Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận yêu cầu người sử dụng lao động trong xu thế phát triển giáo dục đại học

TÓM TẮT

Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực.

Theo xu hướng phát triển giáo dục, chương trình đào tạo phải gắn kết chặt chẽ với yêu cầu

tuyển dụng của thị trường lao động là một quy luật tất yếu. Để có thể tạo ra nguồn nhân

lực phù hợp với yêu cầu tuyển dụng của thị trường lao động thì việc xem xét và điều chỉnh

nội dung chương trình đào tạo theo yêu cầu tuyển dụng là điều cần thiết. Vì vậy có thể nói

yêu cầu của nhà tuyển dụng lao động đã phần nào tác động lên việc thay đổi chương trình

đào tạo.

pdf 10 trang yennguyen 3980
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận yêu cầu người sử dụng lao động trong xu thế phát triển giáo dục đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận yêu cầu người sử dụng lao động trong xu thế phát triển giáo dục đại học

Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận yêu cầu người sử dụng lao động trong xu thế phát triển giáo dục đại học
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 
47 
ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO 
TIẾP CẬN YÊU CẦU NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG 
TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 
LÊ CHI LAN 
(*) 
TÓM TẮT 
Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực. 
Theo xu hướng phát triển giáo dục, chương trình đào tạo phải gắn kết chặt chẽ với yêu cầu 
tuyển dụng của thị trường lao động là một quy luật tất yếu. Để có thể tạo ra nguồn nhân 
lực phù hợp với yêu cầu tuyển dụng của thị trường lao động thì việc xem xét và điều chỉnh 
nội dung chương trình đào tạo theo yêu cầu tuyển dụng là điều cần thiết. Vì vậy có thể nói 
yêu cầu của nhà tuyển dụng lao động đã phần nào tác động lên việc thay đổi chương trình 
đào tạo. 
Từ khoá: đổi mới chương trình đào tạo, phát triển giáo dục, người sử dụng lao động 
ABSTRACT 
Education plays a very important role in training and supplying human resources. 
According to the trends of higher education development, it is necessary that the 
curriculum must be closely linked with the requirements of the labour market. In order to 
be able to provide human resources in accordance with the requirements of the labour 
market, it is necessary to revise and adjust the content of the training program. Therefore, 
the requirements of employers have certain impacts on curriculum innovation. 
Keywords: curriculum innovation, education development, employers 
1. MỞ ĐẦU* 
Hiện nay ngành giáo dục đang quan tâm 
đến vấn đề “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. 
Tác giả Phùng Hữu Phú (2014) đã nêu “Sự 
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa 
học, kĩ thuật công nghệ vừa là sản phẩm trí 
tuệ của nhân loại, vừa nâng cao khả năng 
sáng tạo của con người. Khối lượng tri thức 
được tạo ra ngày càng lớn và đa dạng và 
luôn mang tính mới mẻ. Trước thực tế đó, 
con người buộc phải thay đổi phương thức 
nắm bắt tri thức, chuyển từ nắm bắt tri thức 
cụ thể sang trau đồi phương pháp tiếp cận, 
sàng lọc, vận dụng và sáng tạo tri thức” 
[6, tr.2]. 
(*)
ThS.NCS, Trường Đại học Sài Gòn. 
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện 
nay, nếu nhân lực được đào tạo ra không 
đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng 
lao động (NSDLĐ) cả về số lượng và chất 
lượng thì sẽ dẫn đến lãng phí rất lớn về 
nguồn nhân lực và tài lực. Bên cạnh đó, nếu 
các cơ sở giáo dục không nghiên cứu kĩ các 
yêu cầu của NSDLĐ, đào tạo một cách chủ 
quan thì việc đánh giá chất lượng của 
trường đại học sẽ khó thực hiện. Chất lượng 
giáo dục không thể thay đổi trong phút chốc 
mà cần cả một quá trình, thay đổi dần “từ 
gốc đến ngọn”. Bài viết này chúng tôi sẽ 
trình bày một trong những phương pháp đổi 
mới giáo dục và đào tạo là “Tiếp cận yêu 
cầu của NSDLĐ”, qua đó đề xuất mô hình 
 48 
gắn kết đào tạo với yêu cầu của NSDLĐ. 
2. YÊU CẦU CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG 
LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI SINH VIÊN 
TỐT NGHIỆP 
Trong những năm gần đây, có xu 
hướng tăng lên tình trạng sinh viên tốt 
nghiệp (SVTN) ở các trường đại học, cao 
đẳng không tìm được việc làm hoặc làm 
việc không phù hợp với chuyên môn đào 
tạo. Theo số liệu khảo sát của dự án Giáo 
dục đại học về việc làm cho SVTN, trong 
khoảng 200.000 sinh viên ra trường hàng 
năm chỉ có 45% - 62% sinh viên tìm được 
việc làm sau khi tốt nghiệp, trong đó chỉ có 
30% là làm đúng ngành nghề đào tạo. 
Trong khi SVTN không có việc làm thì các 
doanh nghiệp lại thiếu lao động một cách 
trầm trọng cả về số lượng và chất lượng. 
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 
năm 2007 có khoảng 260.000 doanh 
nghiệp đang hoạt động theo Luật Doanh 
nghiệp, trong đó số lượng các doanh 
nghiệp mới thành lập năm 2007 khoảng 
50.000 doanh nghiệp, năm 2008 sẽ thêm 
52.000 doanh nghiệp, nên nhu cầu lao động 
của các doanh nghiệp là rất lớn. Theo Bộ 
Lao động - Thương binh và Xã hội, dự 
kiến đến năm 2010, Việt Nam sẽ có 
500.000 doanh nghiệp, tạo thêm 2,7 triệu 
chỗ làm mới cho người lao động [8, tr.77]. 
Hiện nay, SVTN đại học ra trường rất 
khó kiếm được việc làm phù hợp với 
chuyên ngành mà họ đã được đào tạo. Theo 
nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học 
Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà 
Nội), hơn 60% sinh viên ra trường thất 
nghiệp và hơn 70% làm việc trái với ngành 
đào tạo. Báo Tuối trẻ ngày 26/12/2013 đã 
dẫn lời của Bà Nguyễn Th Xuân Mai, vụ 
trưởng Vụ thống kê dân số và lao động cho 
biết: “Năm 2010, người có trình độ đại học 
từ độ tuổi 21 – 29 thất nghiệp khoảng 
60.000 người (chiếm 6,84%), nhưng đến 
năm 2013, số thất nghiệp có trình độ đại học 
ở độ tuổi dưới 30 tuổi đã tăng thành 101.000 
người (chiếm 9.89%), riêng quý 3 năm 
2013, tỉ lệ này tăng lên mức 11.75%” 
[5, tr.134-139]. 
GDĐH được xem là một công cụ hiệu 
quả để tăng cường khả năng làm việc của 
SVTN vì vậy muốn tăng cường chất lượng 
đào tạo thì các cơ sở giáo dục cần phải tăng 
cường khả năng làm việc của SVTN 
(G. Mason, Williams, G & Crammer, 2006). 
Mặt khác, một số nghiên cứu tại Việt Nam 
đã chỉ ra rằng, thực trạng chương trình đào 
tạo (CTĐT) của một số CSĐT tại Việt Nam 
quá nặng nề về lí thuyết và mang tính hàn 
lâm, thực hành thực tiễn rất ít. Tình trạng 
này dẫn đến người học phải học rất nhiều 
trong quá trình đào tạo, nhưng khi va chạm 
thực tiễn thì khả năng xử lí công việc kém. 
Thực tế có nhiều môn học người học và nhà 
quản lí không biết học để làm gì. Sự tương 
ứng giữa lí thuyết và ứng dụng thực tế là 
vấn đề rất quan trọng, vì vậy khi thiết kế 
CTĐT nhà trường cần phải tìm hiểu yêu cầu 
của NSDLĐ để thiết kế các môn học và chỉ 
rõ môn học này đáp ứng kĩ năng nào, thời 
gian cần thiết để có thể hình thành kiến thức 
và kĩ năng trên là bao nhiêu lâu [1, tr.1-3]. 
Trong 20 năm đổi mới giáo dục vừa 
qua, GDĐH đã có sự phát triển rõ rệt về quy 
mô, mục tiêu đào tạo được mở rộng và 
nguồn đầu tư được đa dạng hóa. Tuy nhiên, 
đổi mới giáo dục chưa mang tính hệ thống 
và cơ bản, kết quả đổi mới giáo dục chưa 
toàn diện và vững chắc. GDĐH còn tồn tại 
những bất cập chưa đáp ứng được sự đòi hỏi 
và phát triển của xã hội, một trong những 
yếu tố tạo ra sự bất cập trên là đào tạo ít gắn 
với yêu cầu sử dụng [2, tr.1-6]. Mặc dù Bộ 
GDĐT đã yêu cầu các trường đại học, cao 
đẳng xây dựng và công bố chuẩn năng lực 
 49 
của SVTN (chuẩn đầu ra), tuy nhiên chất 
lượng đào tạo còn thấp chưa đáp ứng được 
kì vọng và nhu cầu xã hội. Một số nghiên 
cứu đã chỉ ra rằng phần lớn SVTN chỉ có 
khoảng 60% làm việc phù hợp với ngành 
đào tạo. Chất lượng SVTN chưa đáp ứng 
được yêu cầu của NSDLĐ chiếm tỉ lệ 74%, 
phần lớn SVTN khi nhận công việc tại các 
doanh nghiệp đều phải đào tạo lại. Việc đào 
tạo cần gắn với thực tế theo xu hướng chung 
của thế giới, vấn đề đặt ra cần đào tạo phù 
hợp với nhu cầu của th trường lao động của 
Việt Nam. Sự công nhận của NSDLĐ là 
minh chứng tốt nhất thể hiện chất lượng đào 
tạo đạt chuẩn [3, tr.9-11]. 
CTĐT giữ vai trò then chốt trong hoạt 
động đào tạo. Chất lượng đào tạo là kết quả 
của quá trình đào tạo được thể hiện qua 
chất lượng SVTN, mà quá trình đào tạo 
phụ thuộc rất nhiều vào CTĐT. CTĐT là 
sản phẩm của thời đại, vì CTĐT là một 
công cụ để tạo ra nguồn nhân lực phục vụ 
cho thời đại, nó vừa là thước đo trình độ 
phát triển của giáo dục trong thời đại mà 
nó phục vụ, vừa là công cụ góp phần tạo 
nên chất lượng nguồn nhân lực. Theo yêu 
cầu của NSDLĐ, SVTN cần có đầy đủ kiến 
thức, kĩ năng, phẩm chất đạo đức và kinh 
nghiệm thực tiễn. 
+ Kiến thức chuyên môn phải qua quá 
trình thực hành/ thực tập thường xuyên trở 
thành kĩ năng chuyên môn. Bên cạnh đó, kĩ 
năng mềm như làm việc nhóm, giao tiếp 
cũng là điều cần thiết đối với SVTN. 
+ Hầu hết khi tuyển dụng SVTN các 
nhà doanh nghiệp điều đòi hỏi yếu tố phẩm 
chất đạo đức. Vì vậy, SVTN cần phải được 
rèn luyện thêm phẩm chất đạo đức như: 
tính kỉ luật, trách nhiệm trong công việc. 
+ Ngoài ra động lực/động cơ đóng vai 
trò quan trọng để hình thành nên kinh 
nghiệm thực tiễn, cụ thể đối với người có 
phẩm chất ham học hỏi + động lực làm 
việc sẽ dễ dàng tích lũy những kinh nghiệm 
cho bản thân. 
+ Bên cạnh đó, SVTN đã được trang b 
kiến thức ở nhà trường cần tiếp cận thực tế 
để biến kiến thức thành kinh nghiệm thực 
tiễn. 
Hình 1. Các yêu cầu chung của người sử dụng lao động đối với sinh viên tốt nghiệp 
50 
Mặt khác, kiến thức môn học cụ thể 
mà sinh viên học ở trường đại học không 
phải là yếu tố quyết đ nh chính cho sự phù 
hợp việc làm trong tuyển dụng lao động. 
NSDLĐ mong muốn tuyển dụng SVTN 
ngoài kiến thức ngành, họ còn có những 
năng lực cá nhân riêng như: tìm hiểu và 
giải quyết vấn đề, năng lực tự học; năng 
lực thích ứng Theo yêu cầu của NSDLĐ, 
SVTN cần có đầy đủ kiến thức, kĩ năng, 
phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm thực 
tiễn. 
Năng lực có thể được xem như là khả 
năng tiếp nhận và vận dụng tổng hợp, có 
hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri 
thức, kĩ năng, thái độ, thể lực, niềm tin..) 
để thực hiện công việc hoặc đối phó với 
một tình huống, trạng thái nào đó trong 
cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Năng 
lực không có sẵn trong mỗi chúng ta mà nó 
hình thành nhờ sự học hỏi và tập luyện. 
Yếu tố rất quan trọng để con người có năng 
lực nào đó là ý thức vươn lên. 
Có nhiều cách phân loại năng lực khác 
nhau trong đó 2 loại chủ yếu sau: 
- Năng lực chung (Key Competency): 
Là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc 
cốt lõi, làm nền tảng cho mọi hoạt động 
của con người trong cuộc sống và lao động 
nghề nghiệp như năng lực nhận thức, năng 
lực trí tuệ, năng lực về ngôn ngữ và tính 
toán; năng lực giao tiếp, năng lực vận 
động Các năng lực này được hình thành 
và phát triển dựa trên bản năng di truyền 
của con người, quá trình giáo dục và trải 
nghiệm trong cuộc sống. 
- Năng lực chuyên biệt (Domain-Specific 
Competencies): Là những năng lực riêng 
được hình thành và phát triển trên cơ sở 
năng lực chung theo đ nh hướng chuyên 
sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt 
động, công việc hoặc tình huống, môi 
trường đặc thù. Ví dụ như năng lực nhận 
dạng nhanh được hình thành trên cơ sở các 
năng lực chung về th giác, phán đoán, so 
sánh và các phẩm chất, năng khiếu 
chuyên biệt. 
Dưới góc độ giáo dục học, chúng ta có thể 
xem xét năng lực là kết quả của quá trình 
giáo dục, rèn luyện của cá nhân, thể hiện ở 
những kiến thức, kĩ năng và thái độ phù 
hợp để cá nhân có thể tham gia hiệu quả 
vào một lĩnh vực hoạt động nhất đ nh. Như 
vậy, ở góc độ này, người có năng lực ở lĩnh 
vực nào thì nhất đ nh phải có tri thức kĩ 
năng kĩ xảo trong lĩnh vực ấy, có thái độ 
tích cực để vận dụng tri thức kĩ năng hiệu 
quả vào các hoạt động. Tuy nhiên có tri 
thức, kĩ năng chưa thể khẳng đ nh cá nhân 
có phát huy được năng lực hay không, bởi 
tri thức kĩ năng ấy chưa chắc đã được hiện 
thực hóa trong hoạt động. 
 Tiếp cận thế kỉ XXI, SVTN cần một 
số thuộc tính cá nhân và năng lực để có thể 
vượt ra các khuôn khổ cho phép, để có thể 
tự hoàn thiện bản thân qua việc học tập 
suốt đời. Vì vậy chúng tôi đề ngh mô hình 
năng lực cốt lõi cho SVTN như sau: 
51 
Hình 2. Mô hình năng lực cốt lõi đối với sinh viên tốt nghiệp 
Trong thực tế, nhiều SVTN có kiến 
thức, kĩ năng được đào tạo, tuy nhiên khi 
tiếp xúc công việc không mang lại hiệu quả 
là do năng lực cá nhân còn b hạn chế. Mô 
hình năng lực cốt lõi của SVTN (Hình 2) 
cho thấy rằng mỗi người đều có một ít 
năng lực của bản thân (vùng A), qua quá 
trình học tập sẽ giúp bản thân cá nhân đó 
phát huy thêm (vùng B) và năng lực cá 
nhân sẽ được phát triển mạnh khi tiếp xúc 
môi trường làm việc trong xã hội (vùng C). 
Trong CTĐT còn thiếu một số kĩ năng cần 
thiết, CTĐT cần điều chỉnh theo hướng 
tiếp cận yêu cầu của NSDLĐ tức là đào tạo 
theo hướng tiếp cận đào tạo theo năng lực 
của người học. Phẩm chất, đạo đức được 
xem là nền tảng, qua quá trình đào tạo 
người học sẽ có những kiến thức kĩ năng 
cần thiết. Nếu chương trình đào tạo được 
xây dựng theo hướng phát huy năng lực 
người học thì SVTN có thể hòa nhập môi 
trường làm việc đa lĩnh vực. 
52 
Hình 3. Quá trình phát triển năng lực cốt lõi đối với sinh viên tốt nghiệp 
3. MÔ HÌNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ 
ĐÀO TẠO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU 
CỦA NSDLĐ 
Trường đại học giữ vai trò đào tạo và 
cung cấp nguồn nhân lực cho th trường lao 
động. Một trong những sản phẩm của giáo 
dục đại học là SVTN. Th trường lao động 
được đại diện bởi những nhà doanh nghiệp 
là NSDLĐ trực tiếp sử dụng SVTN 
Trường đại học và NSDLĐ có mối liên hệ 
với nhau thông qua SVTN. Có nhiều mô 
hình khác nhau được tạo ra bởi các nhà 
nghiên cứu để tìm hiểu mối liên hệ giữa 
trường đại học và NSDLĐ dựa trên việc 
tìm hiểu kĩ năng làm việc và việc làm của 
SVTN. 
Harvey (2002) trình bày các mô hình 
đơn giản của việc làm để thấy được mối 
quan hệ giữa trường đại học và NSDLĐ 
thông qua khả năng làm việc: 
Hình 4. Mô hình việc làm Magic Bullet 
Nguồn: Harvey (2002), kĩ năng làm việc và sự đa dạng 
Ngoài ra, Harvey (2002) đã phát triển 
mô hình trên sau khi xem xét tất cả các bên 
liên quan trong quá trình đào tạo - sử dụng 
nguồn nhân lực và tất cả các yếu tố khả 
năng làm việc quan trọng. Harvey (2002) 
đã chỉ ra tầm quan trọng của liên kết tất cả 
các yếu tố cùng với tất cả các bên liên quan 
đến quá trình này để phát triển các thuộc 
tính SVTN. Các đối tượng liên quan vào 
quá trình đào tạo và sử dụng nguồn nhân 
 53 
lực là SVTN, trường đại học và nhà tuyển 
dụng. SVTN có trách nhiệm lựa chọn và 
tham gia với các cơ hội phát triển việc làm 
được cung cấp ở các trường đại học và 
kinh nghiệm tích lũy của bản thân để nâng 
cao những kĩ năng làm việc. 
Harvey (2002) xác đ nh các hoạt động 
phát triển việc làm bao gồm: sự phát triển 
của các thuộc tính về kĩ năng việc làm, 
kinh nghiệm làm việc, kĩ năng làm việc 
độc lập và sẵn sàng tìm hiểu để phát triển. 
Mô hình phát triển khả năng làm việc của 
SVTN được Harvey trình bày gồm 3 quy 
trình cốt lõi có tác động đến khả năng làm 
việc của SVTN là: (1) Quá trình giáo dục 
của trường đại học; (2) Phản ánh thông qua 
tư duy và nhận thức; (3) Kết hợp và vận 
dụng giữa kiến thức và thực tiễn. 
Hình 5: Mô hình phát triển kĩ năng làm việc của SVTN 
Nguồn: Harvey (2002), kĩ năng làm việc và sự đa dạng 
Dựa trên quan điểm trên, chúng tôi 
nhận thấy rằng có mối liên kết giữa nhà 
trường, nhà tuyển dụng và bản thân người 
học. Ba đối tượng này tham gia vào quá 
trình đào tạo là SVTN, trường đại học và 
NSDLĐ với những vai trò khác nhau: 
+ Cơ sở đào tạo là nơi đào tạo, rèn 
luyện kiến thức, kĩ năng và thái độ cho 
người học thông qua CTĐT. 
+ Người học tham gia vào quá trình 
đào tạo tiếp nhận kiến thức và kĩ năng 
thông qua quá trình học tập, ngoài ra trong 
quá trình đào tạo người học còn phải rèn 
luyện thêm phẩm chất và đạo đức. 
+ NSDLĐ là nơi sử dụng SVTN với 
vai trò sử dụng và phát triển những kiến 
thức và kĩ năng cho SVTN qua công việc 
thực tiễn. 
Hình 6. Mô hình 3 bên liên quan chính 
tham gia vào quá trình đào tạo 
 54 
Tóm lại, giữa NSDLĐ và cơ sở đào tạo 
có mối quan hệ với nhau thông qua SVTN. 
Về phía NSDLĐ đưa ra những yêu cầu đối 
với SVTN như: năng lực của SVTN và khả 
năng làm việc của SVTN, còn cơ sở đào 
tạo/trường đại học sử dụng CTĐT để đào 
tạo SVTN với những năng lực và khả năng 
làm việc cần thiết đáp ứng nhu cầu 
NSDLĐ. 
Vì vậy, xuất phát từ lập luận trên có 
thể thấy rằng giữa yêu cầu của NSDLĐ và 
CTĐT có mối quan hệ với nhau. Yêu cầu 
của NSDLĐ đã có sự ảnh hưởng đến 
CTĐT và việc điều chỉnh CTĐT nằm để 
đáp ứng yêu cầu của NSDLĐ. Trong lĩnh 
vực đào tạo, chất lượng đào tạo được đặc 
trưng bởi chất lượng SVTN. Yêu cầu của 
NSDLĐ ở thế kỉ XXI hoàn toàn khác với 
những thế kỉ trước. UNESCO đã từng đưa 
ra quan niệm: 
- Học để biết là nắm những công cụ để 
hiểu. 
- Học để làm là phải có những năng lực 
hoạt động sáng tạo tác động vào môi 
trường sống của mình. 
- Học để cùng chung sống là tham gia 
và hợp tác với những người khác trong mọi 
hoạt động của con người. 
- Học để làm người có ích cho xã hội 
là sự tiến triển quan trọng và là mục tiêu 
của giáo dục. 
Xuất phát từ quan niệm trên có thể 
thấy rằng chất lượng SVTN được thể hiện 
qua phẩm chất, đạo đức, kiến thức, kĩ năng. 
Sự tổng hòa các yếu tố trên tạo nên năng 
lực của SVTN như: năng lực giải quyết 
công việc, năng lực thích ứng và phát triển 
nghề nghiệp Chúng tôi đề xuất “Mô hình 
đổi mới giáo dục và đào tạo tiếp cận yêu 
cầu của NSDLĐ” (hình 7) nhằm mục tiêu 
chỉ ra cầu nối giữa yêu cầu của NSDLĐ 
với CTĐT. Yêu cầu của NSDLĐ rất đa 
dạng thuộc môi trường đa lĩnh vực, vì vậy 
không thể có những kiến thức, kĩ năng và 
thái độ chung cho tất cả môi trường này. 
SVTN cần có những năng lực chung để có 
thể thích ứng vào môi trường đa lĩnh vực. 
Mặt khác, CTĐT muốn đáp ứng yêu cầu 
của NSDLĐ thì cần phải tìm hiểu những 
phản ánh trong quá trình sử dụng lao động 
như: năng lực và khả năng làm việc của 
SVTN. Thông qua phản ánh của NSDLĐ 
các trường đại học chọn lọc những thông 
tin, nếu phản ánh của NSDLĐ hợp lí về 
những nội dung còn khiếm khuyết trong 
CTĐT và phù hợp với năng lực cơ sở đào 
tạo thì CTĐT cần điều chỉnh để đáp ứng 
yêu cầu của NSDLĐ. 
55 
Hình 7. Mô hình đổi mới giáo dục và đào tạo tiếp cận yêu cầu của NSDLĐ 
Tóm lại, từ phân tích trên có thể thấy 
yêu cầu của NSDLĐ có ảnh hưởng đến 
CTĐT thông qua phản ánh của NSDLĐ về 
năng lực của SVTN. CTĐT cần được điều 
chỉnh để đáp ứng yêu cầu của NSDLĐ là 
xu thế phát triển giáo dục đại học hiện nay. 
4. KẾT LUẬN 
Xu hướng phát triển giáo dục để đáp 
ứng nhu cầu xã hội đòi hỏi GDĐH không 
những tăng về số lượng mà còn đảm bảo về 
chất lượng. Tuy nhiên chất lượng giáo dục 
không thể thay đổi đồng loạt về tất cả các 
phương diện, vì vậy việc thay đổi nội dung 
CTĐT đáp ứng theo yêu cầu NSDLĐ là 
một trong những quy luật tất yếu phải được 
quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên việc thay 
đổi nội dung CTĐT cần phải thực hiện theo 
hướng tích hợp các năng lực cần thiết cho 
SVTN theo yêu cầu của NSDLĐ để chất 
lượng CTĐT có thể tạo nên nguồn nhân 
lực đáp ứng sự phát triển của xã hội là vấn 
đề mà các nhà giáo dục cần quan tâm và 
nghiên cứu. 
 56 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Khắc Bình (2012), Đổi mới quản lí Giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay, 
"Tạp chí Giáo dục", kì 2 – 02/2012 (số 300), Tr. 1 - 3. 
2. Nguyễn Đức Cường (2009), Những chuyển biến của hệ thống giáo dục đại học Việt 
Nam sau hai năm thực hiện đề án đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt 
Nam giai đoạn 2006 – 2020, "Tạp chí Giáo dục", kì 2 – 03/2009 (số 209), Tr. 1 - 6. 
3. Lê Th Tuyết Hạnh (2012), Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – Đào tạo Việt Nam 
– Đề xuất một số biện pháp từ nhận diện thực tiễn giáo dục, "Tạp chí giáo dục", 
Kì 1 - 03/2012 (số 281), Tr. 9 -11. 
4. Đào Huy Huân (2011), Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đại học ở Việt 
Nam, "Kỉ yếu Hội thảo Khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí giáo dục đại 
học và cao đẳng Việt Nam”. 
5. Lê Đình Lục (2014), Đổi mới Đại học Việt Nam theo kinh tế th trường đ nh hướng xã 
hội chủ nghĩa, "Hội thảo khoa học, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học ở Việt 
Nam thi tinh thần Ngh Quyết Trung ương 8 Khóa XI", Tr. 133-139. 
6. Phùng Hữu Phú (2014), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo tinh thần 
Ngh quyết trung ương 8 khóa XI "Hội thảo khoa học, đổi mới căn bản, toàn diện giáo 
dục đại học ở Việt Nam theo tinh thần Ngh Quyết Trung ương 8 Khóa XI", 
(07/01/2013), Tr. 01-08. 
7. Phạm Văn Sơn (2011), Vai trò của trung tâm hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực 
trong việc gắn kết đào tạo và sử dụng sinh viên tốt nghiệp, "Tạp chí Khoa học Giáo 
dục", Tháng 2 (số 65), tr. 50. 
8. Trần Anh Tài (2009), Gắn đào tạo với sử dụng, nhà trường với doanh nghiệp, "Tạp chí 
khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật", Số 25 Tr. 77-81Chiến lược phát triển giáo dục 
Việt Nam 2009 – 2020. 
9. Lee Harvey (2002), New realities: The relationship between higher education and 
employment, "Printed in the Netherlands", Kluwer Academic Publishers. 
* Nhận bài ngày: 15/1/2014. Biên tập xong: 13/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_chuong_trinh_dao_tao_tiep_can_yeu_cau_nguoi_su_dung.pdf