giữ trên 27% là mức cao 
hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình dân cư thành 
thị của cả nước. Tỷ lệ dân thành thị của tỉnh 
tăng chậm qua các năm, năm 2005 mới chiếm 
23,41% tổng dân số, đến 2009 tăng lên 
25,60%.[5] 
Mạng lưới đô thị của Thái Nguyên phân bố 
tương đối đều trên lãnh thổ, các đô thị này 
liên hệ với nhau bằng hệ thống giao thông và 
thông tin liên lạc. Trong mạng lưới đô thị của 
tỉnh, nổi bật lên là thành phố Thái Nguyên với 
số dân đô thị chiếm 77% dân số đô thị toàn 
tỉnh, thị xã Sông Công là đô thị lớn thứ hai 
với số dân trên 3 vạn. Các thị trấn, huyện lỵ 
đang trên đà phát triển như: thị trấn Đu (Phú 
Lương), Ba Hàng (Phổ Yên), Chùa Hang 
(Đồng Hỷ), Úc Sơn (Phú Bình), Đại Từ (Đại 
Từ), Chợ Chu (Định Hóa), Đình Cả (Võ Nhai). 
Dọc tuyến quốc lộ 3 là các đô thị mang tính 
chất trung tâm giao lưu của tỉnh, vùng và 
huyện như Thanh Xuyên, Giang Tiên, Bờ 
Đậu.. Dọc quốc lộ 13A từ Bờ Đậu đi Thanh 
Xuyên có đô thị Yên Lãng, Hùng Sơn.., dọc 
quốc lộ 1B có đô thị như Chùa Hang, La Hiên. 
Một số đô thị cũng hình thành cùng với sự 
phát triển của các xí nghiệp công nghiệp như 
thị trấn Trại Cau, Sông Cầu, Bãi bông.. Nhìn 
chung các đô thị trong tỉnh Thái Nguyên yếu 
kém về kết cấu hạ tầng. 
Sự phát triển kinh tế Thái Nguyên kéo theo sự 
phát triển của hệ thống đô thị cả về số lượng 
và chất lượng. Sự phát triển các trung tâm 
công nghiệp là nhân tố quan trọng tạo ra 
những đột biến trong quá trình hình thành hệ 
thống đô thị. Theo tiêu chuẩn phân loại đô thị 
Việt Nam, tỉnh Thái Nguyên hiện có 20 đô thị 
các loại: TP Thái Nguyên là đô thị loại I, thị 
xã Sông Công là đô thị loại IV, bảy thị trấn 
huyện lị được xếp là đô thị loại IV, là trung 
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của các huyện, 
là nơi đặt trụ sở các cơ quan quản lý cấp 
huyện. Trong hệ thống đô thị Thái Nguyên, 
có quy mô diện tích thấp nhất là 540ha, cao 
nhất là thành phố Thái nguyên là 5645ha, thị 
xã Sông Công 1471ha, thị trấn Đình Cả 320ha 
và thị trấn Ba Hàng 241 ha. Quy mô dân số 
của hệ thống đô thị Thái Nguyên chủ yếu là 
từ 2000-10000 dân, cao nhất là thành phố 
Thái Nguyên 230.000 người, tiếp theo là thị 
xã Sông Công 14.650 người. Hiện nay, 11 đô 
thị đã có quy hoạch khu trung tâm được 
duyệt, 3 thị tứ có quy hoạch tuy nhiên chưa 
hoàn thành do thiếu vốn nên quản lý xây 
dựng khó khăn, quản lý quy hoạch và quản lý 
kiến trúc, đất đô thị hiện nay đang chồng chéo 
lên các cơ quan chức năng.[4] 
Hệ thống đô thị Thái Nguyên những năm tới 
sẽ phát triển với phương châm là lấy công 
Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 
58 
nghiệp và dịch vụ làm hạt nhân, lấy hệ thống 
đô thị hiện tại làm nền tảng, từ đó nâng cao 
chất lượng và tính đồng bộ của chúng, hạn 
chế mở rộng quy mô diện tích của các đô thị, 
chủ yếu là quy mô dân số. Về mặt không gian 
sẽ phát triển theo hai chiều bám theo hai trục 
đường quốc lộ 3 và quốc lộ 1B. Năm 2010 
tổng số dân đô thị Thái Nguyên là 614.000 
người, chiếm 47,3% dân số toàn tỉnh, tốc độ 
đô thị hóa là 4,18%. 
PTBV tại TP Thái Nguyên 
Từ một thị xã nhỏ bé gồm 4 khu phố, 2 thị 
trấn và 6 xã với 140.000 dân, Thái Nguyên 
trở thành thành phố trực thuộc tỉnh ngày 19 
tháng 10 năm 1962. Thị xã Thái Nguyên từng 
là thủ phủ Khu tự trị Việt Bắc trong suốt thời 
gian tồn tại Khu tự trị này (1956-1975). Đây 
cũng là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên. Khi thành 
lập tỉnh Bắc Thái (1965 - 1996), Thái Nguyên 
là thành phố tỉnh lị tỉnh Bắc Thái. Từ ngày 6 
tháng 11 năm 1996, Thái Nguyên lại là tỉnh lị 
tỉnh Thái Nguyên như cũ. Theo cuộc Tổng 
điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 
năm (1999-2009), dân số của thành phố Thái 
Nguyên tăng thêm 55.000 người, bình quân 
mỗi năm tăng 2,23%. 
Thành phố Thái Nguyên là một đô thị loại 1 
(Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 
1645/QĐ-TTg ngày 1/9/2010 công nhận 
thành phố (TP) Thái Nguyên là đô thị loại I 
trực thuộc tỉnh Thái Nguyên), đóng vai trò là 
một đô thị trung tâm của vùng trung du và 
miền núi Bắc Bộ, là trung tâm Kinh tế - 
Chính trị - Văn hóa - Y tế - Giáo dục - Khoa 
học - Quân sự của vùng Đông Bắc. Thủ 
tướng chính phủ đã có quyết định quy hoạch 
tỉnh Thái Nguyên trở thành thành phố trực 
thuộc trung ương với 5 quận, 1 thị xã và 7 
huyện trực thuộc. Thái Nguyên là đô thị trung 
tâm vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. 
Thành phố Thái Nguyên sẽ trở thành vùng 
kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. 
Nằm bên con sông Cầu và sông Công thơ 
mộng, TP. Thái Nguyên có bề dày văn hiến 
và lịch sử. Sau 8 năm được công nhận đô thị 
loại II, TP đã phát triển mạnh mẽ, đạt những 
thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, 
xứng tầm là đô thị loại I, trở thành trung tâm 
chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh Thái 
Nguyên và của cả vùng Trung du miền núi 
Bắc bộ. 
a) Khai thác thế mạnh để phát triển 
Hiện nay, TP có 28 đơn vị hành chính gồm 18 
phường, 10 xã với tổng diện tích 18.970 ha, 
dân số toàn đô thị hơn 330 nghìn người. TP đã 
được xây dựng và phát triển thành một trung 
tâm công nghiệp luyện kim và cơ khí chế tạo, 
có KCN Gang thép Thái Nguyên là con chim 
đầu đàn của ngành luyện kim Việt Nam. 
TP. Thái Nguyên còn là trung tâm giáo dục 
đào tạo lớn của cả nước, là nơi tập trung 
nhiều trường đại học, trung học chuyên 
nghiệp, dạy nghề và nhiều cơ sở nghiên cứu 
khoa học với đông đảo đội ngũ cán bộ khoa 
học, công nhân kỹ thuật lành nghề. TP còn là 
trung tâm y tế với 9 bệnh viện đa khoa, chuyên 
khoa của trung ương và địa phương, có trên 
3.000 giường bệnh với hệ thống máy móc, 
thiết bị kỹ thuật y tế chuyên sâu, hiện đại đáp 
ứng ngày càng cao nhu cầu khám, chữa bệnh 
và điều trị cho nhân dân trong vùng. 
b) Xứng tầm đô thị loại I 
Trong thời gian qua, được sự quan tâm của 
Đảng, Nhà nước, các cơ quan trung ương và 
trực tiếp từ các cấp lãnh đạo tỉnh Thái 
Nguyên; Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP. 
Thái Nguyên đã tập trung mọi nguồn lực, đoàn 
kết, quyết tâm xây dựng và phát triển TP theo 
định hướng và quy hoạch, đạt đô thị loại I, nâng 
cao chất lượng sống của người dân đô thị. 
Năm 2009 tổng sản phẩm trên địa bàn TP 
(GDP) đạt 3.109 tỷ đồng, tăng 12,37% so với 
năm 2008; trong đó nông, lâm, ngư nghiệp 
đạt 128,5 tỷ đồng, tăng 5,07%; công nghiệp - 
xây dựng đạt 1.676,6 tỷ đồng, tăng 11,22%; 
dịch vụ đạt 1.304,7 tỷ đồng, tăng 14,68%. 
Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 803 tỷ 
đồng. Thu chi ngân sách TP đảm bảo cân đối 
và có kết dư. GDP bình quân đầu người 2009 
đạt 25,09 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm 
xuống còn 2,9%. 
TP đã tập trung các nguồn lực để hoàn thiện 
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ đô 
Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 
59 
thị hóa, phát triển mạng lưới đô thị và điểm 
dân cư tập trung theo hướng hiện đại. Đặc 
biệt là các khu đô thị mới 2 bên bờ sông Cầu, 
sẽ là điểm nhấn để phát triển TP bên bờ sông. 
Bộ mặt đô thị TP đã thay đổi rõ nét và dần 
hình thành vóc dáng một đô thị mang bản sắc 
riêng của vùng trung du miền núi Bắc bộ. 
Năm 2009 TP. Thái Nguyên được Hiệp hội 
Các đô thị Việt Nam bình chọn là 1 trong 10 
đô thị sạch trên toàn quốc. 
Mặc dù khá nhiều chỉ tiêu về kinh tế xã hội luôn 
đạt ở mức tăng trưởng cao (PTBV) và đã triển 
khai nhiều giải pháp bảo vệ môi trường, nhưng 
các chỉ tiêu về môi trường vẫn ở mức thấp. 
Tình hình ô nhiễm do khí thải và tiếng ồn 
giao thông tại TP. Thái Nguyên ngày một gia 
tăng. Chưa có các giải pháp công nghệ hữu 
hiệu nhằm xử lý khí thải, tiếng ồn giao thông . 
Nước thải đô thị gia tăng nhanh những năm 
trở lại đây, nhưng hệ thống thoát nước như 
cống thoát, kênh rạch không được cải tạo, đầu 
tư mới nên tình hình ứ đọng, ngập úng gây ô 
nhiễm nguồn nước mặt và mùi hôi. - Rác thải 
đô thị gia tăng rất nhanh nhưng chưa có biện 
pháp xử lý hiệu quả, đạt yêu cầu về vệ sinh 
môi trường.[2] 
KẾT LUẬN 
Để phát triển bền vững, Thành phố đã quan 
tâm đến việc bảo vệ môi trường, thông qua các 
giải pháp bảo vệ môi trường đã áp dụng. Tuy 
nhiên nếu so sánh với các chỉ tiêu kinh tế, xã 
hội và môi trường đánh giá sự phát triển bền 
vững đô thị như đã nêu ở trên thì thành phố 
Thái Nguyên chưa có sự phát triển bền vững. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê 
(2008- 2009), Nxb Thống kê, Hà Nội 2008 - 2009. 
[2]. Đào Hoàng Tuấn - Nghiên cứu môi trường và 
phát triển bền vững. Tạp chí Địa lý nhân văn, số 2, 
tháng 12/2004. 
[3]. Đào Hoàng Tuấn - Singapore – Những khía 
cạnh phát triển bền vững. Tạp chí Địa lý nhân 
văn, số 1, tháng 03/2006. 
[4]. Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững 
đô thị - Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của 
thế giới. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, . 
[5]. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân 
dân tỉnh Thái Nguyên (2009)– Địa chí Thái 
Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
SUMMARY 
URBAN AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT: 
SOME OF REASONING AND PRACTICE IN THAI NGUYEN 
Vu Van Anh* 
 Department of Geography, College of Education - TNU 
Urban system acts as a system of "frame" the development of each territory, each country. 
Vietnam's urban system in the process of industrialization and modernization of the country is 
facing many challenges and obstacles in many aspects, such as problems: Migration from rural to 
urban, urban economic development , urban transport, social justice, environmental, planning and 
urban management particularly in large cities, this problem became more pressing, requiring a 
research and synchronous measures to address and minimize the negative impacts of them, 
ensuring the process sustainable development of urban areas; including Thai Nguyen City: Urban 
Type I, the center developed the Northeast, which is in the process of urbanization strongly 
towards industrialization and modernization. 
Keywords:urban, sustainable development, Thai Nguyen city 
*
 Tel: 0912687173; email: vac_03061982@yahoo.com 

File đính kèm:

  • pdfdo_thi_va_phat_trien_ben_vung_mot_so_ly_luan_va_thuc_tien_o.pdf