Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ

Tóm tắt: Trong tâm thức người Việt, mỗi vị thần đều có những

“bổn phận”, chức năng riêng. Các vị thần khác nhau liên quan đến

các phạm trù, bình diện khác nhau của đời sống nhân sinh, ví dụ,

Bà Chúa Xứ cai quản vùng đất, Bà Thủy cai quản vùng nước,

Quan Thế Ấm Bồ Tát cứu độ chúng sinh, Thiên Hậu vừa là thần

biển (Hải thần) vừa là Mẫu thần ban phúc lành (phúc thần), v.v.

Do vậy, các dân tộc có xu hướng thờ đa thần với mong mỏi bất cứ

ước vọng nào cũng có thần linh nghe thấy. Tục thờ Bà Thiên Hậu

của người Hoa được người Việt ở Tây Nam Bộ tiếp nhận trong quá

trình cùng sinh sống ở vùng đất này. Như một hệ quả tất yếu, một

bộ phận người Việt đã xây cất miếu Thiên Hậu và tổ chức sinh

hoạt tôn giáo của riêng mình. Bài viết này khái quát một số đặc

điểm miếu thờ Thiên Hậu của người Việt ở Tây Nam Bộ

pdf 10 trang yennguyen 2020
Bạn đang xem tài liệu "Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ

Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 123 
NGUYỄN NGỌC THƠ* 
VÀI ĐẶC ĐIỂM THỜ THIÊN HẬU CỦA NGƯỜI VIỆT 
VÙNG TÂY NAM BỘ1 
Tóm tắt: Trong tâm thức người Việt, mỗi vị thần đều có những 
“bổn phận”, chức năng riêng. Các vị thần khác nhau liên quan đến 
các phạm trù, bình diện khác nhau của đời sống nhân sinh, ví dụ, 
Bà Chúa Xứ cai quản vùng đất, Bà Thủy cai quản vùng nước, 
Quan Thế Ấm Bồ Tát cứu độ chúng sinh, Thiên Hậu vừa là thần 
biển (Hải thần) vừa là Mẫu thần ban phúc lành (phúc thần), v.v.. 
Do vậy, các dân tộc có xu hướng thờ đa thần với mong mỏi bất cứ 
ước vọng nào cũng có thần linh nghe thấy. Tục thờ Bà Thiên Hậu 
của người Hoa được người Việt ở Tây Nam Bộ tiếp nhận trong quá 
trình cùng sinh sống ở vùng đất này. Như một hệ quả tất yếu, một 
bộ phận người Việt đã xây cất miếu Thiên Hậu và tổ chức sinh 
hoạt tôn giáo của riêng mình. Bài viết này khái quát một số đặc 
điểm miếu thờ Thiên Hậu của người Việt ở Tây Nam Bộ. 
Từ khóa: Đặc điểm, miếu thờ, Tây Nam Bộ, Thiên Hậu, người Việt. 
1. Khái quát tục thờ Thiên Hậu của người Việt ở Tây Nam Bộ 
Trong dòng chảy văn hóa người Việt, Tây Nam Bộ là vùng văn hóa 
“sinh sau đẻ muộn” so với nhiều vùng đất khác, là nơi hợp lưu văn hóa 
các tộc người bản địa và mới đến, đã “gặp gỡ”, “giao thoa”, “thâu nạp” 
lẫn nhau và tái tạo, lên khuôn theo các kiểu thức riêng của từng cộng 
đồng tộc người. Với tâm và thế của dân tộc chủ thể, người Việt đã chủ 
động khai phóng tư duy, đón nhận những giá trị mới theo hướng có thể 
sử dụng để bổ sung vào dòng văn hóa của mình vốn đã có phần sơ bạc 
sau nhiều thế kỷ di dân qua nhiều vùng đất với các kiểu thức văn hóa 
khác nhau. Nói cách khác, quá trình thâu nhận và tái tạo văn hóa người 
Việt ở Trung Bộ thời kỳ Đàng Trong là một bước đệm, bước tập dượt hết 
sức có ý nghĩa để người Việt vùng Tây Nam Bộ một lần nữa “thâu nạp và 
tái cấu trúc nhiều thực hành văn hóa - xã hội ở địa phương1. Trong hệ 
* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
1 Bài viết này được tài trợ bởi Quỹ Khoa học Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) 
trong đề tài mã số IV5.2-2012.20. 
124 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
thống các bình diện văn hóa xã hội được người Việt thâu nhận và tái tạo 
ở Tây Nam Bộ thì tôn giáo, nghệ thuật trình diễn và phương thức sinh kế 
là các lĩnh vực phản ánh xu hướng ấy một cách sâu sắc nhất. Nguồn gốc 
quan trọng nhất của các hiện tượng thâu nạp này nằm ở tính chất sơ bạc 
của văn hóa sau quá trình di dân, khai khẩn và tính chủ động của người 
Việt trong tiếp nhận cái mới ở địa phương. 
Thiên Hậu là mẫu thần cộng đồng hình thành từ vùng Bồ Điền, Phúc 
Kiến, sau mở rộng khắp vùng duyên hải Hoa Nam, Đài Loan và hạ lưu 
sông Trường Giang và lan rộng khắp thế giới với khoảng 6.000 miếu thờ. 
Các miếu Thiên Hậu được gọi tên dưới nhiều dạng thức khác nhau, như: 
Thiên Hậu cung, Thiên Hậu miếu, Ma Tổ miếu, Ma Tổ các, Thánh Mẫu 
miếu, v.v., được coi là nơi gặp gỡ của những những ước vọng dân gian từ 
mộc mạc, bình dị (như an lành, hạnh phúc, tai qua nạn khỏi) cho đến đậm 
chất kinh tế như buôn may bắn đắt, giàu sang thịnh vượng của các cộng 
đồng cư dân địa phương. 
Nghiên cứu về biểu tượng, Đinh Hồng Hải (2014) dẫn mô hình Tam vị 
của Pierce để nhấn mạnh mối quan hệ tương tác giữa biểu tượng (symbol, 
hay kí hiệu, sign) với trường ý nghĩa của biểu tượng (signified) trong bối 
cảnh văn hóa của từng nhóm cộng đồng khách thể cụ thể. Bà Thiên Hậu là 
một biểu tượng có hệ thống ý nghĩa khá phong phú, tập trung chủ yếu ở ý 
nghĩa của thần biển, thần ban phát phúc lành. Tuy nhiên, các giá trị của tục 
thờ này sẽ thay đổi tùy theo khách thể - tức cộng đồng thờ tự Bà Thiên Hậu. 
Tục thờ Thiên Hậu là một phần hành trang của tộc người Hoa khi vượt 
biển đến Việt Nam, sau quá trình cộng cư ở Nam Bộ đã mở rộng, truyền 
bá đến một bộ phận người Việt. Theo các nhà nhân học Anh vào cuối thế 
kỷ XIX, giao lưu văn hóa là “quá trình biến đổi các đồ tạo tác, phong tục 
tập quán, niềm tin tôn giáo do sự tiếp xúc giữa các xã hội có truyền thống 
văn hóa khác nhau”2, trong khi các nhà nhân học Mỹ thì cho rằng “giao 
lưu tiếp biến văn hóa là quá trình trong đó một nền văn hóa thích nghi, 
ảnh hưởng một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc 
trưng của nền văn hóa ấy”3. Ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh nhận định 
“giao tiếp văn hóa, nói ngắn gọn là quá trình các cộng đồng người gặp 
nhau và trên cơ sở đó tiếp nhận ở nhau những giá trị văn hóa”4. 
Theo nhận xét trên, người Việt vùng Tây Nam Bộ có tư duy mở - 
thoáng, sẵn sàng tiếp nhận và tái cấu trúc đời sống tâm linh, tạo nền tảng 
cho hiện tượng giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong vùng. Trong số 
ấy, sự giao lưu văn hóa giữa người Việt và người Hoa là mạnh mẽ nhất 
Nguyễn Ngọc Thơ. Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu... 125 
do hai dân tộc này chia sẻ nhiều điểm tương đồng trong đời sống tư 
tưởng - văn hóa. Quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt - Hoa qua tục 
thờ Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ diễn ra mạnh mẽ nhất ở các khu vực 
cộng cư chung của ba cộng đồng: Việt, Hoa, Khmer. Do vậy, số miếu thờ 
Thiên Hậu của người Việt nói riêng, của toàn vùng Tây Nam Bộ nói 
chung là phong phú hơn cả. Hai trong số các khu vực ấy là (1) Giồng đất 
ven biển Đông từ Bến Tre qua Trà Vinh đến Sóc Trăng và (2) Các vùng 
đất dọc theo con đường giao thương kết nối Tp. Hồ Chí Minh với Tây 
Nam Bộ: Quốc lộ 1A, sông Măng Thít, hệ thống sông Tiền - sông Hậu. 
Trong hai tiểu vùng này, Trà Vinh và Sóc Trăng là hai địa phương điển 
hình nhất, là nơi có các quá trình giao lưu - tiếp biến văn hóa giữa ba 
cộng đồng dân tộc: Việt, Hoa, Khmer diễn ra mạnh mẽ và thường xuyên 
nhất. Nhờ vậy, tục thờ Bà Thiên Hậu của người Việt cũng thể hiện sống 
động nhất. Sự tồn tại và phát triển của văn hóa Khmer ở hai địa phương 
(xoay quanh trục Phật giáo Nam tông) đã gián tiếp tạo nền tảng cho tính 
đa dạng của văn hóa tộc người, thông qua đó, tôn giáo và phong tục, tập 
quán người Hoa cũng phát triển hết sức đa dạng. 
Chính vì vậy, Thiên Hậu còn được người Việt phối thờ ở cơ sở thờ tự 
khác, ví dụ: Miếu Bà Chúa Xứ ở thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; miếu Bà 
Thủy ở thị trấn Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân và miếu Tam Vị ở thị trấn 
Cái Nước, tỉnh Cà Mau; cung Cửu Thiên Chúa Xứ ở Tp. Bạc Liêu, tỉnh 
Bạc Liêu; chùa Tân Long ở xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; 
miếu Bà Chúa Xứ - Bà Mã Châu ở ấp Bãi Bấc, xã Lại Sơn, quần đảo Nam 
Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang5, v.v. (tài liệu điền dã các năm 2014, 
2015). Dải đất ven biển từ Trà Vinh xuống bán đảo Cà Mau là khu vực tập 
trung đông đảo nhất các cơ sở thờ tự Thiên Hậu chủ yếu của người Hoa 
Triều Châu và người Việt. Bên cạnh đó, con đường thương mại kênh Chợ 
Đệm, sông Mỹ Tho, sông Măng Thít và hệ thống sông Tiền - sông Hậu 
cũng là vùng đất có nhiều miếu thờ Thiên Hậu. 
Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn vùng Tây Nam Bộ có 70 miếu Thiên 
Hậu, trong đó có 55 miếu của người Hoa và 15 miếu do người Việt xây 
dựng, tổ chức quản lý và sinh hoạt tôn giáo. Tổng số 70 miếu phân bố 
như sau: 
Stt Địa phương Số lượng 
1 An Giang 04 
2 Bạc Liêu 07 
3 Bến Tre 03 
4 Cà Mau 08 
126 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
5 Cần Thơ 01 
6 Đồng Tháp 01 
7 Kiên Giang 08 
8 Long An 03 
9 Sóc Trăng 16 
10 Tiền Giang 02 
11 Trà Vinh 11 
12 Vĩnh Long 06 
Tổng cộng 70 
15 miếu Thiên Hậu do người Việt xây cất và tổ chức sinh hoạt tôn 
giáo phân bố như sau: 
Stt Tên miếu Địa chỉ 
1 Miếu Thiên Hậu Phường 1, Tp. Tân An, tỉnh Long An 
2 Miếu Thiên Hậu Phường 7, Tp. Tân An, tỉnh Long An 
3 Miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ Phường Vĩnh Mỹ, Tp. Châu Đốc, tỉnh An Giang 
4 Miếu Thiên Hậu Thị trấn Ba Tri, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre 
5 Miếu Thiên Hậu Tiệm Tôm Chợ Tiệm Tôm, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre 
6 Hội quán Minh Hương Thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long 
7 Miếu Thiên Hậu Hòa Lộc Chợ Hòa Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long 
8 Miếu Bà Thiên Hậu Xã Vĩnh Bảo, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh 
9 Miếu Chúa Xứ - Thiên Hậu Xã Hòa Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh 
10 Miếu Bà Thiên Hậu Ấp Cá Lóc, Thị trấn Định An, Trà Cú, tỉnh Trà Vinh 
11 Miếu Bà Thiên Hậu Thị trấn Cầu Ngang, huyện Cầu Ngang, tỉnh 
Trà Vinh 
12 Miếu Thiên Hậu Huỳnh Kỳ Xã Vĩnh Hải, Thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng 
13 Miễu Bà Thiên Hậu Xã Hòa Đông, Thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng 
14 Thiên Hậu Thánh Mẫu Cung Chợ Tp. Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu 
15 Thiên Hậu Cung Xã Vĩnh Mỹ B, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu 
2. Đặc điểm miếu thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ 
Thứ nhất, tục thờ Thiên Hậu của người Việt không gắn với các thiết chế 
văn hóa - xã hội và không chủ trương tìm kiếm và gìn giữ bản sắc văn hóa 
như một số miếu Thiên Hậu của người Hoa trong vùng. Theo nghiên cứu 
của Liu Tiksang (2000), trong đa số các trường hợp, miếu thần của người 
Hoa thể hiện cách thức tổ chức xã hội theo mô thức dân sự: sự cộng gộp và 
vượt gộp của nhiều hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, hết thảy 
cùng hòa trộn vào thiết chế tâm linh. Đây vốn dĩ là một đặc trưng điển hình 
của vùng Hoa Nam. Trên thực tế, cộng đồng người Hoa ở Tây Nam Bộ 
không có một hệ thống tổ chức kết nối miếu tự theo chiều dọc, và vì thế 
mỗi miếu tự là một “trung tâm” sinh hoạt tâm linh của cư dân khu vực ấy. 
Hoạt động lễ hội gắn thiết chế tâm linh với kinh tế, xã hội, các nhóm cộng 
đồng tôn giáo các địa phương là hết sức phong phú. Trong khi đó, đại đa số 
các miếu thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ chỉ đơn thuần 
là các cơ sở tôn giáo dân gian có quy mô nhỏ, mang tính tự phát và tính 
tâm linh thuần túy mặc dù nghi lễ ở một số miếu có tổ chức theo điển chế 
Nguyễn Ngọc Thơ. Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu... 127 
của đình làng (như miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ, Tp. Châu Đốc, An Giang). 
Khách thập phương đến viếng (nếu có) đa phần vẫn là người Việt do đa 
phần các miếu này được xây dựng gần một ngôi miếu Thiên Hậu khác to 
hơn do người Hoa quản lý, có tầm ảnh hưởng lớn hơn. 
Một số miếu Thiên Hậu của người Việt lại có nhiều điểm giống với 
đình làng của người Việt Nam Bộ. Cấu trúc không gian các miếu thờ này 
đều có điểm chung là phía trước miếu có kết cấu võ ca, võ quy hoặc nhà 
tiền tế; trong chính điện có phối thờ tả hữu ban, tiền hậu vãng trong khi 
nghệ thuật trang trí rồng phượng, các họa tiết truyền thống lại hạn chế rất 
nhiều so với miếu Thiên Hậu của người Hoa. Trong các nghi thức tế lễ, 
các ngôi miếu này có áp dụng điển chế của nhà Nguyễn khi tổ chức lễ vía 
chính, theo sau đó là các hoạt động diễn xướng dân gian như hát bóng rỗi, 
hát chặp Địa Nàng hay các trò diễn xướng dân gian khác. Khác với một 
số miếu Thiên Hậu của người Hoa trong vùng có hiện tượng “nhập xác” 
đi kèm với các nghi lễ cổ xưa như “cắt lưỡi dán bùa”, “tắm dầu nóng”6, 
v.v., các miếu thờ của người Việt chỉ dừng lại ở các hoạt động diễn 
xướng hay múa bóng giúp vui cho thần thánh mà thôi. 
Thứ hai, một số miếu thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam 
Bộ vận động trên trục thờ Mẫu của người Việt ở Nam Bộ, trong đó có xu 
hướng Việt hóa và thể hiện dấu tích của Tam phủ. Tất cả đều được gọi là 
miếu hoặc miễu (Miếu Thiên Hậu, miếu Bà Thiên Hậu, miễu Bà Thiên 
Hậu, v.v.). Miếu Bà Chúa Xứ - Thiên Hậu ở ấp Đầu Bờ, xã Hòa Thuận, 
huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh là một trường hợp điển hình của hiện 
tượng “tái tổ hợp” biểu tượng Bà Thiên Hậu trong văn hóa người Việt. 
Bà Thiên Hậu được gọi là Bà Chúa Xứ (tượng thờ trong miếu là Bà 
Thiên Hậu, ngày vía chính là ngày Đản sinh Thiên Hậu, 23 tháng 3 âm 
lịch hằng năm), tức bà mẹ quê hương xứ sở, trùng khớp hoàn toàn với Bà 
Chúa Xứ Núi Sam. Trường hợp thứ hai, miếu Miếu Bà Thủy ở thị trấn 
Cái Đôi Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau bài trí tượng thờ ba vị thánh 
mẫu theo trật tự từ trái sang phải là Bà Thủy - Bà Thượng (Thiên Hậu, 
Mẹ Nam Hải) - Bà Chúa Xứ, tức ba vị thánh mẫu đại diện cho ba tầng 
không gian Nước - Trời - Đất (bộ Tam tài). Theo nghiên cứu của chúng 
tôi, Bà Thượng (Bà Thiên Hậu) giữ thế Thiên, trong khi hai vị thánh mẫu 
còn lại thì Bà Thủy giữ thế Địa, Bà Chúa Xứ giữ thế Nhân. Do nằm ở 
vùng cửa biển Cà Mau và gắn liền với nghề đi biển, ngôi miếu này gọi là 
Miếu Bà Thủy dù trung tâm miếu thờ là tượng bà Thượng (Bà Thiên Hậu) 
chứ không phải Bà Thủy7. 
128 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
Thứ ba, với đặc trưng là một nhánh nhỏ của thờ Mẫu ở Nam Bộ, việc 
thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ đã được bản địa hóa 
mạnh mẽ qua phong cách kiến trúc và mỹ thuật trang trí miếu thờ của 
người Việt, phần nào là những minh chứng quan trọng cho tính cách mở - 
thoáng của người Việt Nam Bộ trong việc thâu nạp và bản địa hóa văn hóa 
tha nhân trước khi làm phong phú thêm truyền thống văn hóa dân tộc mình. 
Tượng Thiên Hậu của người Việt nhìn chung có hai phong cách. Phong 
cách Việt thể hiện bà trong hình dáng của vị mẫu thần từ bi, phúc hậu, có 
khi luống tuổi, có khi rất trẻ trung, hoàn toàn mang tính chất dân gian. 
Phong cách thứ hai thể hiện theo kiểu quan phương, bà là một vị hoàng hậu 
trên thiên đình đầu có đội mão cung đình (phong cách triều Minh ở Trung 
Quốc). Nhóm tượng thứ hai này thường do Ban quản trị miếu (miễu) đặt 
thỉnh từ Trung Quốc hay từ cộng đồng người Hoa trong vùng về thờ. 
Nhìn chung, các miếu (miễu) Thiên Hậu do người Việt xây dựng hoàn 
toàn không theo quy cách kiến trúc của người Hoa mà phảng phất lối 
kiến trúc đình, miếu của người Việt ở Nam Bộ và ít nhiều có dấu ấn của 
kiến trúc Phương Tây. Trên đại thể có thể phân chia tổng số 15 miếu 
Thiên Hậu của người Việt thành ba phong cách chính. Dạng thứ nhất là 
loại miếu quy mô lớn có hình thức giống đình làng Nam Bộ, tiêu biểu 
như miếu Chúa Xứ - Thiên Hậu Hòa Thuận, miếu Bà Thiên Hậu Vĩnh 
Bảo (Trà Vinh), miếu Thiên Hậu Huỳnh Kỳ (Sóc Trăng), Hội quán Minh 
Hương Tp. Vĩnh Long, miếu Bà Thiên Hậu ấp Cá Lóc (Trà Vinh) và 
miếu Thiên Hậu Tiệm Tôm (Bến Tre). Các miếu này có cấu trúc không 
gian lớn, ít có họa tiết trang trí trên nóc hay mặt tiền miếu (ngoại trừ 
nhóm tứ linh và cá chép); ngược lại có võ ca, võ quy và cấu trúc bố trí 
các khám thờ, bàn thờ khá thống nhất với đình làng, bao gồm bàn thờ 
chính thờ Thiên Hậu, hai bên có phối thờ tiền - hậu hiền, tả - hữu ban và 
các chiến sĩ, thần thánh khác. 
Dạng thức thứ hai là dạng pha trộn giữa phong cách đình làng và 
kiến trúc nhà ở người Việt vùng Tây Nam Bộ. Tiêu biểu phải kể đến 
miếu Thiên Mậu Vĩnh Mỹ, Tp. Châu Đốc, tỉnh An Giang. Cấu trúc 
miếu về cơ bản là một căn nhà một gian hai mái trước sau, mặt tiền có 
ba cửa vào theo phong cách thượng song hạ bản, mái ngói âm dương 
nâu đỏ, khá đồng điệu với màu sắc tổng thể của miếu, trên gờ nóc có 
trang trí các mô típ quỳ long và chim phụng, hàng cột có bao lam hoa 
văn cung đình Huế. Nội điện miếu bao gồm không gian sinh hoạt tôn 
giáo và chính điện nằm ở cuối gian nhà. Ngoài Thiên Hậu được thờ 
Nguyễn Ngọc Thơ. Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu... 129 
phụng trên đàn cao phía trên, còn có bàn hương án thấp phía trước, hai 
bên có thờ tả - hữu ban và tiền - hậu vãng. Miếu là nơi sinh hoạt cộng 
đồng của người dân Châu Đốc, do vậy mang tính chất điển hình của 
ngôi miếu cộng đồng (communal temple) 
Dạng thứ ba là các miễu, am tự nhỏ khá phổ biến trong các vùng 
nông thôn Tây Nam Bộ, thường chỉ có một gian nhỏ hoặc đôi khi có 
thêm nhà tiền tế phía trước dùng làm nơi bái viếng. Kiến trúc nhóm 
miếu thứ ba này nhìn chung khá đơn giản, ngoại trừ miếu Thiên Hậu ở 
phường 1, Tp. Tân An (Long An) và miếu Thiên Hậu chợ Bạc Liêu có 
hoa văn trang trí trên bao lam, cột trụ. Miếu Thiên Hậu ở thị trấn Ba Tri 
(Bến Tre) gắn liền với chùa Long Đức8. Các ngôi miếu này đa phần 
mang tính chất gia miếu, dù người dân địa phương vẫn có Ban quản lý 
song tính chất khá lỏng lẻo. 
So với phong cách thờ và miếu thờ của người Việt kể trên thì tục thờ và 
miếu thờ Thiên Hậu của người Hoa Quảng Đông thể hiện tính tôn nghiêm 
trong việc tuân thủ điển chế của triều Minh, phong cách kiến trúc và mỹ 
thuật của họ mang tính quan phương; người Hoa Triều Châu mang tính 
linh hoạt trong sáng tạo và thể hiện tài năng mỹ thuật và nghệ thuật kiến 
trúc dân gian; miếu của người Hoa Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia có 
phong cách nằm giữa hai cực ấy. Các miếu (miễu) Bà của người Việt có 
phong cách kiến trúc và mỹ thuật về cơ bản theo điển chế nhà Nguyễn. 
Một số miếu thờ Thiên Hậu của người Việt kết cấu kiến trúc giống 
Phật giáo Bắc tông, tiêu biểu như miếu thờ Thiên Hậu tại thị trấn Ba Tri 
(tỉnh Bến Tre), Hội quán Minh hương Tp. Vĩnh Long, miếu Thiên Hậu 
Hòa Lộc ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long hay hiện tượng phối thờ 
Thiên Hậu trong chùa Tân Long ở Trà Vinh. Dấu hiệu thường thấy là 
miếu Thiên Hậu là một bộ phận của quần thể chùa Phật hoặc có cấu trúc 
“tiền Phật hậu Thánh”. Trong ngày vía Thiên Hậu, các miếu thờ này có 
xu hướng cúng chay, nghi lễ do các tăng ni đảm trách (tài liệu điền dã 
năm 2015). Ngoài ra, ở một số miếu, đối tượng được phối thờ tương đối 
đa dạng, từ Khổng Tử, Quan Công cho đến Quan Âm, Địa Mẫu, Bà Chúa 
Xứ, 12 bà mụ, Tả - Hữu ban, Tiền - Hậu vãng, v.v.. 
Thứ tư, nếu đem tục thờ và miếu thờ Thiên Hậu của người Việt trong 
vùng quy chiếu vào hệ thống kim tự tháp nhu cầu của Abraham Maslow 
(1908 - 1970) thì tục thờ Thiên Hậu của người Việt ở Tây Nam Bộ có 
phổ chức năng hạn chế hơn. Nếu như tục thờ Thiên Hậu của người Hoa 
trong vùng trải đều các chức năng đáp ứng: (1) Các nhu cầu thể lý (định 
130 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
cư, phát triển sự nghiệp), (2) Nhu cầu được bảo vệ, được an tâm (an sinh, 
bình an), (3) Nhu cầu được chia sẻ, được giao lưu tình cảm (kết nối 
những người đồng hương thành bang hội, do vậy nhiều miếu Thiên Hậu 
đặt làm hội quán), (4) Nhu cầu được thừa nhận, được tôn trọng (được ứng 
xử bình đẳng với các dân tộc khác) và (5) Nhu cầu được thể hiện bản sắc 
văn hóa tộc người Hoa (tính thiêng và tính thế tục) thì tục thờ này của 
người Việt đặt trọng tâm ở chức năng đáp ứng nhu cầu được bảo vệ, 
được an tâm về tâm linh và được tinh tấn trong tinh thần (chủ yếu mang 
tính thiêng). Các tín đồ đến viếng các miếu này phần nhiều là các cư dân 
trong vùng, do vậy giá trị và tầm ảnh hưởng của miếu thờ thấp, xét về 
quy mô chỉ mang tầm ảnh hưởng cơ sở (communal level) trong khi các 
miếu Thiên Hậu của người Hoa có miếu mang tầm cơ sở nếu như miếu ở 
nông thôn, có miếu đạt đến tầm ảnh hưởng khu vực (sub-regional level9) 
hay vùng (regional level10) nếu tọa lạc tại các thành phố, thị trấn, thị tứ 
hay đầu mối các trục giao thông thủy, bộ. 
3. Kết luận 
Cơ sở thờ tự Thiên Hậu người Việt ở Tây Nam Bộ, một dạng cơ sở 
của thiết chế tâm linh đơn thuần khi so sánh với hệ thống các miếu Thiên 
Hậu người Hoa vốn được đánh giá là một loại “bảo tàng” sống của những 
tri thức bản địa về kiến trúc, mỹ thuật trang trí, hội họa và điêu khắc dân 
gian, vừa mang tính mỹ thuật vừa thể hiện bản sắc văn hóa nhóm tộc 
người. Trong mối tương quan so sánh, phong cách kiến trúc và mỹ thuật 
dân gian gắn với hệ thống các miếu thờ Thiên Hậu của người Việt ở Tây 
Nam Bộ nhìn chung mang tính dân gian tự phát, tổ chức nghi lễ mang 
đậm tính thiêng (tính tôn nghiêm, uy lực và chất huyền bí của thế giới 
siêu nhân) so với hiện thực cộng sinh giữa giá trị thiêng và giá trị thế tục 
(tính gần gũi của cảnh quan và vật thể gắn với đời thường, tính thăng hoa 
của sáng tạo nghệ thuật) của hệ thống miếu thờ Thiên Hậu của người Hoa. 
Với người Việt - tộc người chủ thể ở Tây Nam Bộ, quá trình tiếp nhận 
diễn ra song hành với quá trình “lên khuôn”, “tái cấu trúc”, nhờ vậy kiến 
trúc và điêu khắc ở miếu Thiên Hậu người Việt có xu hướng Việt hóa, trở 
nên gần gũi với Phật giáo Bắc Tông (nhất là tục thờ Phật Bà Quan Âm), 
thể hiện gần giống với miếu thần hay đình làng Nam Bộ. Sau quá trình 
lịch sử lâu dài, đồng thời với xu hướng hòa nhập văn hóa, tục thờ Thiên 
Hậu của người Việt ở Tây Nam Bộ hiện có xu hướng tách biệt với truyền 
thống thờ Thiên Hậu của người Hoa và hòa nhập vào dòng chảy chính 
của thờ Mẫu của người Việt vốn rất thịnh hành ở địa phương./. 
Nguyễn Ngọc Thơ. Vài đặc điểm thờ Thiên Hậu... 131 
CHÚ THÍCH: 
1 Nguyễn Ngọc Thơ (2015), “Dấu tích tục thờ Tam phủ trong tín ngưỡng thờ 
Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ”, Văn hóa Dân gian, số 6 (162): 
24-34. 
2 Encyclopædia Britannica, Inc 1768/1985, The New Encyclopædia Britannica, 
by Encyclopædia Britannica, Inc, U.S.A: 57. 
3 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 2008: 107. 
4 Ngô Đức Thịnh (1984), “Người Khmer đồng bằng sông Cửu Long là thành viên 
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, Nghiên cứu Lịch sử, số 6: 39. 
5 Xem: Phan Thị Yến Tuyết (2014), “Tín ngưỡng thờ mẫu và nữ thần từ chiều 
kích văn hóa biển của vùng biển đảo Kiên Hải (Kiên Giang)”, Tuyển tập Việt 
Nam học, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
6 Chẳng hạn hệ thống miếu tại Cầu Kè, Trà Cú tỉnh Trà Vinh, TT. Ngan Dừa tỉnh 
Bạc Liêu, v.v.. 
7 Nguyễn Ngọc Thơ (2015), “Dấu tích tục thờ Tam phủ trong tín ngưỡng thờ 
Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ”, Văn hóa Dân gian, số 6 (162): 
24-34. 
8 Ngôi chùa được xây thêm vào năm 1967 trên cơ sở khuôn viên miếu Thiên Hậu 
có trước (tài liệu điền dã 2015). 
9 Miếu Thiên Hậu Tp. Cà Mau, miếu Thiên Hậu TX. Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng, 
miếu Thiên Hậu Tp. Trà Vinh, miếu Thiên Hậu Tp. Sa Đéc, miếu Thiên Hậu Tp. 
Vĩnh Long, v.v.. 
10 Miếu Tuệ Thành, quận 5, Tp. Hồ Chí Minh; miếu Bà Hẹ - Thiên Hậu Cung Thất 
Sơn, Tịnh Biên, An Giang. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan An (2002), “Tục thờ cúng Bà Thiên Hậu của người Hoa ở Thành phố Hồ 
Chí Minh”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 3: 54-57. 
2. Toan Ánh (1996), Tín ngưỡng Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
3. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb. Văn học, Hà Nội. 
4. Encyclopædia Britannica, Inc (1768/1985), The New Encyclopædia Britannica, 
by Encyclopædia Britannica, Inc, U.S.A. 
5. Đinh Hồng Hải (2015), “Tỳ hưu: nguồn gốc, tín ngưỡng và những biểu hiện 
trong văn hóa và xã hội Việt Nam”, Mỹ thuật ứng dụng trên đường tìm về bản 
sắc Việt, Nxb. Văn hóa Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 
6. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2006), “Những vấn đề nhân học tôn giáo”, Tạp 
chí Xưa và Nay & Nxb. Đà Nẵng. 
7. James George Frazer (2007) (Ngô Bình Lâm dịch), Cành vàng, Nxb. Văn hóa 
Thông tin & Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. 
8. Trần Hồng Liên (2005), Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ, Tín ngưỡng & Tôn giáo, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
9. Liu Tiksang (2000), Sùng bái Thiên Hậu ở Hồng Kông, Thư viện Tam Liên xuất 
bản , Hồng Kông. 
10. Bronilav Malinowski (1948), Ma thuật, khoa học và tôn giáo và một số tiểu luận 
khác [Magic, Science and Religion and Other Essay], The Free xuất bản, Illinois. 
11. Sơn Nam (2009), Đình - miễu và lễ hội dân gian, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
132 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2016 
12. Lê Thanh Sơn (2000), Hiện tượng cộng sinh văn hóa giữa tính truyền thống và 
tính hiện đại trong kiến trúc Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX), 
Luận án tiến sỹ Kiến trúc, Trường Đại học Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh. 
13. Phạm Thanh Thảo (01/12/2010), “Nghĩ về biểu tượng và văn hóa”, 
hoa/413876.html 
14. Trần Hậu Yên Thế (2015), “Nghệ thuật trang trí cổ truyền: đẹp và hơn thế nữa”, 
trong Mỹ thuật ứng dụng trên đường tìm về bản sắc Việt, Nxb. Văn hóa Văn 
nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 
15. Nguyễn Ngọc Thơ (2015), “Dấu tích tục thờ Tam phủ trong tín ngưỡng thờ 
Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ”, Văn hóa Dân gian, số 6 (162): 
24-34. 
16. Tsai Maw Kuey (1968), Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục. 
17. Trương Cẩm Tú (2012), Miếu thờ của người Hoa ở Biên Hòa – Đồng Nai dưới góc 
nhìn văn hóa học - Trường hợp Thất phủ cô miếu - Chùa Ông, Luận văn thạc sỹ Văn 
hóa học, Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
18. Phan Thị Yến Tuyết (2014), “Tín ngưỡng thờ mẫu và nữ thần từ chiều kích văn 
hóa biển của vùng biển đảo Kiên Hải (Kiên Giang)”, Tuyển tập Việt Nam học, 
Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
19. Tư liệu điền dã được thu thập ở vùng Tây Nam Bộ trong các năm 2013, 2014, 
2015. 
Abstract 
SOME CHARACTERISTICS OF THE CULT OF MAZU 
GODDESS IN THE SOUTHWEST OF VIETNAM 
In the mind of the Vietnamese, each god or deity has his/her “duty” 
and power. The various gods and deities relate to different aspects of the 
human life, such as the Lady of the Realm (Bà Chúa Xứ) governs the 
land, the Mother Goddess of Water (Bà Thủy) governs the water, 
Avalokitesvara Bodhisattva saves the unfortunate, the Mazu Goddess (Bà 
Thiên Hậu) both takes care of the sea and blesses all people, etc. Ethnics 
in Vietnam worship various gods and deities with the hope that their 
prayers are heard and responded. The Chinese cult of the Mazu Goddess 
was absorbed by the Vietnamese in the Southwest in the process of co-
existence. Consequently, a part of the Vietnamese built shrines for Mazu 
Goddess and carried out cultic activities. This article generalizes some 
features of shrines for Mazu Goddess in the Southwest of Vietnam. 
Keywords: Characteristics, shrine, Southwest, Mazu Goddess, 
Vietnamese. 

File đính kèm:

  • pdfvai_dac_diem_tho_thien_hau_cua_nguoi_viet_vung_tay_nam_bo.pdf