Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học cần một triết lí về đào tạo

TÓM TẮT

Sự kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 thông qua Nghị quyết Đổi mới căn bản và toàn

diện nền giáo dục và đào tạo có ý nghĩa rất quan trọng, đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà

hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Dưới góc độ đổi mới quá trình đào tạo thì cần

phải có một triết lý về đào tạo ph hợp trong giai đoạn hiện nay. Bài viết này chúng tôi

giới thiệu một triết lý đào tạo hiện đang được nhiều nước tiên tiến áp dụng, đó là Triết lý

đào tạo theo năng lực thực hiện (Competency-Based Training: CBT).

pdf 5 trang yennguyen 4160
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học cần một triết lí về đào tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học cần một triết lí về đào tạo

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học cần một triết lí về đào tạo
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 – Thaùng 2/2014 
54 
ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 
CẦN MỘT TRIẾT LÍ VỀ ĐÀO TẠO 
TRỊNH XUÂN THU(*) 
TÓM TẮT 
Sự kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 thông qua Nghị quyết Đổi mới căn bản và toàn 
diện nền giáo dục và đào tạo có ý nghĩa rất quan trọng, đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà 
hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Dưới góc độ đổi mới quá trình đào tạo thì cần 
phải có một triết lý về đào tạo ph hợp trong giai đoạn hiện nay. Bài viết này chúng tôi 
giới thiệu một triết lý đào tạo hiện đang được nhiều nước tiên tiến áp dụng, đó là Triết lý 
đào tạo theo năng lực thực hiện (Competency-Based Training: CBT). 
Từ khoá: Triết lí đào tạo, năng lực thực hiện, phương pháp dạy học, chương trình đào tạo. 
ABSTRACT 
The fact that the Central Conference 8 has approved the Resolution- to radically and 
comprehensively innovate the education and training - is very important, which enables 
the education to reach the international integration in order to meet the requirements of 
the innovation. From the innovation perspectives, the training process should have the 
training philosophy which is appropriate in the current period. In this article, we would 
like to introduce the training philosophy which has been applied in many developed 
countries. It is the Competency-Based Training: CBT". 
Key words: education philosophy, performing ability, teaching method, training program 
1. Sự kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 
thông qua Nghị quyết Đổi mới căn bản và 
toàn diện giáo dục và đào tạo có ý nghĩa 
rất quan trọng, đưa sự nghiệp giáo dục 
nước nhà hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu 
cầu đổi mới: “Phải tạo cho được chuyển 
biến căn bản về chất lượng và hiệu quả 
giáo dục – đào tạo” [1]. Từ tinh thần Nghị 
quyết 8, dưới góc độ đổi mới quá trình 
đào tạo, cần có một triết lí về đào tạo phù 
hợp trong giai đoạn hiện nay. Bài viết này 
giới thiệu một triết lí đào tạo hiện đang 
được nhiều nước tiên tiến áp dụng, đó là 
“Triết lí đào tạo theo năng lực thực hiện” 
(Competency-Based Training: CBT). Đây 
là phương thức đào tạo mới được đánh giá 
có nhiều ưu điểm như chú trọng đến kĩ 
năng, đào tạo phù hợp với thực tiễn và đáp 
ứng yêu cầu xã hội Ưu thế của đào tạo 
theo năng lực thực hiện (NLTH): Chú 
trọng vào kết quả đầu ra/ chuẩn đầu ra 
(Outcomes), vào sự thực hiện trong quá 
trình đào tạo. Nhiều nước phát triển đã áp 
dụng phương thức này như: Úc, Canada, 
Anh, New Zealand, Scotland, USA ...Tại 
nước ta từ những năm 1994 đã có nhiều 
khóa đào tạo kĩ năng giảng dạy theo NLTH 
do dự án Tăng cường các Trung tâm dạy 
nghề SVTC (Thụy Sỹ) triển khai [2]. 
2. TRIẾT LÍ VỀ ĐÀO TẠO THEO NĂNG LỰC 
THỰC HI N 
“Đào tạo theo NLTH” đã xuất hiện từ 
khoảng nửa thế kỷ trước, mô tả một phương 
thức đào tạo mới khác với phương thức đào 
tạo truyền thống, dựa vào những tiêu chuẩn 
quy định cho một nghề và đào tạo theo các 
tiêu chuẩn đó không dựa vào thời gian. Nó 
được đánh giá có nhiều ưu điểm, phù hợp 
với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu xã hội. 
Trong đào tạo theo NLTH, các tiêu chuẩn 
dựa trên kết quả hay đầu ra (chính là các kĩ 
năng / công việc của một ngành đào tạo), 
(*)
 TS.GVC, Trường Đại học Sài Gòn 
55 
được sử dụng làm cơ sở để thiết kế xây 
dựng chương trình đào tạo, lập kế hoạch, 
thực hiện và đánh giá quá trình cũng như 
kết quả học tập [3], [4]. 
2.1. Triết lí này dựa trên các nguyên tắc cơ 
bản của John B.Carroll, James H.Block và 
Benjamin S.Bloom đặt yếu tố “con người” 
làm nền tảng trong đào tạo, đó là “Học 
thông thạo”(Mastery Learning). Nó tạo nên 
sự khác biệt giữa đào tạo theo NLTH và 
đào tạo theo truyền thống: “Đa số những 
người học có trí tuệ phát triển bình thường 
đều có thể học được cái gì đó đến mức độ 
nắm vững hay thông thạo với hai điều kiện 
có tính chất quyết định là: 
* Người học có đủ thời gian (thời gian 
học khác nhau đối với từng người và phải 
được tạo điều kiện học tùy theo khả năng 
của mỗi người). 
* Người dạy có sự hướng dẫn tốt và có 
phương pháp thích hợp với người học [4], 
[5,tr.11-16]. 
Cơ sở này định hướng cho người dạy 
và người học phải năng động cải tiến cách 
dạy, cách học sao cho phù hợp để giúp 
người học thành công trong việc học thông 
thạo các nội dung học tập. Có thể xem đây 
là cơ sở định hướng cho việc đổi mới quá 
trình đào tạo: đổi mới thiết kế nội dung 
chương trình đào tạo (CTĐT), cấu trúc nội 
dung và thời lượng để người học có thể học 
tùy theo khả năng của mình; đổi mới 
phương pháp dạy học (PPDH); đổi mới 
kiểm tra đánh giá theo NLTH. 
Trong các nguyên tắc của triết lí đào 
tạo theo NLTH thì nguyên tắc số 1 được 
xem là nền tảng triết lí “Học thông thạo” 
và nguyên tắc số 7 được xem là cốt lõi. 
- Nguyên tắc 1: Mỗi người học đều 
có thể làm thành thạo hầu như bất kỳ công 
việc nào với trình độ cao, nếu được dạy với 
chất lượng cao và được bố trí đủ thời gian. 
Nguyên tắc này là nền tảng của triết lí “học 
thông thạo”. Như vậy để đổi mới giáo dục 
đại học cần phải thiết kế CTĐT hiện đại, 
mang tính trọn vẹn và liên thông để người 
học có thể học bất kỳ thời gian nào thích 
hợp. 
- Nguyên tắc 7: Nội dung và chất 
lượng giảng dạy là yếu tố quan trọng nhất 
trong quá trình dạy và học. Có thể xem đây 
là nguyên tắc cốt lõi của dạy và học theo 
quan điểm học thông thạo, như vậy yêu 
cầu nội dung chương trình phải được thiết 
kế năng động, thường xuyên biến đổi phù 
hợp với người học, đáp ứng yêu cầu của xã 
hội. Việc thiết kế giảng dạy, tài liệu giảng 
dạy, các phương pháp dạy học và các hoạt 
động dạy học phải được xây dựng trên 
quan điểm “lấy người học làm trung tâm”. 
Các nguyên tắc còn lại được xem là cơ 
sở để thiết kế quá trình dạy và học trên 
quan điểm “lấy người học làm trung tâm”: 
- Nguyên tắc 2: Không thể dựa vào 
năng lực học tập của người học để tiên 
đoán kết quả của họ. Có thể hiểu năng lực 
của người học chỉ là cơ sở để dự đoán cần 
học bao lâu chứ không phải học được bao 
nhiêu và học ra sao. Thời gian cho người 
học cần phải đủ và họ phải được chủ động. 
- Nguyên tắc 3: Sự khác biệt trình độ 
thành thạo giữa người học, trước hết là do 
sai sót trong môi trường đào tạo chứ không 
phải do đặc điểm của người học. Như vậy, 
nếu có sự tiếp thu khác biệt nhau giữa 
người học, thì cần phải xem lại các yếu tố 
khác như PPDH, phương tiện dạy học 
- Nguyên tắc 4: Dù là người học 
nhanh hay chậm, học khá hay kém thì đa 
số người học đều có khả năng học tập rất 
giống nhau khi họ được tạo điều kiện học 
tập thuận lợi. Như vậy cần tập trung nỗ lực 
vào việc phát triển, điều chỉnh nội dung 
chương trình và cách thức đào tạo nhằm 
tạo thuận lợi phù hợp với người học và đáp 
ứng yêu cầu của xã hội. 
- Nguyên tắc 5: Cần tập trung vào sự 
khác nhau trong học tập hơn là chú ý đến 
sự khác biệt giữa người học. Như vậy 
chúng ta cần phải xem lại quá trình giảng 
56 
dạy là nguồn gốc vấn đề chứ không dựa 
vào sự khác biệt giữa người học để lí giải 
vấn đề. 
- Nguyên tắc 6: Nội dung nào cần 
học thì cần phải dạy tốt. Có thể hiểu nội 
dung CTĐT cần phải được thiết kế dựa 
trên nhu cầu thực tiễn của người học và 
yêu cầu của xã hội, cần phải phân tích nghề 
theo NLTH để xác định nội dung học tập 
không thừa, không thiếu. 
Tóm lại, theo triết lí “học thông thạo”, sự 
chênh lệch khả năng học tập của mỗi người 
chủ yếu được giải thích do thiếu thời gian, 
chứ không phải là do thiếu khả năng của họ. 
Như vậy, cần cấu trúc nội dung chương trình 
học theo các mô đun/ học phần, thời lượng 
theo học chế tín chỉ để người học chọn lựa. 
Việc dạy và học cần chú ý đến nội dung 
chương trình cần học, phải được xây dựng 
trên cơ sở phân tích nghề để tìm ra các nội 
dung này. Thời gian là nguồn lực cần thiết 
cho việc học tập, sự thành thạo là kết quả nỗ 
lực của mỗi cá nhân [6]. 
2.2. Mô hình đổi mới quá trình dạy học 
theo tiếp cận NLTH 
Muốn đổi mới nâng cao chất lượng 
giáo dục & đào tạo theo NLTH, cần phải 
xem xét tổng thể quá trình dạy học với sáu 
thành tố cơ bản: mục tiêu, nội dung, 
phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh 
giá. Các thành tố này tương tác với nhau, 
tạo thành một chỉnh thể nhằm đảm bảo 
chất lượng của quá trình dạy học. Trong 
đó, mối quan hệ giữa mục tiêu, nội dung và 
phương pháp là cơ bản nhất, tạo nên “Tam 
giác sư phạm . Phương pháp dạy học 
(PPDH) một mặt phải phù hợp với mục 
tiêu, nội dung dạy học, mặt khác PPDH lại 
có ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện 
nội dung và mục tiêu dạy học [7], [8]. Như 
vậy để đổi mới giáo dục đại học nhằm 
nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo theo 
tiếp cận NLTH, cần thiết phải đổi mới 
đồng thời cả 6 thành tố nói trên. Có thể đưa 
ra mô hình đổi mới quá trình dạy học theo 
NLTH như sau: Hình 1 
Hình 1. ô hình đổi mới quá trình dạy học theo NLTH 
NỘI DUNG MÔN 
HỌC 
theo NLTH 
MỤC TIÊU 
MÔN HỌC 
theo tiêu chuẩn 
đầu ra 
KIỂM TRA & 
ĐÁNH GIÁ 
theo tiêu chuẩn 
của NLTH 
PHƯƠNG TIỆN 
DẠY HỌC 
PHƯƠNG PHÁP 
DẠY HỌC 
(giảng dạy tương 
tác) 
TỔ CHỨC CÁC 
HOẠT ĐỘNG DẠY 
HỌC 
ĐÀO TẠO THEO 
NLTH 
1 
2 
3 
57 
Từ mô hình, chúng ta có thể tập trung 
vào ba lĩnh vực quan trọng có tác động đến 
toàn bộ quá trình dạy học theo NLTH: 
1. Xây dựng nội dung chương trình 
đào tạo (CTĐT), xuất phát từ mục tiêu dạy 
học theo NLTH. 
2. Đổi mới PPDH theo NLTH, trong 
đó PPDH tác động trực tiếp vào hình thức 
tổ chức các hoạt động dạy học và phương 
tiện dạy học. 
3. Đổi mới cách kiểm tra và đánh giá 
theo NLTH 
Xây dựng chương trình đào tạo theo 
NLTH 
a) Xây dựng chương trình đào tạo theo 
NLTH 
Quá trình dạy học được khởi đầu từ 
việc xây dựng CTĐT trong đó xuất phát từ 
mục tiêu dạy học. Môn học/ học phần được 
cấu trúc từ chương trình khung (CTK) vì 
vậy CTK phải xuất phát từ việc phân tích 
nghề theo NLTH. 
b) Cấu trúc chương trình thành các học 
phần theo hệ thống tín chỉ 
Cấu trúc của CTĐT theo NLTH được 
chia thành các khoá học (môđun), hay học 
phần như qui chế đào tạo theo hệ thống tín 
chỉ, để người học có thể lựa chọn theo yêu 
cầu, tạo điều kiện cho người học lựa chọn 
các khoá học phù hợp với khả năng của 
bản thân, điều này phù hợp với đào tạo 
theo hệ thống tín chỉ [6]. Tuy nhiên cần ưu 
tiên thiết kế các học phần theo hướng giúp 
người học dễ dàng lựa chọn không bị ràng 
buộc như: 
- Thiết kế đa số các học phần có cấu 
trúc phân nhánh để người học có thể lựa 
chọn tùy hoàn cảnh cụ thể, có thể rút ngắn 
thời gian đào tạo. 
- Thiết kế kiểu hỗn hợp, vừa nối tiếp 
vừa phân nhánh. 
Đổi mới phương pháp dạy học theo 
NLTH 
PPDH là một trong 6 thành tố cơ bản 
của quá trình dạy học (mục tiêu, nội dung, 
phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh 
giá). Để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy 
học, cần thiết phải đổi mới đồng thời cả 6 
thành tố nói trên. Trong đó, đổi mới PPDH 
giữ vị trí quan trọng vì nó tác động trực 
tiếp tới việc nâng cao chất lượng dạy học. 
PPDH có tác động tương quan mật thiết 
đến hình thức tổ chức các hoạt động dạy 
học và phương tiện dạy học [7], [8]. Dạy 
học theo NLTH phải trên quan điểm “lấy 
người học làm trung tâm” do đó các hoạt 
động dạy học và sử dụng PPDH phải trên 
cơ sở người học được chủ động tham gia 
như các hoạt động: sắm vai, thảo luận 
nhóm, cặp đôi, bài tập nhóm, trình diễn 
Sử dụng các PPDH có tương tác với người 
học như: vấn đáp, trực quan, thực hành, 
nêu vấn đề. 
Kiểm tra – đánh giá theo NLTH 
Việc kiểm tra đánh giá phải dựa trên 
các tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng cụ thể của 
từng kĩ năng, công việc có thể quan sát 
được. Chúng phải được xây dựng trên kết 
quả đạt được, chuẩn đầu ra; dựa trên phân 
tích nghề và các yêu cầu trong công 
nghiệp. Các phiếu đánh giá phải được thiết 
kế trình bày đơn giản và khoa học, phải 
đánh giá được mức độ hoàn thành và mức 
độ năng lực của mỗi người sau khi học. 
Các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá phải được 
công bố trước khi thực hiện để người học 
định hướng cùng với mục tiêu bài học. Đây 
chính là điểm khác biệt có ý nghĩa so với 
đào tạo theo truyền thống. 
3. KẾT LUẬN 
Trước yêu cầu đổi mới giáo dục đại 
học theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 
8, Khóa XI cùng với sự phát triển của khoa 
học kĩ thuật và công nghệ, đổi mới giáo 
dục & đào tạo là cấp thiết; đặt các nhà 
nghiên cứu giáo dục trước những câu hỏi: 
đổi mới giáo dục đại học như thế nào để 
phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu 
của xã hội? phải xuất phát từ đâu?... Triết lí 
về đào tạo theo NLTH là một định hướng 
cụ thể, tích cực và hiệu quả được nhìn nhận 
dưới nhiều góc độ và là xu hướng phát 
58 
triển hiện nay. Trên cơ sở triết lí này sẽ 
giúp các nhà nghiên cứu giáo dục chỉ ra 
các phương cách để thực hiện đổi mới quá 
trình đào tạo như: xây dựng mục tiêu đào 
tạo như thế nào cho phù hợp với người 
học, đáp ứng yêu cầu của xã hội (nên dùng 
phương pháp phân tích nghề). Từ mục tiêu 
đào tạo thì phát triển chương trình đào tạo 
như thế nào (nên dùng phương pháp 
DACUM: Develop A Curriculum). Cấu 
trúc CTĐT như thế nào? từ đó có thể 
vận dụng vào thực tiễn cho tiến trình đổi 
mới giáo dục đại học tại nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 (2013), Đổi mới căn 
bản, toàn diện giáo dục & đào tạo, Nghị quyết số 29-NQ/TW,Hà Nội. 
2. Phan Chính Thức (2004), Sổ tay về thiết kế và tổ chức khóa tập huấn kĩ năng giảng dạy, 
Tổng cục dạy nghề & SVTC, Hà Nội. 
3. Nguyễn Đức Trí (1996), Tiếp cận đào tạo nghề dựa trên năng lực thực hiện và việc xây 
dựng tiêu chuẩn nghề, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ B93-38-24 (1996),Viện nghiên 
cứu Phát triển giáo dục, Hà Nội. 
4. Collum John (2002), Overview of Competency Based Training, Concept card, (18.5.94 
v2 030 & 20.5.94 v3 032 & 18.5.94 v1 031), Swisscontact. 
5. Blank W.E. (1982), Handbook for Developing Competency-Based Training Programs. 
Prentice-Hall, Inc. Englewood Cliffs, New Jersey 07632. 
6. Trịnh Xuân Thu (2012), “Đào tạo theo NLTH – Cơ sở cấu trúc học phần Rèn luyện 
nghiệp vụ sư phạm theo học chế tín chỉ”, Tạp chí Giáo dục, (278), trang 28 – 30 . 
7. Nguyễn Văn Tuấn chủ biên (2007), Giáo trình phương pháp giảng dạy, trường ĐH 
SPKT Tp.HCM. 
8. Viện Nghiên cứu PTGDCN (2005), Những định hướng đổi mới phương pháp dạy học, 
tài liệu bồi dưỡng phương pháp giảng dạy cho giáo viên hạt nhân VTEP, Tổng cục Dạy 
nghề, Bộ LĐTB&XH. 
* Ngày nhận bài: 11/1 2014. Biên tập xong: 20/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014.

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_can_ban_toan_dien_giao_duc_dai_hoc_can_mot_triet_li.pdf