Evolution of geological structural and sedimentary environment change in miocene of Phu Khanh basin
Abstract: Phu Khanh basin located in the central Vietnam and bounded by the longitude of 109o-
112oE and the latitude of 11o-15oN. The geological evolution history of the basin in Miocene is a
very complicated, included three sedimentary cycles of Early Miocene (N11), Middle Miocene
(N12) and Late Miocene (N13). Each of these sedimentary cycles was generated and deformed by a
general rule as follow: subsidence, sedimentary filling to be buried deeply and unconsolided
sediments being become sedimentary rocks by diagenesis process and then continuously changed
by catagenesis process. At the end of each cycle, the secondary basins were uplifted over the water
surface and eroded to creat the angle or stratigraphic unconformities. Three strong deformation
factors are faults, compressions, and volcanic activities. The study also demonstrated that the
depositional formation of Phu Khanh basin in Miocene is existed three typical eroded surfaces as:
(1) The top of early Miocene is an angle unconformity in the age of 16 million years, equivalent to
the age of seafloor spreading in the East Vietnam Sea; (2) The top of middle Miocene is also an
angle unconformity in the age of 11 million years and (3) The top of late Miocene is 5.5 million
years and this surface is both angle unconformity and stratigraphic boundary between Late
Miocene and Pliocene - Quaternary sedimentary formations. The present geological structure of
Phu Khanh basin is considered as the one of Pliocene - Quaternary dued to the control of East Sea
Western fault system 1090-1100E in longitudinal direction and Tuy Hoa Shear Zone in
northwestern direction that strongly activated in Pliocene - Quaternary. The geological structure of
the three secondary basins of Early Miocene, Middle Miocene and Late Miocene was affected by four
main factors: (1) thermal subsidence at the center; (2) uplifting in the western margin; (3) the impact of
the Red River strike-slip fault and (4) the compressive force from the southeast of seafloor spreading
zone. The geological structural development history of Miocene deposits in Phu Khanh basin is proven
by the sedimentary evolution and the strong deformation of these three cycles.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Evolution of geological structural and sedimentary environment change in miocene of Phu Khanh basin
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 71 Original article Evolution of Geological Structural and Sedimentary Environment Change in Miocene of Phu Khanh Basin Tran Thi Dung*, Tran Nghi, Chu Van Ngoi, Nguyen The Hung, Nguyen Thi Huyen Trang Faculty of Geology, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Received 13 February 2019 Revised 11 March 2019; Accepted 11 March 2019 Abstract: Phu Khanh basin located in the central Vietnam and bounded by the longitude of 109o- 112oE and the latitude of 11o-15oN. The geological evolution history of the basin in Miocene is a very complicated, included three sedimentary cycles of Early Miocene (N11), Middle Miocene (N12) and Late Miocene (N13). Each of these sedimentary cycles was generated and deformed by a general rule as follow: subsidence, sedimentary filling to be buried deeply and unconsolided sediments being become sedimentary rocks by diagenesis process and then continuously changed by catagenesis process. At the end of each cycle, the secondary basins were uplifted over the water surface and eroded to creat the angle or stratigraphic unconformities. Three strong deformation factors are faults, compressions, and volcanic activities. The study also demonstrated that the depositional formation of Phu Khanh basin in Miocene is existed three typical eroded surfaces as: (1) The top of early Miocene is an angle unconformity in the age of 16 million years, equivalent to the age of seafloor spreading in the East Vietnam Sea; (2) The top of middle Miocene is also an angle unconformity in the age of 11 million years and (3) The top of late Miocene is 5.5 million years and this surface is both angle unconformity and stratigraphic boundary between Late Miocene and Pliocene - Quaternary sedimentary formations. The present geological structure of Phu Khanh basin is considered as the one of Pliocene - Quaternary dued to the control of East Sea Western fault system 1090-1100E in longitudinal direction and Tuy Hoa Shear Zone in northwestern direction that strongly activated in Pliocene - Quaternary. The geological structure of the three secondary basins of Early Miocene, Middle Miocene and Late Miocene was affected by four main factors: (1) thermal subsidence at the center; (2) uplifting in the western margin; (3) the impact of the Red River strike-slip fault and (4) the compressive force from the southeast of seafloor spreading zone. The geological structural development history of Miocene deposits in Phu Khanh basin is proven by the sedimentary evolution and the strong deformation of these three cycles. Keywords: Phu Khanh basin, geological structural, secondary basin, deformation.* ________ * Corresponding author. E-mail address: trandung251112@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4368 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 72 Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể phú khánh Trần Thị Dung*, Trần Nghi, Chu văn Ngợi, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thị Huyền Trang Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 13 tháng 2 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 11 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 3 năm 2019 Tóm tắt: Bể Phú Khánh nằm trên vùng biển miền Trung Việt Nam giới hạn trong khoảng kinh tuyến 109o-112030’E và vĩ tuyến 10030’-15oN. Khu vực bể Phú Khánh có một lịch sử phát triển địa chất trong Miocen rất phức tạp với 3 chu kì trầm tích: Miocen sớm (N11), Miocen giữa (N12) và Miocen muộn (N13). Mỗi chu kì trầm tích này được sinh ra và bị biến dạng theo một quy luật là sụt lún, lấp đầy trầm tích nhấn chìm sâu và vật liệu trầm tích bở rời biến thành đá trầm tích (diagenesis) và tiếp tục bị biến đổi thứ sinh trong điều kiện nhiệt độ và áp suất tăng cao (catagenesis). Cuối mỗi chu kì các bể trầm tích thứ cấp bị nâng lên khỏi mặt nước và bị bào mòn tạo ra bất chỉnh hợp góc hoặc bất chỉnh hợp địa tầng. Ba yếu tố gây biến dạng mạnh mẽ là: đứt gãy, nén ép và hoạt động núi lửa. Nghiên cứu cho thấy rằng trong thành tạo trầm tích Miocen bể Phú Khánh có 3 mặt bào mòn tiêu biểu: (1) Nóc Miocen sớm là bất chỉnh hợp góc có tuổi 16 triệu năm tương đương với tuổi dừng tách giãn đáy Biển Đông; (2) Nóc Miocen giữa cũng là bất chỉnh hợp góc có tuổi 11 triệu năm; (3) Nóc Miocen muộn có tuổi 5,5 triệu năm vừa có bất chỉnh hợp địa tầng vừa có bất chỉnh hợp góc giữa Miocen và Pliocen-Đệ Tứ. Cấu trúc địa chất của bể Phú Khánh hiện tại là cấu trúc của Pliocen-Đệ Tứ do khống chế của hệ thống đứt gãy sụt bậc 109o-110oE theo hướng kinh tuyến và đới đứt gãy xiết trượt Tuy Hòa theo hướng tây bắc đông nam hoạt động tích cực trong Pliocen- Đệ Tứ. Còn cấu trúc địa chất của 3 bể thứ cấp Miocen sớm, Miocen giữa và Miocen muộn bị ảnh hưởng của 4 nguồn lực chính: (1) sụt lún nhiệt ở trung tâm; (2) nâng trồi đới ven rìa phía tây; (3) ảnh hưởng của đứt gãy trượt bằng Sông Hồng và (4) lực ép từ phía đông nam của đới tách giãn Biển Đông. Lịch sử phát triển cấu trúc địa chất Miocen của bể Phú Khánh được minh chứng bằng tiến hóa và sự biến dạng mạnh mẽ trầm tích của 3 chu kỳ nói trên. Từ khóa: Bể Phú Khánh, cấu trúc địa chất, bể thứ cấp, biến dạng. 1. Mở đầu Bể Phú Khánh nằm trên vùng biển Miền Trung Việt Nam, chiếm một diện tích rộng lớn từ vùng nước nông thềm lục địa đến vùng nước ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ Email: trandung251112@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4368 sâu sườn lục địa hiện đại, giới hạn trong khoảng kinh tuyến 109o00’ – 112o30’E và vĩ tuyến 10o30’ – 15o00’N. Theo ranh giới của bể trầm tích bể Phú Khánh giáp với bể Sông Hồng ở phía bắc, bể Cửu Long ở phía nam, bể Nam Côn Sơn ở phía đông nam (hình 1) [1]. Khu vực bể Phú Khánh có một lịch sử phát triển địa chất phức tạp bắt đầu từ Paleogen và kết thúc trong giai đoạn Đệ tứ. Lịch sử đó được T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 73 ghi lại một cách sinh động bởi 6 chu kỳ trầm tích tương ứng với 6 bể thứ cấp (E31, E32, N11, N12, N13 và N2 - Q). Trong đó 3 bể thứ cấp trong Miocen vừa có tính chu kỳ theo thời gian vừa bị phân hóa về cấu trúc theo không gian do bối cảnh kiến tạo liên tục thay đổi. Lịch sử nghiên cứu địa chất bể Phú Khánh có thể ghi nhận khởi đầu là Saurin (1944 - 1964) nghiên cứu điểm lộ đầu tiên ở đầm Thị Nại (Bình Định) trên đất liền gần với bể Phú Khánh 1-3 đã phát hiện ra các lớp Sapropel giàu tảo có nguồn gốc dầu mỏ. Từ năm 1979 đến 2006 Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã hợp tác với Mỹ và Nga đã thu nổ được khoảng 7000 km tuyến địa vật lý 1,2,3. Năm 2002 – 2003, Phạm Quang Trung và nnk, đã tiếp tục nghiên cứu các mẫu lộ dầu ở đầm Thị Nại song vẫn chưa đi đến lời kết thỏa đáng về nguồn gốc dầu mỏ nơi đây. Cũng trong thời gian này dự án ENRECA do viện dầu khí hợp tác với Cục Địa chất Đan Mạch đã tiến hành nghiên cứu tổng thể địa chất dầu khí bể Phú Khánh. Kết quả nghiên cứu chủ yếu dựa trên minh giải định tính các mặt cắt địa chấn 2D mà chưa có mẫu khoan 2, 3. Hình 1. Vị trí bể Phú Khánh trên thềm lục địa Việt Nam và các tuyến địa chấn [1]. T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 74 Về nghiên cứu kiến tạo địa động lực Briais A. et al (1993), M. Longley (1997), T.Y. Lee, L.A. Lawver (1994) 4-7 đã phân lịch sử kiến tạo khu vực Biển Đông thành 3 giai đoạn: (1) giai đoạn tiền rift – trước 50 triệu năm là giai đoạn san bằng kiến tạo; (2) giai đoạn đồng rift từ 50 – 17 triệu năm (từ Eocen đến Miocen sớm); (3) Giai đoạn sau rift từ 16 triệu năm đến nay. Theo quan điểm của Taponier (1982, 1986) [8, 9] giai đoạn này chấm dứt hoạt động thúc trồi của vi mảng Đông Dương về phía đông nam. Đứt gãy sông Hồng đổi hướng từ trượt bằng trái sang trượt bằng phải. Năm 2009, nhóm tác giả Đan Mạch 10, 11 đã đánh giá lại vai trò va chạm của mảng Ấn Độ váo Á Âu, đứt gãy trượt trái Ailaoshan – Sông Hồng với biên độ 1000 km, đứt gãy Mae Ping, mở Biển Đông trong Neogen và đứt gãy trượt bằng á kinh tuyến qua bể Phú Khánh và Nam Côn Sơn. Năm 2007, Trần Ngọc Toản và Nguyễn Hồng Minh 1 đã tổng kết lại quan điểm phân chia các yếu tố cấu trúc chính của bể Phú Khánh gồm: (1) Thềm Đà Nẵng; (2) Thềm Phan Rang; (3) Đới nâng Tri Tôn; (4) Trũng sâu Phú Khánh; (5) Đới cắt trượt Tuy Hòa. Tuy nhiên, các đơn vị cấu trúc này thực chất là đơn vị cấu trúc hiện tại được xác lập bắt đầu từ Pliocen đến nay. Gwang H. Lee, Joel s. Watkins, etal (1998) dựa trên các tập phản xạ địa chấn có đóng góp đáng ghi nhận là chia bể Phú Khánh ra 5 tập địa chấn – địa tầng: Eocen – Oligocen, Miocen dưới, Miocen giữa, Miocen trên và Pleiocen – Đệ tứ. Tuy nhiên, việc phân chia này chỉ mới dựa trên cơ sở ranh giới các tập địa chấn mà chưa phân tích tướng trầm tích qua đặc điểm trường sóng địa chấn nên đường cong thay đổi mực nước biển chưa có sức thuyết phục. Michael B.W Fyhn et al (2009) đã phân chia ra 3 đới tướng trầm tích từ ven rìa đến biển nông của bể Phú Khánh gồm đới tướng aluvi và quạt ngầm châu thổ (fan deltas), carbonat khối xây (carbonate buildup) và carbonat dạng nền (carbonate platform). Việc phân chia đới tướng trầm tích này hết sức ước lệ mà không được chứng minh bằng mẫu thạch học trầm tích. Trên mặt cắt địa chấn hiện tại đã bị biến dạng qua nhiều pha kiến tạo muốn xác định được các tổ hợp cộng sinh tướng cần phải khôi phục từng bể thứ cấp (secondary basins) thì mới tường minh địa hình cổ và các tướng trầm tích. Trên các mặt cắt vuông góc với đường bờ từ thềm trong đến thềm ngoài, các tác giả đã bỏ qua đới đứt gãy phá hủy 109oE – 110oE.Đây là đới đứt gãy thuận sụt bậc thang đã nhấn chìm toàn bộ trầm tích Kainozoi được thành tạo ở ven biển xen biển nông xuống vùng biển nước sâu (>500m nước) 10. Michael B.W. Fyhn et all (2013) [12] lại đưa ra thêm những kết quả nghiên cứu mới của bể Phú Khánh như trầm tích vụn aluvi (alluvial – neritic siliciclastic) trầm tích vụn biển sâu (bathyal siliciclastic) và châu thổ basalt (basalt delta). Các đới tướng trầm tích nói trên được xác định một cách ước lệ trên mặt cắt địa chấn là không đúng với quy luật phân bố các nhóm tướng theo mặt cắt từ dưới lên và theo không gian từ rìa vào trung tâm bể. Trong Oligocen - Miocen bể Phú Khánh không có trầm tích biển sâu như các tác giả đã mô tả. Khái niệm châu thổ basalt không tồn tại trong địa chất.Nếu chỉ suy luận từ trường sóng địa chấn là điều không thuyết phục. D. Savva, et al (2013) 13 đã phân tích và chứng minh hiện tượng nóng chảy vát mỏng vỏ lục địa do manti trên và dâng cao bề mặt Moho của bể Phú Khánh. Đồng thời xuất hiện hệ thống đứt gãy listric thuộc phần trên của vỏ (upper crust) (hình 2). Kết quả nghiên cứu này đã thể hiện sự tiến bộ về nhận thức đối với cơ chế địa động lực tạo các bể vùng nước sâu thềm lục địa Việt Nam. Trần Nghi, et al (2013, 2014) 2, 14 đã xây dựng bản đồ cấu trúc 3D của vỏ lục địa trước Kainozoi và Kainozoi (hình 3) và đưa ra mô hình đối xứng thắt cổ “chày” (hình 4) để mô tả hiện tượng sụt lún lan tỏa mở rộng dần của các bể thứ cấp từ Oligocen sớm đến Miocen muộn do vỏ lục địa trước Kainozoi bị nóng chảy vát mỏng bởi các “chùm lưỡi” manti trên. Bề mặt Moho dâng cao theo từng chu kỳ và tạo nên hiện tượng căng giãn làm xuất hiện khe nứt xuyên sâu từ trầm tích Kainozoi xuống mái manti làm kênh dẫn magma xuyên lên theo tuổi khác nhau. Trần Nghi và nnk (2014, 2018) 15, T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 75 16 đã đưa ra quan điểm sụt lún nhiệt không tách giãn là cơ chế kiến tạo cơ bản của bể Phú Khánh. Đồng thời đã chia trầm tích kainozoi bể Phú Khánh thành 6 phức tập (sequence) và 3 tổ hợp thạch kiến tạo: (1) Tổ hợp đá lục nguyên đa khoáng từ 32 – 16 triệu năm (E2 – N11) tương ứng với giai đoạn tách giãn đáy Biển Đông đặc trưng cho địa hào nội lục và ven rìa; (2) Tổ hợp đá lục nguyên ít khoáng và đá carbonat thềm nông – vũng vịnh từ 16 – 5 triệu năm tương ứng với giai đoạn sau tách giãn đáy Biển Đông; (3) Tổ hợp đá lục nguyên ít khoáng, đơn khoáng và ám tiêu san hô tương ứng với giai đoạn tạo lớp phủ thềm Pliocen – Đệ tứ (5 triệu năm đến nay) 2, 14 - 17. Hình 2. Cấu trúc địa chất sâu của đới sụt lún trung tâm theo mặt cắt L09 của bể Phú Khánh có dạng đối xứng thắt cổ chày. Bề mặt Moho dâng cao, tại đó đáy bể trầm tích Kainozoi sụt lún sâu nhất (nguồn tài liệu: D. Savva et al, 2013) Hình 3. Sơ đồ khối cấu trúc bề mặt Moho khu vực bể Phú Khánh và các vùng lân cận (Trần Nghi, Nguyễn Duy Tuấn, Trần Thị Dung, 2014) T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 76 Hình 4. Bản đồ đẳng dày trầm tích Kanozoi bể Phú Khánh (Trần Nghi, Nguyễn Duy Tuấn, Trần Thị Dung, 2014) Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên đây vẫn chưa làm sáng tỏ được đặc điểm cấu trúc của từng thời kỳ, lịch sử biến động cấu trúc và cơ chế kiến tạo – địa động lực để tạo nên bối cảnh kiến tạo của khu vực bể Phú Khánh- bị biến dạng mạnh mẽ theo chu kỳ từ Miocen đến nay trong mối quan hệ với sự đổi hướng của đới tách giãn đáy Biển Đông. Nội dung bài báo này sẽ giới thiệu đặc điểm các kiểu biến dạng và chu kỳ biến dạng trong Miocen trong mối quan hệ với chu kỳ kiến tạo. Chu kỳ đó được thể hiện qua 3 chu kỳ tướng trầm tích và tổ hợp thạch – kiến tạo: chu kỳ Miocen sớm, Miocen giữa và Miocen muộn. Nói một cách khác nghiên cứu biến động cấu trúc và lịch sử kiến tạo tập thể tác giả đã tiếp cận từ quan điểm hệ thống và mối quan hệ nhân – quả giữa tướng trầm tích, sự biến dạng của đá trầm tích và hoạt động các pha kiến tạo trong Miocen bể Phú Khánh. 2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở tài liệu Nghiên cứu lịch sử biến động cấu trúc địa chất Miocen bể Phú Khánh đã kế thừa kết quả nghiên cứu và một khối lượng lớn tài liệu gốc và tài liệu trung gian các đề tài cấp nhà nước thuộc chương trình KC-09/06-10, KC-09/11-15 và 2 đề tài cấp ngành hợp tác giữa Đại học Quốc gia Hà Nội và Tập đoàn Dầu khí (HĐ số 4053/HĐ-DKVNvà HĐ số 4053/HĐ-DKVN). Các dạng tài liệu được chọn lọc và xử lý cho nội dung của bài báo như sau: 1) Một số mặt cắt địa chấn gốc thu nổ đại diện trên bể Phú Khánh được minh giải lại theo quan điểm và phương pháp mới (Hình 1); 2) Tài liệu trọng lực và bề mặt Moho của bể Phú Khánh được sử dụng để chồng chập đối chiếu với độ sâu đáy của trầm tích Kainozoi; T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 77 3) Mẫu lát mỏng thạch học Miocen của bể Phú Khánh và các bể Nam Côn Sơn, Tư Chính - Vũng Mây được phân tích và luận giải mới theo phương pháp phân tích tướng và địa tầng phân tập (Hình 15 đến hình 21). 2.2. Phương ph ... : (1) Bối cảnh cấu trúc địa chất nguyên thủy đã phục hồi (hình 14) và (2) Bối cảnh cấu trúc địa chất đã trải qua quá trình biến dạng (hình 9, 10). Trong giai đoạn đầu và gần cuối Miocen sớm thế nằm các đá trầm tích còn nằm ngang chưa bị biến dạng. Cấu trúc địa chất của bể Phú Khánh gồm 3 đới: (1) Đới nâng rộng lớn nhất phân bố ở rìa phía tây của bể; (2) Đới nâng yếu kéo dài theo phương đông bắc tây nam, phân bố ở phía đông đông nam của bể; (3) Đới sụt lún mạnh phân bố ở khu vực trung tâm bể (hình 14). Vật liệu trầm tíchđược cung cấp chủ yếu là từ khối nâng ở phía tây và khối nâng dạng tuyến ở phía đông đông nam đóng vai trò là miền xâm thực. Thành phân trầm tích chủ yếu là lục nguyên (cát kết đa khoáng, bột kết và T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 85 sét kết) lắng đọng ở các môi trường aluvi, châu thổ và biển nông (Hình21). Đến giai đoạn cuối Miocen sớm-đầu Miocen giữa xuất hiện pha nghịch đảo kiến tạo mạnh mẽ tương ứng với pha kết thúc tách giãn đáy Biển Đông (16 triệu năm). Bể thứ cấp Miocen sớm bị biến dạng bởi đứt gãy trượt bằng và đứt gãy listrict. Đặc biệt bị biến dạng do hoạt động núi lửa trẻ, uốn nếp, nâng trồi bào mòn và tạo nên bất chỉnh hợp góc giữa Miocen sớm và Miocen giữa. Giai đoạn đầu Miocen giữa bắt đầu pha sụt lún mới với tốc độ chậm chạp nhưng khuôn viên của bể Phú Khánh được mở rộng hơn. Giai đoạn này pha biển tiến toàn cầu cũng đồng thời xảy ra đã nhấn chìm địa hình bị phân dị mạnh của đáy bể xuống một độ sâu không lớn nhưng diện tích được mở rộng đã tạo nên 2 kiểu thủy vực tiêu biểu: (1) Thủy vực lắng đọng trầm tích lục nguyên do các dòng sông mang đến từ lục địa và các khối nâng dưới dạng đảo và quần đảo (Hình 20) và (2) Các quần đảo ngầm thuận lợi cho sự phát triển rực rỡ các ám tiêu san hô (Hình19). Các thủy vực giữa các đảo nổi và đảo ngầm này chính là các vũng vịnh có chế độ khử và độ kiềm cao (Eh≤ 0, pH ≥ 8,5) thuận lợi cho quá trình thành tạo tướng sét vôi-đolomit giàu sinh vật đặc trưng cho môi trường vũng vịnh như foraminifera, Bryozoa...(Hình 17, 18). Các mặt cắt phục hồi của bể thứ cấp Miocen giữa, bản đồ đẳng dày trầm tích nguyên thủy và bản đồ cấu trúc địa chất (Hình 13, 22) đã hiển thịmột bức tranh sinh động và đa dạng về tướng trầm tích với sựphát triển 2 tổ hợp thạch- kiến tạo là lục nguyên ít khoáng và carbonat sinh vật trong bối cảnh kiến tạo tương đối bình ổn trong một giai đoạn khá lâu dài. Hình 12.Cột địa tầng tổng hợp bể Phú Khánh [1-3] T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 86 Hình 13. Mặt cắt phục hồi tuyến L08 bể Phú Khánh. Đới sụt lún trung tâm Đới nâng ngoài T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 87 Hình 14. Bản đồ cấu trúc Miocen sớm bể Phú Khánh. Cuối giai đoạn Miocen giữa - đầu Miocen muộn pha nghịch đảo kiến tạo mới lại xuất hiện. Các đá trầm tích Miocen giữa bị biến dạng bởi quá trình đứt gãy sau trầm tích, hoạt động núi lửa trẻ, uốn nếp, nâng trồi và bào mòn tạo nên bề mặt bất chỉnh hợp địa tầng giữa Miocen giữa và Miocen muộn. T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 88 Hình 15. LKP94-2X; 1014m; N+; x40. Đá vôi vụn sinh vật chứa bitum, mảnh vụn thạch anh, mảnh vụn sinh vật mài tròn cạnh bao gồm san hô, vỏ molusca và foram bảo tồn tốt. Mảnh vụn tha sinh lục nguyên gồm thạch anh, mảnh đá, mài tròn từ trung bình đến tốt. Môi trường vũng vịnh (mt TST), N13 (Luận giải theo lát mỏng của VPI) Hình 16. Đá vôi chứa cát, bitum và vụn sinh vật, môi trường vũng vịnh nông, mẫu ở độ sâu 1160 m; N13; N- ; x 125; GK PV 94-2X (Luận giải theo lát mỏng của VPI) Hình 17. Mẫu đá vôi sinh vật (foram); GK TH-1X; độ sâu 2255,50m; tuổi N12; N+. Hình 18. Mẫu đá vôi sinh vật (Bryozoa); GK TH-1X; độ sâu 2283,00m; tuổi N12; N+. T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 89 Hình 19. Mẫu đá vôi ám tiêu; GK TH-1X; độ sâu 2453,00m; tuổi N12; N+. Hình 20. Mẫu cát kết hạt thô; GK TH-1X; độ sâu 2485,50m; tuổi N12; N+ ; môi trường lục nguyên (Luận giải theo lát mỏng của VPI). Hình 21. Mẫu đá cát kết hạt mịn; GK TH-1X; độ sâu 2546m; tuổi N11; N+ ; Môi trường lục nguyên (Luận giải theo lát mỏng của VPI). T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 90 Quá trình sụt lún trong Miocen muộn diễn ra trên một không gian rộng lớn khiến cho bể thứ cấp Miocen muộn có khuôn viên rộng hơn bể thứ cấp Miocen giữa (hình 23). Đây là quy luật tiến hóa các bể trầm tích thứ cấp theo chu kỳ sụt lún- mở rộng chứ không phải là sụt lún - tách giãn. Trong các mặt cắt địa chấn thấy rõ bể thứ cấp Miocen muộn các trường sóng có phản xạ trắng đặc trưng (hình 9). Điều đó được giải thích bởi thành phần trầm tích lục nguyên chứa một hàm lượng lớn vật liệu vụn sinh vật (mảnh vụn san hô, foraminifera, vỏ động vật Molusca...) (Hình 15, 16). Thành phần vụn sinh vật này và phản xạ trắng của mặt cắt địa chấn là minh chứng sinh động nhất cho một bối cảnh địa chất Miocen muộn của bể Phú Khánh nói riêng và khu vực nước sâu thềm lục địa Việt Nam nói chung. Các ám tiêu san hô phát triển rực rỡ trong Miocen giữa bị nâng lên khỏi mặt nước vào đầu Miocen muộn đã biến thành vùng xâm thực cung cấp vật liệu vụn sinh vật cho các thủy vực dạng đẳng thước vũng vịnh nông nằm xen kẽ với các khối xâm thực nói trên. Hình 22. Bản đồ cấu trúc Miocen giữa bể Phú Khánh. T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 91 Hình 23. Bản đồ cấu trúc Miocen muộn bể Phú Khánh. 3. Một số ý kiến thảo luận 1) Nghiên cứu lịch sử biến đổi cấu trúc địa chất Miocen và mở rộng tầm nhìn đến Pliocen - Đệ Tứ của bể Phú Khánh sẽ nổi lên 2 vấn đề hết sức lý thú cần phải được tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ: (1) Bể Phú Khánh bị nhấn chìm xuống vùng nước sâu chủ yếu xảy ra trong cuối Pliocen đến nay liên quan đến 2 nguồn lực là sụt lún do nhiệt của manti và hệ thống đứt gãy phương kinh tuyến 109o-110oE. Theo kết quả hồi phục các mặt cắt 3 bể thứ cấp N11, N12, N13 thì hệ thống đứt gãy nói trên bắt đầu hoạt động từ N13 và hoạt động mạnh mẽ nhất là vào cuối Pliocen đến nay. 2) Các chu kỳ trầm tích Oligocen sớm, Oligocen muộn và Miocen sớm tương đồng với 3 chu kỳ tách giãn đáy Biển Đông từ 32-26, 26- T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 92 21 và 21- 16 triệu năm. Vậy còn 2 chu kỳ trầm tích nữa trong Miocen là chu kỳ Miocen giữa và Miocen muộn liên quan đến cơ chế và nguồn lực nào khi tách giãn đáy Biển Đông đã chấm dứt? Điều đó chứng tỏ nguyên nhân sâu xa là liên quan đến chu kỳ năng lượng của manti? 3) Hiện tượng chuyển hướng đuôi của trục tách giãn đáy Biển Đông từ phương á vĩ tuyến (trước 16 triệu năm) thành phương đông bắc tây nam (hiện tại) và hệ thống đứt gãy trượt bằng phải 109o-110oE có thể liên quan đến cùng một nguyên nhân là do dòng đối lưu manti chuyển động vòng cung theo hướng ngược chiều kim đồng hồ? Đồng thời đây cũng là nguyên nhân tạo ra các đứt gãy trượt bằng - xoay và các bể trầm tích “di động” theo mô hình của một nửa quạt giấy có đuôi cố định nằm ở điểm cuối của đoạn tách giãn theo phương á vĩ tuyến. 4. Kết luận 1. Theo phương thẳng đứng trầm tích Miocen có 3 chu kỳ. Mỗi chu kỳ bị khống chế bởi 2 pha kiến tạo: (1) Pha sụt lún nhiệt tạo bể đồng thời lấp đầy trầm tích và tác dụng thành đá biến trầm tích bở rời thành đá trầm tích; (2) Pha nghịch đảo kiến tạo xảy ra các hoạt động biến dạng đứt gãy, nén ép, uốn nếp, hoạt động núi lửa, nâng trồi và bào mòn tạo nên các ranh giới bất chỉnh hợp góc (giữa Miocen giữa và Miocen sớm) và bất chỉnh hợp địa tầng (giữa Miocen muộn và Miocen giữa). 2. Theo không gian mỗi bể thứ cấp nguyên thủy đều có sự phân dị đan xen giữa các khối nâng và các khối sụt. Tuy nhiên, các khối nâng chỉ mang tính chất tương đối vàtạm thời trong phông chung là sụt lún thống trị do nhiệt manti làm nóng chảy vát mỏng vỏ lục địa trước Kanozoi. Ranh giới giữa các khối sụt và khối nâng liên tục thay đổi tuy nhiên diện tích các khối sụt tạo nên bồn trũng trung tâm được mở rộng dần từ Miocen sớm đến Miocen muộn theo nguyên lý “sụt lún lan tỏa”. 3. Hoạt động biến dạng các đá trầm tích của mỗi bể thứ cấp không chỉ xảy ra trong pha nghịch đảo kiến tạo của bể đó mà còn do các hoạt động biến dạng kép xảy ra trong các giai đoạn trẻ về sau. Theo quy luật đó bể trầm tích thứ cấp càng cổ sẽ bị biến dạng càng mạnh. Hiện tượng các đá trầm tích bị chia cắt thành từng mảnh có dạng giả bán địa hào hai mặt đứt gãy cong lõm hướng vào nhau là hậu quả của đứt gãy sau trầm tích dưới tác động đồng thời 2 nguồn lực trượt bằng và xoay. Đứt gãy này chắc chắn xảy ra trong pha kiến tạo hình thành bể thứ cấp mới. 4. Sự biến đổi thành phần thạch học và môi trường trầm tích đều liên quan chặt chẽ với hoạt động kiến tạo. Trầm tích Miocen sớm có thành phần lục nguyên đa khoáng là liên quan đến miền xâm thực ở phía tây của bể và các khối nâng tuổi Oligocen có thành phần thuần túy lục nguyên. Sự phát triển đa dạng vừa có mặt trầm tích lục nguyên vừa ám tiêu san hô và đá vôi sinh vật trong Miocen giữa đã chứng minh cho sự phân dị mạnh mẽ đáy bể trầm tích trước giai đoạn sụt lún để tạo ra các thủy vực vũng vịnh và quần đảo ám tiêu san hô xen kẽ. 5. Sự có mặt của trầm tích lục nguyên chứa phong phú vụn sinh vậtcủa bể thứ cấp Miocen muộn đã lý giải cho trường sóng phản xạ trắng trong các mặt cắt địa chấn. Đây là sản phẩm bào mòn phong hóa cơ học của các khối nâng ám tiêu san hô tuổi Miocen giữa mang xuống lắng đọng các thủy vực vũng vịnh nông ở lân cận. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Khoa học Tự nhiên trong đề tài mã số TN.18.17, sự tạo điều kiện của Bộ Khoa học và Công nghệ, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã cho phép sử dụng, xử lý nguồn tài liệu của các đề tài KC-09/11-15, các đề tài cấp ngành hợp tác giữa Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Tập đoàn dầu khí (NCKH03/2014, NCKH04/2014). Nhân dịp này tập thể tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu đó. T.T. Dung et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 71-93 93 Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Hiệp, Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. [2] Trần Nghi (Chủ trì), Báo cáo tổng kết đề tài cấp ngành Nghiên cứu cơ chế kiến tạo hình thành các bể trầm tích vùng nước sâu Nam Biển Đông và mối liên quan đến triển vọng Dầu Khí, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Hà Nội, 2013. [3] Chu Văn Ngợi (Chủ trì), Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước Nghiên cứu kiến tạo - địa động lực, cơ chế hình thành và phát triển các bể Kainozoi Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Tư Chính - Vũng Mây dưới ảnh hưởng của tách giãn biển Đông và bối cảnh kiến tạo - địa động lực các vùng kế cận, phục vụ điều tra, đánh giá tiềm năng khoáng sản, dầu khí, mã số: KC 09.20/11-15, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội, 2015. [4] Briais A., et al, Updated interpretation of magnetic anomalies and seafloor spreading stages in the South China Sea: implications for Tertiary tectonics of SE Asia. Journal Geophys. Res. 98 (1993) 6299-6328. [5] Longley Ian. M., The Tectonostratigraphic Evolution of S.E.Asia. Petroleum Geology of SE.Asia, 1997. [6] Lee, G.H., Watkins, J.S., Seismic stratigraphy and hydrocarbon potential of the Phu Khanh Basin, offshore Central Vietnam, South China Sea. AAPG Bulletin V.82. 9 (1998) 1711-1735. [7] Lawver, Lawrence A; Williams, Trevor; Sloan, B: Seismic Stratigraphy and Heat Flow of Powell Basin. Terra Antartica. 1 (1994) 309-319. [8] Tapponier P., Peltzer G., et al, Propagating extrusion tectonics in Asia: new insights from simple experiments with plasticine. Geology vol. 10 (1982) 611-619. [9] Tapponier P., Peltzer G., et al. On the mechanics of collision between India and Asia. In: Coward M.P. and Ries A.C. (eds.), Collision tectonics. Blackwell, Oxford (1986) 115-157. [10] Michale B.W Fyhn, Lars Nielsen, L.O.Boldreel, Le.D.Thang, Jorgen Bojensen-Koefoed, Henrik I.Petersen, Nguyen T Huyen, Nguyen A. Duc, Nguyen T. Dau, Andres Mathiesen, Ian Reid, Dang T. Huong, Hoang A. Tuan, Le V. Hien, Hans P. Nytolft, Ioannis Abtzis, Geological evolution, regional perspectives and hydrocarbon potential of the northwest Phu Khanh basin, offshore central Vietnam, Marien and Petroleum geology. 268 (2009) 1-24. [11] Fyhn, M.B.W., Boldreel, L.O., Nielsen, L.H., Geological development of the Central and South Vietnamese margin: Implications for the establishment of the South China Sea, Indochinese escape tectonics and Cenozoic volcanism, Tectonophysics. 478 (2009) 184-214. [12] Michael B.W. Fyhna,, Lars O. Boldreel, Lars H. Nielsen, Tran C. Giang, Le H. Nga, Nguyen T.M. Hong, Nguyen D. Nguyen and Ioannis Abatzis, Carbonate platform growth and demise offshore Central Vietnam: Effects of Early Miocene transgression and subsequent onshore uplift. Journal of Asian Earth Sciences. 76 (2013) 152- 168. [13] Savva, D., Meresse, F., Pubellier, M., Chamot- Rooke, N., Lavier, L., Po, K. Wong, Franke, D., Steuer, S., Sapin, F., Auxietre, J.L., Lamy, G., Seismic evidence of hyper-stretched crust and mantle exhumation offshore Vietnam, Tectonophysics. 608 (2013) 72-83. https://doi: 10.1016/j.tecto.2013.07.010. [14] Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Chu Văn Ngợi, Đinh Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Huyền Trang, Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Văn Kiểu, Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Phương Thảo, Phạm Thị Thu Hằng, Trần Văn Sơn, Tiến hóa trầm tích Kainozoi bể Phú Khánh trong mối quan hệ với hoạt động địa động lực, Tạp chí Địa chất 2013, Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Loạt A. 334 (2013) 28-36. [15] Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Chu Văn Ngợi, Đinh Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Duy Tuấn, Trần Thi Dung, Nguyễn Thị Phương Thảo, Phạm Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Tuyến, Biến dạng các bể thứ cấp trong Kainozoi khu vực bể Phú Khánh và triển vọng dầu khí liên quan, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 2S (2014) 1-11. [16] Tran Thi Dung, Tran Nghi, Nguyen The Hung, Dinh Xuan Thanh, Pham Bao Ngoc, Nguyen Thi Tuyen, Tran Thi Thanh Nhan, Nguyễn Thị Huyền Trang, The Miocene Depositional Geological Evolution of Phu Khanh, Nam Con Son and Tu Chinh - Vung May Basins in Vietnam Continental Shelf, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences. 1 (2018) 112-135. [17] Trần Thị Dung, Chu Văn Ngợi, Cơ chế hình thành bể Phú Khánh, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32. 2S (2016) 59-68.
File đính kèm:
- evolution_of_geological_structural_and_sedimentary_environme.pdf