Đô thị và phát triển bền vững - Một số lý luận và thực tiễn ở Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hệ thống đô thị Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước đang gặp nhiều thách thức và trở
ngại về nhiều mặt, như các vấn đề: Di dân từ nông thôn ra thành thị, phát triển kinh tế đô thị, giao
thông đô thị, công bằng xã hội, môi trường, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt ở tại các thành
phố lớn, vấn đề này càng trở nên bức xúc, đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu và giải pháp đồng
bộ để giải quyết, giảm thiểu những tác động bất lợi của chúng, đảm bảo cho quá trình phát triển
bền vững của đô thị; trong đó có thành phố Thái Nguyên: Đô thị loại I, trung tâm phát triển vùng
Đông Bắc, nơi đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ theo hướng CNH-HĐH. Bộ mặt đô thị TP
đã thay đổi rõ nét và dần hình thành vóc dáng một đô thị mang bản sắc riêng của vùng TDMN Bắc
Bộ. Năm 2009 TP. Thái Nguyên được Hiệp hội Các đô thị Việt Nam bình chọn là 1 trong 10 đô thị
sạch trên toàn quốc.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đô thị và phát triển bền vững - Một số lý luận và thực tiễn ở Thái Nguyên
Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 55 - 59 55 ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - MỘT SỐ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở THÁI NGUYÊN Vũ Vân Anh Khoa Địa lý , Trường ĐH Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Hệ thống đô thị Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước đang gặp nhiều thách thức và trở ngại về nhiều mặt, như các vấn đề: Di dân từ nông thôn ra thành thị, phát triển kinh tế đô thị, giao thông đô thị, công bằng xã hội, môi trường, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt ở tại các thành phố lớn, vấn đề này càng trở nên bức xúc, đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu và giải pháp đồng bộ để giải quyết, giảm thiểu những tác động bất lợi của chúng, đảm bảo cho quá trình phát triển bền vững của đô thị; trong đó có thành phố Thái Nguyên: Đô thị loại I, trung tâm phát triển vùng Đông Bắc, nơi đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ theo hướng CNH-HĐH. Bộ mặt đô thị TP đã thay đổi rõ nét và dần hình thành vóc dáng một đô thị mang bản sắc riêng của vùng TDMN Bắc Bộ. Năm 2009 TP. Thái Nguyên được Hiệp hội Các đô thị Việt Nam bình chọn là 1 trong 10 đô thị sạch trên toàn quốc. Từ khóa: đô thị, phát triển bền vững, thành phố Thái Nguyên ĐẶT VẤN ĐỀ* Hệ thống đô thị đóng vai trò như một hệ thống “khung xương” phát triển của mỗi lãnh thổ, mỗi quốc gia. Hệ thống đô thị Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang gặp nhiều thách thức và trở ngại về nhiều mặt, như các vấn đề: Di dân từ nông thôn ra thành thị, phát triển kinh tế đô thị, giao thông đô thị, công bằng xã hội, môi trường, quy hoạch và quản lý đô thị, đặc biệt ở tại các thành phố lớn, vấn đề này càng trở nên bức xúc, đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu và giải pháp đồng bộ để giải quyết, giảm thiểu những tác động bất lợi của chúng, đảm bảo cho quá trình phát triển bền vững của đô thị; trong đó có thành phố Thái Nguyên: Đô thị loại I, trung tâm phát triển vùng Đông Bắc, nơi đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. NỘI DUNG Một số lý luận về đô thị phát triển bền vững (PTBV) a) Quan niệm về PTBV đô thị: Tổng quan kinh nghiệm nghiên cứu và thực tiễn hành động về PTBV đô thị của một số các tổ chức ở các nước, các tổ chức quốc tế trên thế giới, có thể kết luận rằng: Một đô thị * Tel: 0912687173; email: vac_03061982@yahoo.com bền vững trong quá trình phát triển, quan niệm đầy đủ là: khi nó đạt được sự thống nhất trong một khuôn khổ bền vững cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng tới các nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai. [3] b) Nguyên tắc chung của sự phát triển đô thị bền vững: - Xu hướng phát triển của đô thị không làm thế hệ tương lai phải trả giá các hậu quả xấu của thế hệ hiện tại để lại,... - Đô thị phát triển cân bằng giữa các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. - Một đô thị chỉ phát triển bền vững trong mối quan hệ bền vững với vùng lãnh thổ đô thị, các vùng và các đô thị khác mà nó chịu ảnh hưởng cũng phát triển bền vững Tuy nhiên, để đo được sự phát triển bền vững và có thể đưa ra khái niệm “PTBV ở mức chấp nhận được”? Đã có nhiều hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu được đề xuất, nhưng được thừa nhận ngày càng rộng rãi là 4 mức độ đo sau: Độ đo kinh tế: Độ đo kinh tế của sự phát triển bền vững được tính trên giá trị GDP hoặc GNP. Do vậy, trong độ đo này cần phải tính đến việc hạn chế tối đa nhu cầu tiêu thụ tài nguyên không tái tạo và mức độ tái sinh tài nguyên, vật liệu từ các chất thải. Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 56 Độ đo môi trường:Độ đo môi trường của sự phát triển bền vững có thể đánh giá thông qua chất lượng các thành phần môi trường không khí, nước, đất, sinh thái; Độ đo xã hội: Phát triển bền vững đòi hỏi phải thay đổi chính sách xã hội cho phù hợp như: chính sách trợ cấp, chính sách thuế để loại trừ xu hướng già hoá ở các xã hội phát triển. Độ đo văn hoá: Độ đo văn hoá của phát triển bền vững còn là “văn hoá xanh”. Văn hoá xanh thể hiện trong: việc xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà ở, giao thông đô thị, các quan hệ xã hội của con người và thái độ của con người đối với thiên nhiên. c) Thành phố phát triển bền vững Sự phát triển thành phố bền vững cần đạt được 3 mục tiêu cơ bản sau: - Thành phố PTBV về kinh tế. - Thành phố PTBV về môi trường. - Thành phố PTBV về xã hội. Thành phố PTBV về kinh tế thể hiện ở quá trình tăng trưởng liên tục, ổn định, lâu dài các chỉ tiêu kinh tế theo thời gian. Thành phố PTBV về tài nguyên và môi trường thể hiện ở việc sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, đảm bảo sự bảo tồn đa dạng sinh học, không có những tác động tiêu cực đến môi trường. Thành phố PTBV về văn hoá xã hội thể hiện ở việc mang lại những lợi ích lâu dài cho xã hội như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cuả người dân và sự ổn định cuả xã hội, bảo tồn các giá trị văn hoá. d) Một số chỉ tiêu đánh giá sự PTBV đô thị[2] Các chỉ tiêu kinh tế xã hội và môi trường sẽ được sử dụng để đánh giá sự phát triển bền vững đô thị (thành phố) được tóm tắt trong bảng sau: TT Chỉ tiêu Nội dung A. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ 01 Tăng trưởng kinh tế Mức tăng thực GDP (tính theo giá cố định) 02 Thu nhập bình quân Thu nhập bình quân đầu người (PPP) 03 Xuất nhập khẩu Cán cân thương mại (B) Thâm hụt tài khoản vãng lai (D) 04 Lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 05 Việc làm Tỉ lệ có việc làm B. CÁC CHỈ TIÊU XÃ HỘI 01 Tăng dân số Tự nhiên (sinh-tử) 02 Sức khoẻ Tỉ lệ tử vong trẻ em 03 Nước sạch Tỉ lệ dùng nước sạch 04 Giáo dục Số năm đi học trung bình (N) Tỉ lệ dân số biết chữ 05 Phát triển phụ nữ Tỉ lệ phụ nữ biết chữ 06 Các chỉ tiêu về phát triển y tế Tuổi thọ và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. C. CÁC CHỈ TIÊU VỀ MÔI TRƯỜNG 01 Ô nhiễm không khí và tiếng ồn So sánh nồng độ các chất ô nhiễm không khí với tiêu chuẩn môi trường 02 Ô nhiễm nguồn nước và nước thải So sánh nồng độ các chất ô nhiễm trong nước và nước thải với tiêu chuẩn môi trường 04 Cây xanh đô thị Tỷ lệ diện tích cây xanh che phủ Tỷ lệ diện tích cây xanh bình quân đầu người 05 Tiết kiệm năng lượng Tiêu dùng năng lượng bình quân 06 Đa dạng sinh học Suy thoái đa dạng sinh học Nguồn: Trung tâm Công nghệ Môi trường, 2005 Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 57 Phát triển bền vững đô thị tại Việt Nam Dân số đô thị Việt Nam không ngừng gia tăng: - Năm 1986 là 11,870 triệu người; năm 2000 là 18,772 triệu người; năm 2003 là 20,870 triệu người; năm 2005 là 22,337 triệu người và năm 2007 là 23,370 triệu người, đưa tỷ lệ đô thị hóa cả nước từ 19% (1986) lên 27,5% (năm 2007). - Mạng lưới đô thị Việt Nam không ngừng được mở rộng với trên 700 đô thị, trong đó có 02 đô thị đặc biệt, 5 đô thị loại I, 10 đô thị loại II, 40 đô thị loại III, 28 đô thị loại IV, còn lại là các đô thị loại V. - Đô thị Việt Nam được chia thành 06 loại và 03 cấp quản lý. Thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh); thành phố, thị xã thuộc tỉnh (cấp huyện); thị trấn thuộc huyện (cấp xã).Tốc độ phát triển đô thị trong giai đoạn hiện nay rất nhanh, điển hình như khu vực phía Bắc gồm Thủ đô Hà Nội, Tp. Hạ Long, Tp. Điện Biên; Khu vực Miền Trung gồm Tp. Đà Nẵng, Tp. Đồng Hới; Tp. Huế; khu vực phía Nam gồm Tp. Hồ Chí Minh;, Tp. Biên Hòa, Tp. Vũng Tàu, TX. Thủ Dầu Một, Tp. Cần Thơ, ... Bên cạnh việc phát triển đô thị kéo theo nhu cầu giao thông như xe gắn máy, xe ôtô gia tăng rất nhanh. [1] Với một đất nước hơn 80 triệu dân, hiện hay theo thống kê chưa đầy đủ Việt Nam đã có hơn 10 triệu xe gắn máy. Sự phát triển các đô thị cùng với việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị gây áp lực rất lớn đến môi trường đô thị. Nếu không có các giải pháp bảo vệ môi trường thì đô thị sẽ không thể phát triển bền vững. Phát triển bền vững đô thị tại Thái Nguyên Từ 1991 đến nay, tỷ lệ dân cư thành thị ở Thái Nguyên luôn giữ trên 27% là mức cao hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình dân cư thành thị của cả nước. Tỷ lệ dân thành thị của tỉnh tăng chậm qua các năm, năm 2005 mới chiếm 23,41% tổng dân số, đến 2009 tăng lên 25,60%.[5] Mạng lưới đô thị của Thái Nguyên phân bố tương đối đều trên lãnh thổ, các đô thị này liên hệ với nhau bằng hệ thống giao thông và thông tin liên lạc. Trong mạng lưới đô thị của tỉnh, nổi bật lên là thành phố Thái Nguyên với số dân đô thị chiếm 77% dân số đô thị toàn tỉnh, thị xã Sông Công là đô thị lớn thứ hai với số dân trên 3 vạn. Các thị trấn, huyện lỵ đang trên đà phát triển như: thị trấn Đu (Phú Lương), Ba Hàng (Phổ Yên), Chùa Hang (Đồng Hỷ), Úc Sơn (Phú Bình), Đại Từ (Đại Từ), Chợ Chu (Định Hóa), Đình Cả (Võ Nhai). Dọc tuyến quốc lộ 3 là các đô thị mang tính chất trung tâm giao lưu của tỉnh, vùng và huyện như Thanh Xuyên, Giang Tiên, Bờ Đậu.. Dọc quốc lộ 13A từ Bờ Đậu đi Thanh Xuyên có đô thị Yên Lãng, Hùng Sơn.., dọc quốc lộ 1B có đô thị như Chùa Hang, La Hiên. Một số đô thị cũng hình thành cùng với sự phát triển của các xí nghiệp công nghiệp như thị trấn Trại Cau, Sông Cầu, Bãi bông.. Nhìn chung các đô thị trong tỉnh Thái Nguyên yếu kém về kết cấu hạ tầng. Sự phát triển kinh tế Thái Nguyên kéo theo sự phát triển của hệ thống đô thị cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển các trung tâm công nghiệp là nhân tố quan trọng tạo ra những đột biến trong quá trình hình thành hệ thống đô thị. Theo tiêu chuẩn phân loại đô thị Việt Nam, tỉnh Thái Nguyên hiện có 20 đô thị các loại: TP Thái Nguyên là đô thị loại I, thị xã Sông Công là đô thị loại IV, bảy thị trấn huyện lị được xếp là đô thị loại IV, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của các huyện, là nơi đặt trụ sở các cơ quan quản lý cấp huyện. Trong hệ thống đô thị Thái Nguyên, có quy mô diện tích thấp nhất là 540ha, cao nhất là thành phố Thái nguyên là 5645ha, thị xã Sông Công 1471ha, thị trấn Đình Cả 320ha và thị trấn Ba Hàng 241 ha. Quy mô dân số của hệ thống đô thị Thái Nguyên chủ yếu là từ 2000-10000 dân, cao nhất là thành phố Thái Nguyên 230.000 người, tiếp theo là thị xã Sông Công 14.650 người. Hiện nay, 11 đô thị đã có quy hoạch khu trung tâm được duyệt, 3 thị tứ có quy hoạch tuy nhiên chưa hoàn thành do thiếu vốn nên quản lý xây dựng khó khăn, quản lý quy hoạch và quản lý kiến trúc, đất đô thị hiện nay đang chồng chéo lên các cơ quan chức năng.[4] Hệ thống đô thị Thái Nguyên những năm tới sẽ phát triển với phương châm là lấy công Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 58 nghiệp và dịch vụ làm hạt nhân, lấy hệ thống đô thị hiện tại làm nền tảng, từ đó nâng cao chất lượng và tính đồng bộ của chúng, hạn chế mở rộng quy mô diện tích của các đô thị, chủ yếu là quy mô dân số. Về mặt không gian sẽ phát triển theo hai chiều bám theo hai trục đường quốc lộ 3 và quốc lộ 1B. Năm 2010 tổng số dân đô thị Thái Nguyên là 614.000 người, chiếm 47,3% dân số toàn tỉnh, tốc độ đô thị hóa là 4,18%. PTBV tại TP Thái Nguyên Từ một thị xã nhỏ bé gồm 4 khu phố, 2 thị trấn và 6 xã với 140.000 dân, Thái Nguyên trở thành thành phố trực thuộc tỉnh ngày 19 tháng 10 năm 1962. Thị xã Thái Nguyên từng là thủ phủ Khu tự trị Việt Bắc trong suốt thời gian tồn tại Khu tự trị này (1956-1975). Đây cũng là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên. Khi thành lập tỉnh Bắc Thái (1965 - 1996), Thái Nguyên là thành phố tỉnh lị tỉnh Bắc Thái. Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, Thái Nguyên lại là tỉnh lị tỉnh Thái Nguyên như cũ. Theo cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm (1999-2009), dân số của thành phố Thái Nguyên tăng thêm 55.000 người, bình quân mỗi năm tăng 2,23%. Thành phố Thái Nguyên là một đô thị loại 1 (Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 1645/QĐ-TTg ngày 1/9/2010 công nhận thành phố (TP) Thái Nguyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thái Nguyên), đóng vai trò là một đô thị trung tâm của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, là trung tâm Kinh tế - Chính trị - Văn hóa - Y tế - Giáo dục - Khoa học - Quân sự của vùng Đông Bắc. Thủ tướng chính phủ đã có quyết định quy hoạch tỉnh Thái Nguyên trở thành thành phố trực thuộc trung ương với 5 quận, 1 thị xã và 7 huyện trực thuộc. Thái Nguyên là đô thị trung tâm vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Thành phố Thái Nguyên sẽ trở thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. Nằm bên con sông Cầu và sông Công thơ mộng, TP. Thái Nguyên có bề dày văn hiến và lịch sử. Sau 8 năm được công nhận đô thị loại II, TP đã phát triển mạnh mẽ, đạt những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, xứng tầm là đô thị loại I, trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh Thái Nguyên và của cả vùng Trung du miền núi Bắc bộ. a) Khai thác thế mạnh để phát triển Hiện nay, TP có 28 đơn vị hành chính gồm 18 phường, 10 xã với tổng diện tích 18.970 ha, dân số toàn đô thị hơn 330 nghìn người. TP đã được xây dựng và phát triển thành một trung tâm công nghiệp luyện kim và cơ khí chế tạo, có KCN Gang thép Thái Nguyên là con chim đầu đàn của ngành luyện kim Việt Nam. TP. Thái Nguyên còn là trung tâm giáo dục đào tạo lớn của cả nước, là nơi tập trung nhiều trường đại học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học với đông đảo đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật lành nghề. TP còn là trung tâm y tế với 9 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa của trung ương và địa phương, có trên 3.000 giường bệnh với hệ thống máy móc, thiết bị kỹ thuật y tế chuyên sâu, hiện đại đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khám, chữa bệnh và điều trị cho nhân dân trong vùng. b) Xứng tầm đô thị loại I Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan trung ương và trực tiếp từ các cấp lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên; Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP. Thái Nguyên đã tập trung mọi nguồn lực, đoàn kết, quyết tâm xây dựng và phát triển TP theo định hướng và quy hoạch, đạt đô thị loại I, nâng cao chất lượng sống của người dân đô thị. Năm 2009 tổng sản phẩm trên địa bàn TP (GDP) đạt 3.109 tỷ đồng, tăng 12,37% so với năm 2008; trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 128,5 tỷ đồng, tăng 5,07%; công nghiệp - xây dựng đạt 1.676,6 tỷ đồng, tăng 11,22%; dịch vụ đạt 1.304,7 tỷ đồng, tăng 14,68%. Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 803 tỷ đồng. Thu chi ngân sách TP đảm bảo cân đối và có kết dư. GDP bình quân đầu người 2009 đạt 25,09 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 2,9%. TP đã tập trung các nguồn lực để hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ đô Vũ Vân Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 55 - 59 59 thị hóa, phát triển mạng lưới đô thị và điểm dân cư tập trung theo hướng hiện đại. Đặc biệt là các khu đô thị mới 2 bên bờ sông Cầu, sẽ là điểm nhấn để phát triển TP bên bờ sông. Bộ mặt đô thị TP đã thay đổi rõ nét và dần hình thành vóc dáng một đô thị mang bản sắc riêng của vùng trung du miền núi Bắc bộ. Năm 2009 TP. Thái Nguyên được Hiệp hội Các đô thị Việt Nam bình chọn là 1 trong 10 đô thị sạch trên toàn quốc. Mặc dù khá nhiều chỉ tiêu về kinh tế xã hội luôn đạt ở mức tăng trưởng cao (PTBV) và đã triển khai nhiều giải pháp bảo vệ môi trường, nhưng các chỉ tiêu về môi trường vẫn ở mức thấp. Tình hình ô nhiễm do khí thải và tiếng ồn giao thông tại TP. Thái Nguyên ngày một gia tăng. Chưa có các giải pháp công nghệ hữu hiệu nhằm xử lý khí thải, tiếng ồn giao thông . Nước thải đô thị gia tăng nhanh những năm trở lại đây, nhưng hệ thống thoát nước như cống thoát, kênh rạch không được cải tạo, đầu tư mới nên tình hình ứ đọng, ngập úng gây ô nhiễm nguồn nước mặt và mùi hôi. - Rác thải đô thị gia tăng rất nhanh nhưng chưa có biện pháp xử lý hiệu quả, đạt yêu cầu về vệ sinh môi trường.[2] KẾT LUẬN Để phát triển bền vững, Thành phố đã quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, thông qua các giải pháp bảo vệ môi trường đã áp dụng. Tuy nhiên nếu so sánh với các chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường đánh giá sự phát triển bền vững đô thị như đã nêu ở trên thì thành phố Thái Nguyên chưa có sự phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê (2008- 2009), Nxb Thống kê, Hà Nội 2008 - 2009. [2]. Đào Hoàng Tuấn - Nghiên cứu môi trường và phát triển bền vững. Tạp chí Địa lý nhân văn, số 2, tháng 12/2004. [3]. Đào Hoàng Tuấn - Singapore – Những khía cạnh phát triển bền vững. Tạp chí Địa lý nhân văn, số 1, tháng 03/2006. [4]. Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị - Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, . [5]. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2009)– Địa chí Thái Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. SUMMARY URBAN AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT: SOME OF REASONING AND PRACTICE IN THAI NGUYEN Vu Van Anh* Department of Geography, College of Education - TNU Urban system acts as a system of "frame" the development of each territory, each country. Vietnam's urban system in the process of industrialization and modernization of the country is facing many challenges and obstacles in many aspects, such as problems: Migration from rural to urban, urban economic development , urban transport, social justice, environmental, planning and urban management particularly in large cities, this problem became more pressing, requiring a research and synchronous measures to address and minimize the negative impacts of them, ensuring the process sustainable development of urban areas; including Thai Nguyen City: Urban Type I, the center developed the Northeast, which is in the process of urbanization strongly towards industrialization and modernization. Keywords:urban, sustainable development, Thai Nguyen city * Tel: 0912687173; email: vac_03061982@yahoo.com
File đính kèm:
- do_thi_va_phat_trien_ben_vung_mot_so_ly_luan_va_thuc_tien_o.pdf