Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1954

Mỹ thuật Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945 – 1954 là một pho sử thi đồ sộ bằng tranh

tràn đầy giá trị hiện thực. Thông qua quá trình sưu tầm các tác phẩm tiêu biểu ra đời trong

cuộc kháng chiến chống Pháp, bài báo góp phần làm rõ nét mối quan hệ biện chứng giữa

hiện thực và nghệ thuật, phân tích giá trị độc đáo của dòng nghệ thuật thấm đẫm tính hiện

thực, tính chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, khẳng định giá trị hiện

thực luôn tồn tại trong mọi khuynh hướng nghệ thuật.

pdf 8 trang yennguyen 4060
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1954", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1954

Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1954
TDMU, số 3(28) – 2016 Nguyễn Thị Kim Ngoan 
 82 
 N M N N M 
 O N 45-1954 
Nguyễn hị Kim Ngoan 
Trường Đại học Thủ Dầu Một 
 M Ắ 
Mỹ thuật Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945 – 1954 là một pho sử thi đồ sộ bằng tranh 
tràn đầy giá trị hiện thực. Thông qua quá trình sưu tầm các tác phẩm tiêu biểu ra đời trong 
cuộc kháng chiến chống Pháp, bài báo góp phần làm rõ nét mối quan hệ biện chứng giữa 
hiện thực và nghệ thuật, phân tích giá trị độc đáo của dòng nghệ thuật thấm đẫm tính hiện 
thực, tính chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, khẳng định giá trị hiện 
thực luôn tồn tại trong mọi khuynh hướng nghệ thuật. 
Từ khóa: hiện thực, hiện đại, mỹ thuật, Việt Nam 
 . Mở đầu 
Trong sự phát triển của nhân loại, hiện 
thực luôn là ngƣời bạn đồng hành với sự 
xuất hiện và tiến hóa của con ngƣời. Hiện 
thực luôn tồn tại một cách khách quan và 
chủ quan trong cuộc sống. Đó là mối quan 
hệ mang tính tƣơng tác biện chứng mà 
thông qua hoạt động nhận thức, cải tạo hiện 
thực, con ngƣời không chỉ tự khẳng định 
mình nhƣ những lực lƣợng bản chất ngƣời 
mà còn với tính cách là một thực thể tự 
nhiên xã hội. 
Những năm gần đây, với chính sách 
mở cửa, hội nhập thế giới của Đảng và Nhà 
nƣớc, song song với sự giao lƣu kinh tế là 
sự xuất hiện nhiều xu hƣớng nghệ thuật đa 
dạng của các nƣớc phƣơng tây. Điều này đã 
tạo cho Mỹ thuật Việt Nam một diện mạo 
mới vừa phong phú đa dạng nhƣng cũng 
không kém phần phức tạp. Một bộ phận 
không nhỏ các họa sĩ bị choáng ngợp trƣớc 
những cái “cũ ngƣời mới ta”. Họ cho rằng 
“nghệ thuật” chỉ nên vì “nghệ thuật” và 
không cần thiết phải có bóng dáng của hiện 
thực trong nghệ thuật. Giá trị hiện thực 
trong nghệ thuật lại bị xem là lạc hậu đối 
với những họa sĩ cấp tiến bị mất phƣơng 
hƣớng trƣớc nhiều trào lƣu nghệ thuật đang 
thâm nhập vào nƣớc ta. Thậm chí một số 
họa sĩ còn phủ nhận giá trị của dòng nghệ 
thuật hiện thực một thời đã ghi đậm những 
trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. 
Với niềm tự hào về dòng nghệ thuật đã có 
nhiều cống hiến to lớn trong quá trình tạo 
nên chiến thắng thần kỳ của dân tộc, bài 
báo góp phần làm rõ nét mối quan hệ biện 
chứng giữa hiện thực và nghệ thuật, phân 
tích giá trị độc đáo của dòng nghệ thuật 
thấm đẫm tính hiện thực, tính chủ nghĩa 
anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, 
khẳng định giá trị hiện thực luôn tồn tại 
trong mọi khuynh hƣớng nghệ thuật. 
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nghệ 
thuật và hiện thực 
 Trong sự tồn tại và phát triển, con 
ngƣời luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết 
với hiện thực. Hiện thực chính là mảnh đất 
màu mỡ tạo nên sự thăng hoa cho sáng tạo 
nghệ thuật. Thông qua quá trình lao động 
con ngƣời đã tạo ra một sản phẩm chƣa 
Tạp chí Khoa học TDMU Số 3(28) – 2016, Tháng 6 – 2016 
ISSN: 1859 - 4433 
TDMU, số 3(28) – 2016 Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam... 
 83 
từng có trong thiên nhiên, sản phẩm đặc 
biệt của sự sáng tạo là đỉnh cao của giá trị 
thẩm mỹ. Hiện thực cuộc sống chính là cội 
nguồn của nội dung nghệ thuật. Cái đẹp 
trong nghệ thuật chính là tấm gƣơng phản 
chiếu cái đẹp trong cuộc sống. Tác phẩm 
nghệ thuật là nơi mối quan hệ thẩm mỹ 
giữa con ngƣời và hiện thực đƣợc thể hiện 
ở mức độ cao nhất. Nếu phủ nhận hiện 
thực, nghệ thuật sẽ mất đi các đối tƣợng 
thẩm mỹ một trong những yếu tố quan 
trọng góp phần tạo nên trƣờng thẩm mỹ 
cho ngƣời nghệ sỹ trong quá trình sáng tạo. 
Trong công trình nghiên cứu về sáng tạo 
nghệ thuật, hiện thực, con ngƣời đạt giải 
thƣởng quốc gia Liên Xô năm 1980 của 
M.B. Khraptrenko đã phản đối mạnh mẽ 
quan niệm nhân đôi thế giới bằng hình 
tƣợng nghệ thuật của M. Kagan. Quan niệm 
này cho rằng: “nghệ thuật bao giờ cũng là 
sự nhân đôi hƣ ảo và là sự tiếp tục của hành 
động sống thực tế” [20, tr.164]. M.B. 
Khraptrenko đã không thừa nhận sự thoát 
ly những mâu thuẩn của cuộc sống, phủ 
nhận cuộc sống với tƣ cách là đối tƣợng 
sáng tác là mô hình nghệ thuật của hiện 
thực. Theo ông “sự lãng quên ngọn nguồn 
cuộc sống của sáng tác nghệ thuật không 
chỉ dẫn đến, cả trong bản thân nghệ thuật 
cũng nhƣ trong lý thuyết nghệ thuật, sự 
đánh mất những cơ sở nội dung phong phú 
của nghệ thuật, mà còn dẫn đến sự thủ tiêu 
đặc trƣng của nó” [20, tr.157]. Hiện thực 
luôn có sự chi phối đặc biệt đối với nghệ 
thuật tạo hình từ giai đoạn cổ đại đến giai 
đoạn hiện đại. Tùy theo từng giai đoạn lịch 
sử, có lúc tính hiện thực trong các tác phẩm 
nghệ thuật đƣợc đề cao tạo thành một trào 
lƣu sáng tác chính thống, có lúc lắng đọng 
đằng sau những phƣơng pháp khác. Nhƣng 
nhìn chung, cho dù nghệ thuật có phát triển 
theo bất cứ khuynh hƣớng, trào lƣu sáng 
tác nào cũng đều chịu sự chi phối của hiện 
thực ở một mức độ nhất định. Nghệ thuật 
không thể thoát ly hiện thực. 
3. ình hình xã hội và sự chuyển 
hướng trong quan điểm nghệ thuật giai 
đoạn 45-1954 
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành 
công, nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa 
vừa ra đời thì thực dân Pháp trở lại xâm 
lƣợc nƣớc ta lần thứ hai. Hƣởng ứng lời 
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chúng 
ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất 
nƣớc, chứ nhất định không làm nô lệ”, các 
nghệ sĩ yêu nƣớc đã tham gia vào cuộc 
chiến, quyết đem một phần sức lực của 
mình bảo vệ quê hƣơng. Trong quá trình 
tham gia các chiến dịch trên mọi nẻo đƣờng 
đất nƣớc, hiện thực của cuộc kháng chiến 
đã tạo nên sự chuyển biến rất lớn trong 
quan điểm sáng tác của các nghệ sĩ giai 
đoạn này. Nếu nhƣ mỹ thuật giai đoạn đầu 
thế kỷ XIX đã phản ánh hiện thực cuộc 
sống nhƣng chƣa diễn tả đƣợc những vấn 
đề lớn mang tính thời đại, chƣa đến đƣợc 
với đông đảo quần chúng lao động thì trong 
giai đoạn này mỹ thuật hình thành và phát 
triển dƣới chính quyền cách mạng, theo 
đƣờng lối văn nghệ của Đảng, vì sự nghiệp 
cao cả của Tổ quốc. Sau một số hội nghị 
văn hóa, văn nghệ và các cuộc tranh luận 
tại chiến khu Việt Bắc, phƣơng pháp hiện 
thực xã hội chủ nghĩa xuất phát từ Liên Xô 
đã đƣợc phổ biến và vận dụng một cách 
phù hợp vào đƣờng lối văn nghệ Việt Nam. 
Đặc biệt, tháng 7-1948 tại Đại hội Văn hóa 
toàn quốc, Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh đã 
thông qua báo cáo quan trọng “Chủ nghĩa 
Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam”[4]. Khái 
niệm hiện thực xã hội chủ nghĩa đƣợc giải 
thích một cách cụ thể. Tại Đại hội văn nghệ 
lần hai, Trƣờng Chinh tiếp tục nhấn mạnh 
“tăng cƣờng tính Đảng, đi sâu vào cuộc 
TDMU, số 3(28) – 2016 Nguyễn Thị Kim Ngoan 
 84 
sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ 
cách mạng tốt hơn nữa” [4, tr.218] nhằm 
mục đích nâng cao và phát triển quan điểm 
sáng tác trong văn nghệ sĩ, yêu cầu đƣa 
nghệ thuật đi sâu vào cách mạng, phục vụ 
nhân dân. Những đổi mới về quan điểm của 
Đảng trong đƣờng lối lãnh đạo văn hóa, 
văn nghệ đã tác động rất lớn đối với nhận 
thức của các nghệ sĩ. Triển lãm hội họa 
năm 1951 với gần 200 tác phẩm hội họa có 
giá trị đã chứng tỏ sự chuyển hƣớng trong 
quan niệm sáng tác của họ. Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã gửi một bức thƣ với lời khẳng định 
“Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh 
chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy” 
[19, tr. 349]. Giờ đây giới văn nghệ sĩ đã ý 
thức đƣợc trách nhiệm đối với đất nƣớc, họ 
đã nhận ra rằng hiện thực cuộc chiến rất đỗi 
hào hùng của dân tộc mới chính là sự thăng 
hoa tuyệt vời cho các tác phẩm nghệ thuật. 
Và công chúng thƣởng thức hôm nay 
không phải là tầng lớp thƣợng lƣu mà chính 
là những ngƣời lao động chân lấm tay bùn, 
những bác công nhân, những anh chiến sĩ. 
Vì vậy đã tạo nên những chuyển biến lớn 
về mặt hình thức và nội dung sáng tác, hình 
thành nên một dòng nghệ thuật cách mạng 
chính thống theo bút pháp hiện thực xã hội 
chủ nghĩa phản ánh một cách sinh động 
cuộc chiến hào hùng của dân tộc. 
4. uộc đấu tranh trường kỳ chống 
Pháp của dân tộc iệt Nam qua các tác 
phẩm mỹ thuật tiêu biểu (1945-1954) 
 Khi nhận xét về chủ thể thẩm mỹ, đối 
tƣợng sáng tạo nghệ thuật Tố Hữu cho 
rằng: “Tôi không tin có thiên tài nào ở 
ngoài “cái ổ” của cuộc sống vĩ đại, cuộc 
sống lao động, đấu tranh đau khổ và cũng 
dũng cảm của muôn triệu ngƣời làm nên 
lịch sử. Thiên tài là gì nếu không phải là 
hƣơng của hoa, núi của đất, là sự kết tụ ở 
mức độ nào đó trí tuệ của loài ngƣời? Nghệ 
sĩ là con đẻ toàn diện của hoàn cảnh nó đã 
sống nhƣ đứa con mang máu thịt và cái mùi 
riêng của cha mẹ” [14, tr.303]. Có thể nhận 
thấy hiện thực của cuộc kháng chiến chống 
Pháp chính là khách thể thẩm mỹ tác động 
một cách trực tiếp vào nhận thức của ngƣời 
nghệ sĩ tạo nên cảm xúc thẩm mỹ, tiền đề 
cho quá trình sáng tạo nghệ thuật. Các tác 
phẩm mỹ thuật giai đoạn 1945-1954 chính 
là sự phản ánh chân thực cuộc đấu tranh 
trƣờng kỳ chống Pháp của dân tộc Việt Nam 
thể hiện qua những tác phẩm tiêu biểu. 
Thật vậy cái khí thế hào hùng pha chất 
sử thi của dân tộc Việt Nam khi đi vào cuộc 
chiến đã đƣợc thể hiện rõ nét qua áp phích 
“Hà Nội vùng đứng lên” [H4.1] của họa sĩ 
Tô Ngọc Vân. Hình ảnh cô thiếu nữ với 
mái tóc dài và tà áo tung bay phấp phới tràn 
ngập cả mặt tranh. Những nốt nhạc và dòng 
chữ Hà Nội vùng đứng lên nhƣ một lời 
tuyên thệ nƣớc Việt Nam dù rất ôn hòa, dịu 
dàng nhƣng vẫn sẵn sàng đi vào cuộc chiến 
để bảo vệ độc lập, tự do, nhất định không 
chịu làm dân tộc nô lệ. Đến với tác phẩm 
“Bộ đội Nam tiến”[H4.2] của họa sĩ 
Nguyễn Đỗ Cung, chúng ta nhƣ sống lại 
những ngày đầu của cuộc kháng chiến 
chống Pháp. Những ngƣời thanh niên Hà 
Nội tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại 
của dân tộc đã ra đi trên mọi nẻo đƣờng đất 
nƣớc. Họ hiện lên vững chãi giữa tranh 
trong màu áo xanh quân phục, súng nặng 
trĩu trên vai, gƣơng mặt rắn rỏi đanh lại, 
ánh mắt tràn đầy sự quyết tâm vào một 
ngày mai tất thắng dù trong lòng vẫn còn 
vấn vƣơng những kỷ niệm về mảnh đất nơi 
mình đã ra đi. Trong số những ngƣời thanh 
niên đã ra đi từ mảnh đất nổi tiếng ngàn 
năm văn vật ấy còn có những nhà thơ, nhạc 
sĩ, họa sĩ với tâm hồn nhạy cảm của ngƣời 
nghệ sĩ, họ nhanh chóng hòa nhập vào cuộc 
đấu tranh trƣờng kỳ của dân tộc và hàng 
TDMU, số 3(28) – 2016 Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam... 
 85 
loạt tác phẩm đã ra đời từ những cảm xúc 
chân thật trong chiến tranh. Đó là hình ảnh 
của những ngƣời hùng dân tộc đƣợc thể 
hiện qua các tác phẩm “Tiểu đội pháo” của 
họa sĩ Nguyễn Tƣ Nghiêm, “Quân binh 
xƣởng khu 5” của họa sĩ Văn Giáo, “Trận 
Tầm Vu” của họa sĩ Nguyễn Hiêm, “Du 
kích hậu địch” của họa sĩ Trịnh Bá Phòng. 
Họ hiện lên thật oai dũng với khí thế tấn 
công của những con ngƣời đi vào cuộc 
chiến bằng lòng căm thù vô hạn đối với 
những kẻ đã dày xéo quê hƣơng mình. 
 Bên cạnh việc phản ánh lại cuộc chiến 
đấu ngoan cƣờng của đất nƣớc, các tác 
phẩm giai đoạn này còn phơi bày tội ác của 
giặc Pháp và khát vọng chiếm lĩnh tri thức 
của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến. 
Đến với tác phẩm “Giặc đốt làng 
tôi’’[H4.3], một bức tranh có bố cục và 
màu sắc đẹp. Bằng chất liệu sơn dầu với 
những nhát cọ mạnh bạo, chắc khỏe, họa sĩ 
Nguyễn Sáng đã tái hiện lại khung cảnh 
gặp nhau giữa đoàn bộ đội và những ngƣời 
dân chạy loạn. Đó là cái không khí hối hả 
của đoàn ngƣời bồng bế, dắt díu nhau rời 
bỏ ngôi làng thân thƣơng sắp trở thành tro 
bụi dƣới ngọn lửa tàn ác của kẻ thù. Những 
em bé đã sớm mất đi nét thơ ngây, hồn 
nhiên của lứa tuổi. Bà lão dân tộc bƣớc đi 
với nét mặt đăm chiêu, trầm tƣ. Một ngƣời 
phụ nữ Thái trắng địu con thơ trên lƣng, tay 
chỉ về hƣớng ngôi làng còn đang bốc cháy 
của mình trút cạn những nổi đau thƣơng 
với anh bộ đội trong sự ngậm ngùi. Anh bộ 
đội lặng ngƣời trƣớc nổi đau của đồng bào 
mình. Đoàn quân phía sau anh vẫn đều 
bƣớc nhƣng gƣơng mặt hiện lên nét đau 
khổ, căm thù. Tình yêu thƣơng và những 
nổi mất mát đã chuyển thành lòng căm thù 
đối với quân xâm lƣợc. Áp phích “Giặc giết 
hiếp” [H4.4] của họa sĩ Tô Ngọc Vân là lời 
tố cáo đanh thép đối với quân xâm lƣợc. Nó 
khơi dậy sự căm phẩn từ hàng triệu trái tim 
của những ngƣời dân Việt Nam yêu nƣớc. 
Tác phẩm “Chạy giặc trong rừng” [H4,5] 
của họa sĩ Tô Ngọc Vân với sự phối hợp 
các sắc thái của màu xanh trên nền sơn mài 
vàng son đã tái hiện lại những gian khổ mà 
ngƣời dân Việt Nam phải gánh chịu khi đất 
nƣớc bị xâm lƣợc. Tác phẩm “Ở hang” 
[H4,6] của họa sĩ Trần Văn Cẩn đƣợc thể 
hiện trên nền lụa mềm mại, óng ả đã phản 
ánh phút giây bình yên giữa cuộc chiến 
tranh nóng bỏng. Góc hang ấy nhƣ tách ly 
khỏi thế giới bên ngoài với hình ảnh của 
những ngƣời phụ nữ đang ngồi bên nhau 
thật đầm ấm. Họ cùng chia sẻ với nhau 
những gian nan nguy hiểm và có cùng một 
mơ ƣớc cháy bỏng đƣợc thoát khỏi góc 
hang tuy bình yên nhƣng tăm tối đó để có 
thể đón ánh dƣơng chiếu rạng giữa bầu trời 
cao rộng. Đó chính là ánh sáng của độc lập, 
tự do, thế nhƣng đối với những ngƣời dân 
bị mất nƣớc thì vùng trời cao rộng ngoài 
chốn hang sâu tăm tối đã trở thành mối đe 
dọa của những trận bom, những trận càn 
quét có thể cƣớp đi sự sống của bản thân và 
những ngƣời thân yêu bên cạnh. 
Chiến tranh đã cƣớp đi của ngƣời Việt 
Nam những phút giây bình yên, thế nhƣng 
niềm khát khao đƣợc tồn tại, đƣợc phát 
triển vẫn bừng lên một cách mãnh liệt. 
Phong trào “xóa nạn mù chữ" đƣợc toàn thể 
nhân dân hƣởng ứng mạnh mẽ. Tác phẩm 
“Cùng nhau học tập”[H4.7] của họa sĩ Trần 
Văn Cẩn với sự cách tân tranh khắc gỗ trên 
nền truyền thống dân tộc đã phản ánh đƣợc 
tinh thần say mê học tập của thanh thiếu 
niên trong chiến tranh. Chiến tranh đã cƣớp 
đi của họ những giờ học bình yên nơi mái 
trƣờng yêu dấu nhƣng không ngăn đƣợc 
khát vọng khám phá kiến thức của họ giữa 
mƣa bom bão đạn. Hình ảnh hai cô thiếu nữ 
ngồi học bên nhau say sƣa nhƣ một niềm 
TDMU, số 3(28) – 2016 Nguyễn Thị Kim Ngoan 
 86 
hy vọng mãnh liệt của đất nƣớc vào tƣơng 
lai của thế hệ trẻ mai sau. Họ nhƣ những 
bông hoa, những mầm xanh của dân tộc 
Viêt Nam luôn rực rỡ dù hoàn cảnh khắc 
nghiệt. Khát vọng học tập không chỉ dừng 
lại ở lớp trẻ mà nó là tinh thần chung của 
nhân dân. Tác phẩm “Đốt đuốc đi học” 
[H4.8] đƣợc vẽ bằng thuốc nƣớc của họa sĩ 
Tô Ngọc Vân thể hiện hình ảnh ông lão 
một tay ôm sách vở, một tay cầm bó đuốc 
sáng rực trong tay trên đƣờng đến lớp học. 
Sự tấn công và đàn áp của kẻ thù vẫn 
không thể dập tắt đƣợc nhu cầu học tập, 
chiếm lĩnh nguồn tri thức của những ngƣời 
dân bị xâm lƣợc. 
 Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt 
Nam đã liên kết đƣợc các giai cấp trong 
toàn xã hội từ công nhân, nông dân đến 
tầng lớp trí thức. Tất cả đều sát cánh bên 
nhau hy sinh lợi ích riêng tƣ để đạt đến lợi 
ích chung to lớn của toàn dân tộc. Trong 
chiến tranh ác liệt, tình quân dân càng thắm 
thiết hơn, nồng nàn hơn, bộ đội gặp dân 
nhƣ cá gặp nƣớc, bộ đội luôn bám rể và 
phát triển trong lòng dân. Hiện thực đó cũng 
chính là cảm xúc thẩm mỹ cho những sáng 
tạo nghệ thuật của các họa sĩ. Có thể nói các 
tác phẩm mỹ thuật giai đoạn này đã phản 
ánh hiện thực xã hội một cách chân thực, 
sống động đây “là quá trình tìm tòi khám 
phá để hiểu biết đối tƣợng nghệ thuật, tức là 
quá trình tƣ duy hình tƣợng về tự nhiên, xã 
hội, con ngƣời của nghệ sĩ. Hiểu biết đối 
tƣợng và tái hiện, tái tạo hay tƣởng tƣợng 
ngôn ngữ nghệ thuật”[4, tr.205]. Trong cuộc 
kháng chiến chống Pháp, những ngƣời 
chiến sĩ cách mạng đã ra đi bỏ lại sau lƣng 
hậu phƣơng thân thƣơng, nơi có mái nhà 
ấm cúng in đậm hình bóng vợ con yêu dấu, 
có láng giềng thân thuộc với mái đình, cây 
đa, bến nƣớc, con đò. Sự gặp gỡ giữa cuộc 
chiến ác liệt cho dù là tình cảm gia đình với 
những rung cảm riêng tƣ hay sự gặp gỡ 
giữa những ngƣời đồng chí mới quen cũng 
thắm thiết tình quân dân nhƣ cá nƣớc sum 
vầy. Phút giây gặp gỡ giữa cha và con, vợ 
và chồng, đôi lứa yêu nhau, những ngƣời 
đồng hƣơng, những cô dân công gặp những 
anh bộ đội, những cô thanh niên xung 
phong gặp những anh lính xe tăng vui tính 
hay sự gặp gỡ tình cờ giữa các binh chủng 
khác nhau cũng đều hòa quyện một thứ tình 
cảm đặc biệt pha trộn giữa gia đình và đất 
nƣớc. Cái riêng và cái chung đã trở thành 
một thể thống nhất, gắn bó mật thiết không 
phủ định lẫn nhau, đó là một trong những 
nét đẹp của tình quân dân đƣợc thể hiện rõ 
nét trong các tác phẩm mỹ thuật giai đoạn 
này. Họa sĩ Mai Văn Hiến với chất liệu bột 
màu trong trẻo, hòa sắc tƣơi tắn, đậm đà đã 
thể hiện một cuộc “Gặp gỡ”[H4.9] cảm 
động diễn ra giữa vùng đồi núi bao la 
hoang vắng. Không gian u tịch bỗng nhộn 
nhịp hẳn lên trƣớc sự xuất hiện của những 
cô dân công duyên dáng và những anh bộ 
đội vui tính. Họ cùng đi về một hƣớng lẫn 
cả vào nhau hồ hởi và vội vã. Một anh bộ 
đội vai nặng trĩu ba lô, súng khoác trên vai 
đột nhiên tách ra khỏi hàng quay lại hƣớng 
về phía cô dân công có khuôn mặt tròn 
trĩnh chít khăn mỏ quạ, áo bà ba giản dị, 
đôi bồ nông vẫn chƣa kịp đặt xuống chân. 
Họ lặng lẽ trao cho nhau ánh mắt dịu dàng, 
đằm thắm, một cách biểu đạt tình cảm hết 
sức Á Đông không dồn dập, vội vã mà lắng 
đọng, thâm trầm. Niềm vui gặp gỡ không 
chỉ tràn ngập trong ánh mắt của cô dân 
công và anh bộ đội mà còn lan tỏa khắp nơi 
trong lòng tất cả mọi ngƣời. Niềm vui riêng 
của họ đã hòa với niềm vui chung của tập 
thể. Sự biệt ly sau đó không hề mang nỗi 
buồn cô đơn mà nó đã trở nên ấm áp hơn 
bởi sự chia sẻ của tập thể. Bên cạnh những 
cuộc gặp gỡ in đậm niềm vui và nỗi mất 
TDMU, số 3(28) – 2016 Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam... 
 87 
mát, các tác phẩm mỹ thuật giai đoạn này 
còn phản ánh một cách sinh động những 
cuộc gặp gỡ chứa đựng tình cảm cao cả 
giữa quân và dân trong cuộc kháng chiến 
chống Pháp qua các tác phẩm “Bát nƣớc” 
hay “Tình quân dân” của họa sĩ Sĩ Ngọc. 
 Không chỉ phản ánh cuộc đấu tranh 
dân tộc, phơi bày tội ác của quân xâm lƣợc, 
các tác phẩm giai đoạn này còn thể hiện 
hình ảnh Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của 
dân tộc với một niềm tôn kính, yêu thƣơng. 
Một trong những tác phẩm của nhà điêu 
khắc Vũ Cao Đàm sáng tác tại Pháp đã thể 
hiện thành công “Chân dung Bác Hồ” vị 
lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Chiến tranh 
với sự tàn phá hủy diệt của nó luôn bao phủ 
khắp nơi, toàn dân tộc Việt Nam đã chiến 
đấu bằng nhiều hình thức với mục đích sau 
cùng là giải phóng đất nƣớc và cuộc chiến 
bằng trí óc là cuộc chiến âm thầm nhƣng 
còn nguy hiểm hơn cả mƣa bom bão đạn 
bởi vì nó quyết định vận mệnh của toàn dân 
tộc. Tác phẩm “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ 
phủ” [H4.10] của họa sĩ Tô Ngọc Vân đƣợc 
thể hiện bằng chất liệu sơn dầu với hình 
ảnh chính là Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu 
của dân tộc đang ngồi làm việc chăm chú 
trên chiếc bàn, xung quanh mọi vật đều rất 
đơn sơ từ chiếc ghế dựa đến khung tranh ở 
bức tƣờng phía sau. Bác ngồi đó dáng vẻ 
rất ung dung nhƣng hàng ngàn suy tính 
đang diễn ra trong bộ óc của nhà lãnh đạo 
tài ba ấy. Một quyết định thông minh, sáng 
suốt của ngƣời có thể đảo ngƣợc tình thế 
mang lại những thắng lợi vẻ vang, giúp 
toàn dân tộc tin vào một ngày mai tất 
thắng. Để tạo nên cuộc kháng chiến thần kỳ 
thì ngoài lòng dũng cảm, sự đoàn kết một 
lòng, một dạ giữa quân và dân, niềm tin 
tƣởng tuyệt đối vào vị lãnh tụ của mình 
cũng chính là một yếu tố vô cùng quan 
trọng. Tác phẩm “Thiếu nhi Trung, Nam, 
Bắc” hay “Bác Hồ và thiếu nhi” [H4.11] 
đƣợc vẽ bằng máu trên nền lụa trong trẻo 
của họa sĩ Diệp Minh Châu đã gợi cho 
ngƣời xem một nổi xúc động bồi hồi. Với 
lối bố cục chặt chẽ, cô đọng nét bút thoáng 
tràn đầy tình cảm, hình ảnh Bác Hồ với 
gƣơng mặt hiền hòa, phúc hậu và ba em 
thiếu nhi đại diện cho ba miền Nam, Trung, 
Bắc ngộ nghĩnh, đáng yêu hiện lên giữa 
tranh nhƣ một niềm khát khao đất nƣớc 
thống nhất của toàn dân Việt Nam trong 
cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền đất 
nƣớc. Dòng màu đỏ thấm sâu, hòa quyện 
vào từng sớ lụa trắng tinh khôi đã tạo nên 
chất liệu đặc biệt cho tác phẩm. Đó chính là 
niềm tin, là tình cảm thƣơng nhớ vô bờ của 
họa sĩ Diệp Minh Châu đại diện cho miền 
Nam ruột thịt dành cho vị lãnh tụ yêu quí 
của mình. Hình ảnh Bác Hồ qua phản ánh 
của mỹ thuật có lúc thì uy nghi, cao cả, có 
lúc thì gần gũi thân quen nhƣ một vị cha 
già, một ngƣời ông thân thiết. Ký họa “Bác 
Hồ với thiếu nhi” [H4.12] của họa sĩ Lƣơng 
Xuân Nhị đã thành công trong chủ đề phản 
ánh tình cảm thân thƣơng sâu đậm của Bác 
Hồ dành cho các cháu thiếu niên nhi đồng. 
Bằng những nét đen mềm mại Bác Hồ đƣợc 
diễn tả nhƣ một ông bụt hiền từ và các cháu 
thiếu nhi đang quấn quyt xung quanh. Một số 
em đang ôm chầm lấy Bác, có em đang múa 
võ, có em đang tung tăng với bó hoa và lá cờ 
đỏ sao vàng trên tay. Tất cả các em đều vui 
đùa tung tăng bên Bác nhƣ một đàn chim sáo. 
Bác nhìn các cháu thiếu nhi với cái nhìn trìu 
mến của một ngƣời ông đối với đàn cháu thơ 
ngây. Ƣớc mơ trong những lần “băn khoăn 
giấc chẳng thành” của Bác chính là tìm thấy 
độc lập, tự do để các em thơ không phải đi 
học thời chiến với những nguy hiểm cận kề 
mà đƣợc tung tăng cắp sách đến trƣờng trong 
ánh nắng ban mai của bầu trời hòa bình cao 
lồng lộng. 
TDMU, số 3(28) – 2016 Nguyễn Thị Kim Ngoan 
 88 
5. Kết luận 
Có thể khẳng định rằng chính hiện thực 
đã giúp cho nền mỹ thuật Việt Nam vẫn 
liền mạch dù trải qua bƣớc ngoặt lịch sử từ 
chế độ tƣ bản thuộc địa sang chế độ dân 
chủ cộng hòa. Bắt nguồn từ trƣờng thẩm 
mỹ gắn liền với hiện thực sinh động của 
cuộc kháng chiến trƣờng kỳ giải phóng dân 
tộc, những nghệ sĩ đã nhận thức đƣợc một 
vấn đề quan trọng trong quan niệm sáng tác, 
đó chính là nghệ thuật không chỉ vị nghệ 
thuật mà nghệ thuật còn phải vị nhân sinh. 
Mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945- 
1954 đã phản ánh một cách trung thực 
những bƣớc chuyển mình của lịch sử Việt 
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp 
chuẩn bị nền tảng cho sự phát triển đỉnh cao 
của mỹ thuật giai đoạn 1954-1975. 
 Vận dụng linh hoạt tính hiện thực 
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật sẽ giúp 
ngƣời nghệ sĩ có đủ bản lĩnh tiếp thu một 
cách có chọn lọc những khuynh hƣớng 
nghệ thuật đa dạng đã và đang du nhập vào 
nƣớc ta. Lịch sử nhân loại đang chuyển 
sang một giai đoạn mới, nghệ thuật tạo 
hình cũng cần có sự đổi mới đó là một qui 
luật tất yếu. Tuy nhiên dù nghệ thuật có 
chuyển sang bất cứ một khuynh hƣớng, 
một phong cách nào thì ngƣời nghệ sĩ vẫn 
không thể thoát ly đƣợc hiện thực, các tác 
phẩm vẫn mang đặc trƣng riêng về quê 
hƣơng, đất nƣớc, con ngƣời nơi họ đang 
tồn tại. Đó chính là điểm tạo nên sự khác 
nhau giữa các nền văn hóa, tạo nên hƣơng 
sắc riêng cho nền nghệ thuật của mỗi nƣớc. 
Các họa sĩ trẻ hôm nay có quyền tìm kiếm 
thêm nhiều giống hoa lạ ở bất kỳ nơi nào 
trên vƣờn hoa thế giới để tô điểm cho vƣờn 
hoa nghệ thuật Việt Nam thêm rực rỡ sắc 
màu nhƣng đừng bao giờ quên đi những 
loài hoa cúc, hoa sen, hoa hồng quen thuộc 
của dân tộc. Đó cũng là cái riêng để tạo nên 
vẻ đẹp của nền nghệ thuật nƣớc ta trong 
vƣờn hoa nghệ thuật của nhân loại. 
THE REALISTIC VALUE OF VIETNAMESE MODERN ART 
DURING THE 1945 – 1954 PRIOD 
Nguyen Thi Kim Ngoan 
ABSTRACT 
 The Vietnamese Modern Art is a colossal illustrated epic full of great realistic value. 
Through a collection of symbolic works of art appeared during the war of resistance 
against the French colonialists, the article has taken its part in making it clear the dialectic 
relation between realism and art, analyzing the unique value of the stream of art 
impregnated with the realistic characteristics, giving prominence to the heroism of the 
revolution of the Vietnamese people, and affirming the ever-lasting realistic value in all art 
forms and tendencies. 
 À L M K ẢO 
[1] Ban Biên tập NXB Văn hóa (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, NXB Văn hóa. 
[2] Nguyễn Lƣơng Tiểu Bạch (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, NXB Hà Nội. 
[3] Hà Huy Bính (1997), “Nghệ thuật phản ánh hiện thực”, Những vấn đề Mỹ thuật, NXB Mỹ thuật. 
[4] Bộ Văn hóa Thông tin (1995), Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB 
Văn hóa – Thông tin. 
TDMU, số 3(28) – 2016 Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam... 
 89 
[5] Bộ Văn hóa Thông tin (2003), Tuyển tập Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, NXB Văn hóa – Thông tin. 
[6] Phạm Thị Chỉnh (2004), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB Đại học Sƣ phạm. 
[7] Phạm Văn Đồng (1976 ), Về văn hóa – văn nghệ, NXB Văn hóa. 
[8] Lê Sĩ Giáo chủ biên (2002), Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục. 
[9] Bảo Hân (2010), “Mỹ thuật hiện đại Việt Nam trên mảnh đất nghìn năm văn hiến: Thăng Long 
– Hà Nội sự kiện và bình luận", Tạp chí Mỹ thuật Việt Nam. 
[10] Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội. 
[11] Nguyễn Phi Hoanh (1975), Văn minh nhân loại - Mỹ thuật và nghệ sĩ, NXB TP. HCM. 
[12] Nguyễn Phi Hoanh (1984), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB TP. HCM. 
[13] Nguyễn Phi Hoanh (1993), Mỹ thuật và nghệ sĩ, NXB TP. HCM. 
[14] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Mỹ học Mác Lênin, NXB Chính trị Quốc gia. 
[15] Hội Mỹ thuật Việt Nam (1994), 50 năm tranh tượng về lực lượng vũ trang và chiến tranh cách 
mạng, NXB Văn hóa. 
[16] Hội Mỹ thuật Việt Nam (1996), Tranh sơn dầu Việt Nam, NXB Hà Nội. 
[17] Hội Mỹ thuật Mỹ thuật Việt Nam (1997), Tranh Lụa Việt Nam, NXB Hà Nội. 
[18] Hội Mỹ thuật Việt Nam (1998), Các họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, NXB Hà 
Nội. 
[19] Hồ chí Minh (1977), Về công tác văn hóa văn nghệ, NXB Sự thật. 
[20] M.B.Khraptrenko (1985), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người, tập hai, NXB Khoa học Xã hội. 
[21] Nguyễn Quân (1982), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa. 
[22] Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thể kỷ 20, NXB Tri thức 
[23] Quang Phòng - Quang Việt (2000), Mỹ Thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ XX, NXB Mỹ thuật 
 Bài nhận ngày: 24/04/2016 
 Chấp nhận đăng: 30/05/2016 
Liên hệ: Nguyễn hị Kim Ngoan 
Khoa Kiến trúc – Đô thị – Trƣờng Đại học Thủ Dầu Một. 
Số 6 Trần Văn Ơn, Phú Hòa – Thủ Dầu Một – Bình Dƣơng 
Email: kimngoanngoan@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_hien_thuc_cua_my_thuat_hien_dai_viet_nam_giai_doan_1.pdf