Hiệu quả mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo mỹ thuật ứng dụng ở nước ta hiện nay

Tóm tắt: Đào tạo nguồn nhân lực Mỹ thuật ứng dụng đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp,

người sử dụng lao động luôn là mối quan tâm sâu sắc của các cấp ban ngành và Bộ chủ quản.

Đào tạo MTUD là lĩnh vực đào tạo khá chuyên biệt, hệ thống khoa học của nó cần tư duy khác

biệt, việc đánh giá kết quả cũng cần có sự khác biệt, lực lượng chuyên sâu giảng dạy cũng cần có

cách đòi hỏi riêng. Đối với các doanh nghiệp cần phải chủ động hơn nữa trong việc tăng cường

và nâng cao hiệu quả hợp tác trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Mối quan hệ này cần phải

được xây dựng dựa trên lợi ích thiết thực từ các bên. Trên cơ sở đó mới nâng cao được chất lượng

giáo dục nghề nghiệp. Qua bài viết này, tác giả đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị và giải

pháp nhằm nâng cao mối liên kết giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với các cơ sở đào

tạo mỹ thuật ứng dụng - một ngành học hướng đến tính ứng dụng, đến sự gắn kết giữa nhà trường

và doanh nghiệp.

pdf 10 trang yennguyen 640
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo mỹ thuật ứng dụng ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo mỹ thuật ứng dụng ở nước ta hiện nay

Hiệu quả mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo mỹ thuật ứng dụng ở nước ta hiện nay
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 54 (04/2019) 75-84 75 
HIỆU QUẢ MỐI QUAN HỆ 
GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO 
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
EFFICIENCY OF RELATIONSHIP BETWEEN BUSINESS AND SCHOOLS OF 
APPLIED ART IN VIETNAM 
Vương Quốc Chính*‡‡‡‡‡‡‡‡ 
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/10/2018 
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/4/2019 
Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/4/2019 
Tóm tắt: Đào tạo nguồn nhân lực Mỹ thuật ứng dụng đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp, 
người sử dụng lao động luôn là mối quan tâm sâu sắc của các cấp ban ngành và Bộ chủ quản. 
Đào tạo MTUD là lĩnh vực đào tạo khá chuyên biệt, hệ thống khoa học của nó cần tư duy khác 
biệt, việc đánh giá kết quả cũng cần có sự khác biệt, lực lượng chuyên sâu giảng dạy cũng cần có 
cách đòi hỏi riêng. Đối với các doanh nghiệp cần phải chủ động hơn nữa trong việc tăng cường 
và nâng cao hiệu quả hợp tác trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Mối quan hệ này cần phải 
được xây dựng dựa trên lợi ích thiết thực từ các bên. Trên cơ sở đó mới nâng cao được chất lượng 
giáo dục nghề nghiệp. Qua bài viết này, tác giả đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị và giải 
pháp nhằm nâng cao mối liên kết giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với các cơ sở đào 
tạo mỹ thuật ứng dụng - một ngành học hướng đến tính ứng dụng, đến sự gắn kết giữa nhà trường 
và doanh nghiệp. 
 Từ khoá: Mỹ thuật ứng dụng, doanh nghiệp, đào tạo, chính sách, thực trạng, giải pháp. 
Abstract: Training human resources of applied fine arts meeting the needs of businesses 
and employers is always a deep concern of all levels of departments and line ministries. Applied 
arts training is quite specialized training field. Its scientific system needs different thinking, the 
evaluation of results also needs to be different, the intensive teaching force also needs to have its 
own requirements. For businesses, it is necessary to be more proactive in enhancing and 
enhancing the effectiveness of cooperation in vocational education activities. This relationship 
needs to be built on the practical benefits from the parties. On that basis, the quality of vocational 
education is improved. Through this article, the author offers a number of recommendations and 
solutions to improve the linkage between businesses and employers with applied art training 
institutions - a study aimed at applicability. , to the cohesion between schools and businesses. 
Keywords: Applied arts, business, training, policies, reality, solutions. 
*‡‡‡‡‡‡‡‡Trường Đại học Mở Hà Nội 
76 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
1. Đặt vấn đề 
Chủ trương liên kết giữa các trường 
đào tạo nghề, đại học với các doanh nghiệp 
(DN), cơ sở sản xuất để tạo việc làm cho sinh 
viên sau khi tốt nghiệp ra trường và đẩy mạnh 
xuất khẩu lao động đã được Chính phủ chỉ 
đạo tại nhiều văn bản như Nghị quyết số 
100/NQ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ 
ban hành Chương trình hành động của Chính 
phủ nhiệm kỳ 2016-2021, Nghị quyết của 
Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ 
yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch 
phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân 
sách nhà nước hàng năm; Thông tư số 
29/2017/TT-BLĐTBXH, ngày 15/12/2017 
của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy 
định về liên kết tổ chức thực hiện chương 
trình đào tạo. Theo đó, nhà trường và Doanh 
nghiệp(DN) có thể liên kết tổ chức đào tạo, 
trong đó DN có thể đảm nhận đến 40% 
chương trình đào tạo. 
 Nhờ những chủ trương trên, nhiều mô hình 
liên kết với DN của các trường đại học đã 
được triển khai hiệu quả trong thời gian qua, 
tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại khá nhiều 
bất cập như mối quan hệ giữa nhà trường, 
doanh nghiệp, người lao động, người sử dụng 
lao động còn nhiều khoảng trống và lỏng lẻo. 
 Theo khảo sát, ở Việt Nam trung bình mỗi 
năm có khoảng 10.000 chỉ tiêu đào tạo các 
ngành liên quan đến mỹ thuật: hội họa, mỹ 
thuật ứng dụng, sư phạm mỹ thuật được Bộ 
Giáo dục và Đào tạo cho phép các cơ sở đào 
tạo tuyển sinh trong cả nước. Đây là con số 
không hề nhỏ, Qua đó chúng cho thấy một 
thực tế xã nhu cầu tuyển dụng lao động trong 
lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng(MTUD) không 
hề nhỏ. Tuy nhiên số cử nhân ngành MTUD 
sau khi ra trường đáp ứng được yêu cầu của 
doanh nghiệp đang yếu và thiếu. 
 2. Thực tế mối quan hệ giữa các cơ 
sở hoạt động tư vấn thiết kế và cơ sở đào 
tạo ngành MTUD 
 Bản chất của MTUD là tạo ra các sản 
phẩm mang tính ứng dụng cao, tuy nhiên có 
một thực tế trái ngược đang diễn ra đó là sinh 
viên ngành MTUD đang bị bó hẹp trong 
khuôn khổ lý thuyết mà ít được tiếp cận với 
thực tế. Chính việc học “chay”, “nhồi nhét” 
lý thuyết khiến khả năng sáng tạo và tính thực 
tế của sinh viên bị hạn chế không ít. 
Đào tạo đã thực gắn với doanh 
nghiệp? 
 Tại hội thảo hợp tác Việt Nam - Anh Quốc 
trong giáo dục và đào tạo kỹ năng nghề 
nghiệp diễn ra tại Hà Nội ngày 17/1, 
NGƯT.TS Vũ Xuân Hùng, Viện trưởng Viện 
Khoa học Giáo dục Nghề nghiệp, nêu rõ thực 
trạng đào tạo gắn với doanh nghiệp ở nước ta. 
Theo đó, trong tổng 1.979 cơ sở giáo dục 
nghề nghiệp, chỉ 483 cơ sở thuộc doanh 
nghiệp. Những cơ sở này chủ yếu đào tạo 
nhân lực cho chính doanh nghiệp đó. Khảo 
sát phía doanh nghiệp và nhà trường cho thấy 
mức độ hợp tác giữa hai bên còn thấp. Phía 
doanh nghiệp, việc hợp tác thường xuyên chỉ 
ở mức 12,3%, còn lại là không hoặc thỉnh 
thoảng hợp tác. Trong khi đó, từ phía trường, 
tỷ lệ hợp tác từ thường xuyên, thỉnh thoảng 
đến không lần lượt chiếm 32,8%, 60,3% và 
6,9%. Hình thức hợp tác chủ yếu là doanh 
nghiệp tiếp nhận và hướng dẫn học viên trong 
quá trình thực tập. Lý giải mối quan hệ lỏng 
lẻo giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục nghề 
nghiệp, NGƯT.TS Vũ Xuân Hùng cho rằng 
doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm với công 
tác đào tạo. Tình trạng học viên học nghề ra 
trường thất nghiệp không hoàn toàn vì kém 
chất lượng. Trên thực tế, hai bên đang lệch 
nhau trong công tác đào tạo, trường dạy cái 
này nhưng doanh nghiệp lại cần cái khác. 
“Trường dạy A, doanh nghiệp lại cần B 
Trường không biết doanh nghiệp cần gì vì 
không tiếp cận được chủ lao động, phần lớn 
doanh nghiệp tiếp xúc trường để tuyển sinh 
viên về làm việc chứ không tham gia từ đầu, 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 77 
tức từ khâu lên chương trình đào tạo. Vì thế, 
phía nhà tuyển dụng chấp nhận tuyển về rồi 
đào tạo thêm. Nhiều doanh nghiệp tuyển 
thẳng lao động phổ thông để tự đào tạo. Họ 
chọn phương án này vì nhiều lý do, bao gồm 
việc chỉ phải trả lương thấp. Một số doanh 
nghiệp khác sa thải người lao động sau 3-5 
năm làm việc với lý do không thích ứng được 
sự thay đổi nhanh chóng trong ngành sản 
xuất. 
Để gắn kết trường và doanh nghiệp, nâng cao 
chất lượng giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao 
động - Thương binh và Xã hội đã triển khai 
một số biện pháp nhưđặt ra yêu cầu hàng 
năm, các doanh nghiệp phải cung cấp thông 
tin về nhu cầu lao động để bộ phối hợp các 
trường đào tạo sát nhu cầu. Việc này được 
giao đến từng địa phương. Tuy nhiên vấn đề 
này gặp không ít khó khăn, nhiều doanh 
nghiệp từ chối phản hồi vì nước ta không có 
chế tài nào buộc họ phải tuân thủ. Với vấn đề 
nêu trên: quan điểm của bà Trần Thị Lan 
Anh - Phó Tổng Thư ký Phòng Thương mại 
và Công nghiệp Việt Nam, Giám đốc Văn 
Phòng giới sử dụng lao động cho rằng: “Cần 
xây dựng một cơ chế chặt chẽ cho sự hợp tác 
giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh 
nghiệp”.Theo đó, các cơ sở giáo dục nghề 
nghiệp và doanh nghiệp cần phải chủ động 
hơn nữa trong việc tăng cường và nâng cao 
hiệu quả hợp tác trong hoạt động giáo dục 
nghề nghiệp. Mối quan hệ này cần phải được 
xây dựng dựa trên lợi ích thiết thực từ các 
bên. Trên cơ sở đó mới nâng cao được chất 
lượng giáo dục nghề nghiệp. 
Câu chuyện gắn kết giữa các cơ sở 
đào tạo, nhà trường, trung tâm với doanh 
nghiệp đã có từ rất lâu, tuy nhiên mối quan hệ 
này vẫn còn “lỏng lẻo”, hình thức. Điều này 
được thể hiện ở chất lượng nguồn lao động 
được đào tạo ra chưa đáp ứng được nhu cầu 
của doanh nghiệp. Theo các chuyên gia, có 
nhiều nguyên nhân để lý giải cho mối quan 
hệ hợp tác chưa chặt chẽ này. Trong đó, 
nguyên nhân lớn nhất là do doanh nghiệp thụ 
động trong việc tham gia vào sự hợp tác với 
cơ sở, nhà trường, trung tâm đào tạo nghề 
Chia sẻ rõ hơn về điều này, Ông 
Nguyễn Trung Thành - Giám đốc Công ty cổ 
phần thiết kế và in ấn bao bì Thăng Long cho 
biết: “Việc công ty chưa chủ động trong việc 
hợp tác với nhà trường, có thể là do quy mô 
của doanh nghiệp chưa có yêu cầu cao về việc 
đào tạo. Hay cũng có thể cũng chưa nắm bắt 
được thông tin về các chính sách, quy định 
pháp luật, hoặc chưa nhận thức được lợi ích 
của việc tham gia liên kết đào tạo với các cơ 
sở, trường, trung tâm đào tạo nghề”. 
Trên quan điểm này, ông Vũ Xuân 
Hùng - Vụ trưởng Vụ Đào tạo Chính quy - 
Tổng Cục Giáo dục nghề nghiệp - Bộ Lao 
động Thương binh và Xã hội cho rằng: “Bài 
toán về chất lượng nguồn lao động sẽ không 
giải quyết được nếu như không gắn với doanh 
nghiệp. Bởi hơn ai hết chính doanh nghiệp 
mới là người sử dụng lao động” họ biết nhu 
cầu thị trường cần gì. Vì vậy, khi có sự tham 
gia của doanh nghiệp, nhà trường sẽ có điều 
kiện tiếp cận sâu sắc hơn nữa với nhu cầu của 
xã hội chưa kể là sinh viên được tiếp cận các 
trang thiết bị, cơ sở vật chất hiện đại, từ đó 
chất lượng nguồn lao động cũng sẽ thay đổi. 
Thực tế đào tạo trong các trường 
Mỹ thuật ứng dụng 
Là người tâm huyết đi tiên phong mở 
đường, xây dựng và phát triển khoa Tạo dáng 
Công nghiệp cố PGS.TS Nguyễn Ngọc 
Dũng, đã có rất nhiều phân tích tình hình các 
trường đào tạo MTUD, trong bài viết “ Bàn 
về Design” PGS.TS đã viết: “Thiết kế Design 
không phải là thiết kế kỹ thuật đơn thuần, 
nhằm mục đích hoàn thiện hoặc vận hành 
thuần túy hệ thống kỹ thuật và cũng không 
phải là công tác thiết kế mỹ thuật biểu thị 
niềm hưng phấn của họa sĩ, nó là việc làm mà 
thông qua đó sản xuất được nối liền với thị 
78 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
trường. Thường người thiết kế sản phẩm phải 
có giác quan thứ sáu về người mua hàng đại 
chúng, không thiết kế sản phẩm từ yêu cầu 
biểu thị cá nhân mình. Chính nhu cầu sáng tác 
chân thực Design. Tuy nhiên, việc tạo hình 
dáng sản phẩm vẫn phải theo quy luật phát 
triển thẩm mỹ. Đó là mục đích, xét về thực tế 
thì thẩm mỹ có cả trong hành động mua bán. 
Mua bán giờ đây không chỉ là hành động kinh 
tế đơn thuần mà có cả hành động thẩm mỹ.”. 
Cũng ở lĩnh vực này, trong một phát biểu , 
họa sĩ Vũ Hiền phân tích về chuyên môn hiện 
tại cũng lâm vào tình trạng thiếu giáo trình 
mới. Việc gắn bó với thực tiễn xã hội còn 
nhiều bất cập. Một số nơi chưa là cầu nối cho 
sinh viên đến được các cơ sở sản xuất để tham 
quan, thực tập, thực hành. Điều này khiến khi 
ra trường, sinh viên thiếu thực tế, ngơ ngác 
trước các phương tiện kỹ thuật có liên quan 
tới ngành nghề. Có khi, họ phải mất 1 - 2 năm 
để tiếp cận sản xuất bên cạnh đó cũng có 
những bất cập khác là bắt đầu hình thành yếu 
tố bảo thủ, suy diễn kinh nghiệm, sinh viên 
được học kinh nghiệm thực tiễn thông qua 
các giảng viên, các bài tập đều xoay quanh 
trục kiến thức có tính cơ bản hàn lâm của nhà 
trường kể cả những kiến thức đã có hàng trăm 
năm Vì thế khi hội nhập gặp không ít khó 
khăn, sinh viên ra trường thể hiện khá tốt 
song nó lại không phải mang màu sắc của một 
nhà thiết kế mà mang màu sắc “thợ vẽ” nhiều 
hơn. Trong thời gian gần đây cũng đã có 
nhiều trường thiết kế bài tập và xây dựng 
khung chương trình cho học viên tập trung 
vào việc thị trường cần thì ta đáp ứng, nhưng 
khi thị trường thay đổi, những thị trường cao 
cấp mang yếu tố quốc tế vào Việt Nam thì ta 
lúng túng. 
Tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi 
mới đào tạo mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam” 
ngày 25/6/2016 tại Thành phố Hồ Chí Minh, 
nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng 
nhìn nhận: “Mỹ thuật ứng dụng của Việt Nam 
tham gia vào thị trường thế giới với tư cách 
là người lắp ráp, làm thuê chứ chưa sáng tạo, 
sản xuất ra bất kỳ máy móc, sản phẩm nào. 
Suốt thế kỷ 20, nước ta hầu như không có nhà 
thiết kế chuyên nghiệp, mà chỉ có các họa sĩ 
tham gia làm thiết kế đồ họa, người bấm máy 
tính trong sự chỉ bảo của ông chủ sản xuất”. 
Ông Marc Pechart, Quản lý học vụ Viện thiết 
kế ADS, người từng có 16 năm làm trong lĩnh 
vực thiết kế ở Việt Nam cũng cho rằng, mỹ 
thuật ứng dụng ở Việt Nam còn thiếu vắng 
bản sắc. Cũng tại hội thảo nói về thực trạng 
đào tạo các ngành mỹ thuật ứng dụng tại Việt 
Nam, ông Riccardo Francesch, đại diện 
Trường Đại học Thiết kế LABA (Ý) cho 
rằng: “Việc giáo dục và đào tạo các nhà thiết 
kế hiện tại rất mang tính thực dụng hơn là 
sáng tạo. Thường sinh viên tốt nghiệp sẽ trở 
thành kỹ thuật viên hơn là nhà thiết kế. Họ 
biết cách sử dụng thành thạo các phần mêm 
2D, 3D nhưng chưa biết cách phát triển ý 
tưởng trên cơ sở là một nhà thiết kế. 
Các sản phẩm tạo ra thiếu tính ứng 
dụng. Bên cạnh việc nắm bắt và sử dụng các 
kỹ thuật, nhà thiết kế còn phải nắm bắt được 
xu thế thị hiếu người tiêu dùng, các kỹ thuật 
thi công sản phẩm, các học trình về nghệ 
thuật, lịch sử nghệ thuật, lịch sử kiến trúc 
không có nhiều trong chương trình học. Nếu 
một sinh viên mà không biết về kỹ thuật thi 
công sản phẩm phổ biến, hiện đại thì sao 
sinh viên đó có thể trở thành một nhà thiết kế 
giỏi để đáp ứng được nhu cầu thực tế 
3. Thực trạng mối quan hệ giữa 
Làng nghề thủ công mỹ nghệ và các cơ sở 
đào tạo mỹ thuật ứng dụng 
Làng nghề là một tài sản quý báu của 
dân tộc ta. Trong thời kỳ mới, thực hiện Nghị 
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng (tháng 1-
2011) tiếp tục phát triển bền vững đất nước, 
làng nghề có vị trí và vai trò rất quan trọng. 
Trước yêu cầu của tình hình mới, cùng với 
quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 79 
mô hình tăng trưởng, làng nghề cũng phải tái 
cấu trúc nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm 
hàng hóa, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao 
hơn. Trên thực tế, việc thiếu nhân lực có kỹ 
thuật của các làng nghề đang ngày càng trở 
nên trầm trọng, do lao động có tay nghề đang 
chuyển dịch sang làm việc ở các lĩnh vực 
khác hoặc thoát ly khỏi địa phương. Nhiều 
làng nghề truyền thống hiện nay không có thợ 
tạo mẫu và thợ có tay nghề tinh xảo đáp ứng 
yêu cầu thẩm mỹ ngày càng cao của người 
tiêu dùng, cho nên sản phẩm của các làng 
nghề truyền thống chưa đa dạng về mẫu mã, 
thiếu sức cạnh tranh so với sản phẩm cùng 
loại trong nước và quốc tế. Trong bài viết “ 
Bàn về Design” PGS.TS Nguyễn Ngọc Dung 
viết : “. Thay đổi không phải chỉ ở phương 
diện từ ngữ, mà là nội hàm công việc. 
Design không đồng nghĩa với trang trí 
và cũng không cần phải là ứng dụng mỹ thuật 
vào sản xuất. Cần phải thấy sự tiến triển của 
design gắn bó với sự tiến bộ của sản xuất, là 
kết quả nảy sinh, phát triển của nhu cầu tiêu 
dùng và biểu hiện tính cách của người tạo 
dựng môi trường văn hóa thẩm mỹ thời đại. 
Với Design ở nước ta thỉnh thoảng lại dội lên 
những cổ động, như triễn lãm mẫu thiết kế 
sản phẩm, l ... huy được thế mạnh của làng 
nghề thì cần phải xây dựng đội ngũ nhân lực 
trẻ có trình độ cao. Do đó cần phải có những 
chính sách đào tạo nghề và truyền nghề cho 
thế hệ trẻ. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng 
tốt thì mới giữ và phát triển các làng nghề 
truyền thống ngày càng phát triển. 
Báo cáo của Sở Công Thương cho 
thấy, trong năm 2016, các làng nghề Hà Nội 
đã tạo việc làm cho gần 800 nghìn lao động, 
giá trị sản xuất đạt gần 14 nghìn tỷ đồng. Thu 
nhập bình quân của người lao động ở làng 
nghề đạt khoảng 35 triệu đồng/năm. Đặc biệt, 
thu nhập của người lao động tại các huyện 
Gia Lâm, Đông Anh, Hà Đông... lên đến 50 - 
60 triệu đồng/năm. Chính vì vậy, Hà Nội cần 
tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống, 
kết hợp tiếp thu KHCN mới trong thiết kế và 
sản xuất, nhất là các làng nghề có những sản 
phẩm xuất khẩu. Nhưng cần có một thái độ 
và sự quan tâm đúng đắn cho sự phát làng 
nghề của chúng ta.Trong đó khâu quan trọng 
chính đào tạo ngành MTUD phải trở thành 
nguồn gốc tích lũy và phát huy các trào lưu 
cách tân văn hóa và kinh tế. Đầu tư cho kiểu 
dáng mẫu mã sản phẩm mới phải có chiều 
sâu, ngoài nối tiếp từ truyền thống, còn phải 
biết đặt nó vào dòng phát triển của nền công 
nghiệp hiện đại tiên tiến. Trong quan niệm, 
chúng ta luôn đề cao đào tạo nguồn nhân lực 
thiết kế mỹ thuật ứng dụng cao , nhưng thực 
tế chúng ta đã làm gì cho tốt hơn. Trong thời 
kinh tế đang hòa nhập toàn cầu, các nhà kinh 
tế mong muốn có sự cân bằng trong xuất và 
nhập khẩu. Từ lãnh đạo đến các doanh nghiệp 
đều thấy phải có mẫu hàng mới trong xuất 
khẩu. Cứ theo sự phân tích trên, thì Đào tạo 
nguồn nhân lực Mỹ thuật ứng dụng có vị trí 
quan trọng với công việc này. một số mặt 
hàng như đồ gốm, giầy da, quạt máy, đồ gỗ, 
đồ thủ công mỹ nghệ đã phần nào có vị trí 
nhất định thị trường tiêu thụ quốc tế. Song 
vẫn là cung cách làm việc với tư duy ngắn 
hạn vụ mùa. Các trường đào tạo MTUD 
không thể đứng bên lề sản xuất lúc này, Nhà 
nước và cá nhân doanh nghiệp cũng cần có 
chính sách kết hợp với các trường đào tạo 
MTUD. 
Theo UBND TP.Hà Nội, trong những 
năm qua Hà Nội đã có nhiều chính sách nhằm 
hỗ trợ phát triển các làng nghề như quy hoạch 
các làng nghề, những chính sách hỗ trợ vốn, 
hỗ trợ đầu ra sản phẩm, tổ chức các hội chợ 
nhằm quảng bá sản phẩm làng nghề 
Đặc biệt công tác đào tạo nghề cho 
các làng nghề cũng được thành phố đặc biệt 
quan tâm. Đầu năm 2017, UBND TP. Hà Nội 
đã ban hành Kế hoạch số 36/KH-UBND về 
hoạt động của Ban Chỉ đạo phát triển nghề và 
làng nghề TP.Hà Nội năm 2017. 
Theo đó, sẽ tập trung đào tạo nghề, 
truyền nghề cho khoảng 30 nghìn lao động tại 
các làng nghề truyền thống ở khu vực nông 
thôn. Ban Chỉ đạo phát triển nghề và làng 
nghề TP.Hà Nội cho hay, trong năm 2017, 
toàn thành phố phấn đấu đào tạo nghề, truyền 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 81 
nghề, đồng thời tập huấn nâng cao năng lực 
quản trị doanh nghiệp cho khoảng 100 chủ 
doanh nghiệp là giám đốc, phó giám đốc các 
cơ sở sản xuất làng nghề. 
Theo Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát 
triển công nghiệp Hà Nội, từ đầu năm đến 
nay, Trung tâm đã chủ trì, phối hợp với các 
sở, ngành liên quan, các hiệp hội ngành nghề 
tổ chức 40 lớp truyền nghề thủ công mỹ nghệ 
cho 1.400 học viên tại 40 thôn, xã; tổ chức 
cho 1.500 chủ cơ sở sản xuất công nghiệp 
nông thôn tham gia 15 lớp tập huấn khởi sự 
doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế, thiết 
kế mẫu mã sản phẩm, quản trị doanh nghiệp, 
kinh doanh và marketing Các nghề chính 
được Trung tâm nhân cấy là mây tre đan, sơn 
mài, khảm trai, thêu ren, dệt lụa, gốm sứ 
Có thể thấy, việc đào tạo nhân lực cho 
các làng nghề vẫn là bài toán nan giải . 
4. Giải pháp 
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng 
cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa - hiện 
đại hóa đất nước là vấn đề sớm được đặt ra 
trong định hướng của Đảng và tổ chức triển 
khai của Chính phủ. Kết quả thực hiện thời 
gian qua đã đóng góp những thành tựu tích 
cực cho công cuộc phát triển chung của đất 
nước. 
Tuy nhiên, phải thẳng thắn nhìn nhận, 
hệ thống đào tạo trong nước hiện còn tồn tại 
quá nhiều bất cập; Đội ngũ giảng viên cao 
đẳng, đại học còn mỏng và yếu; Cơ sở vật 
chất chưa đáp ứng với yêu cầu đào tạo; 
Phương thức đào tạo vẫn theo kiểu cũ, lối 
mòn, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, dẫn đến 
chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo chưa 
đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội 
trong xu thế phát triển vũ bão và tác động 
mạnh mẽ, sâu rộng tới mọi mặt đời sống xã 
hội của cuộc CMCN 4.0. 
Trong giai đoạn hiện nay cũng như 
định hướng phát triển trong giai đoạn tới, việc 
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho 
CMCN 4.0 cần được xem xét, đánh giá toàn 
diện với nhiều yêu cầu và thách thức mới đặt 
ra cho các cơ sở đào tạo, đó là: 
Một là, cần chủ động đón đầu xu thế 
và yêu cầu của thị trường lao động. Bài toán 
về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân 
lực chất lượng cao trong bối cảnh hiện nay đã 
có thêm những tiêu chí, điều kiện ràng buộc 
mới, hết sức khó khăn, đòi hỏi sự đổi mới 
toàn diện trong công tác đào tạo. 
Các cơ sở đào tạo không thể vẫn sử 
dụng phương pháp cũ, thiếu tính tương tác, 
thiếu thực tiễn của mô hình sản xuất mới để 
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển 
và ứng dụng nhanh chóng của các công nghệ 
hiện đại từ cuộc CMCN 4.0. Điều này sẽ dẫn 
đến nguy cơ tụt hậu và đào thải rất cao. 
Hệ thống đào tạo cả nước cần sớm đổi 
mới nội dung và chương trình đào tạo nhằm 
đáp ứng trước những thay đổi từ thực tiễn. Ví 
dụ, trong lĩnh vực . 
Đặc biệt, đổi mới phương thức đào 
tạo và quản trị đại học, đẩy mạnh ứng dụng 
công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong 
hoạt động giảng dạy và nâng cao năng lực và 
chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản 
lý. 
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong môi trường 
mới, đội ngũ giảng viên giáo phải có những 
năng lực mới, năng lực sáng tạo và do đó đòi 
hỏi phải có những phẩm chất mới trên cơ sở 
chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, 
tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên 
môn. 
Bên cạnh hoạt động đào tạo, cần tích 
cực tham gia công tác nghiên cứu khoa học 
để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, 
gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển 
giao tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên 
cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác 
Hai là, cần đẩy mạnh công tác dự báo, 
nghiên cứu nhu cầu thị trường trong tương lai 
gần và xa hơn. Đây là nội dung cần được đặc 
82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
biệt quan tâm, bởi cuộc CMCN 4.0 sẽ có tác 
động rất lớn tới cơ cấu của nền kinh tế, khả 
năng suy giảm của nhiều ngành nghề cũng 
như sự xuất hiện mới của những ngành nghề 
trong tương lai là hoàn toàn có thể xảy ra, 
điều này sẽ dẫn tới những thay đổi rất lớn 
trong cơ cấu việc làm. 
Ba là, cần sự kết hợp 3 “nhà”: Nhà 
trường - Nhà khoa học - Nhà Doanh nghiệp 
trong đào tạo nhân lực phục vụ CMCN 4.0. 
Hiện tại, chủ yếu là phía doanh nghiệp có nhu 
cầu gắn kết với nhà trường - nhà khoa học, 
còn nhà trường, nhất là các trường công lập, 
chỉ tập trung công tác đào tạo chứ chưa chủ 
động hợp tác với doanh nghiệp. 
 Các trường đào tạo MTUD cần học 
tập, kinh nghiệm đào tạo của các trường đại 
học ở nước ngoài, trong việc xây dựng các 
trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo gắn 
rất chặt với nhu cầu thực tế XH. Nhờ những 
trung tâm đó, sinh viên được học tập ở môi 
trường rất thật; các doanh nghiệp liên kết với 
các trường để tìm nguồn nhân lực tương lai. 
Hiện nay, đã có một vài cơ sơ đào tạo 
nhen nhóm hình thành các trung tâm nghiên 
cứu và thực hành điển hình như Trung tâm 
ART & DESIGN - Khoa Tạo dáng Công 
nghiệp-Trường ĐH Mở Hà Nội. Hoạt động 
của trung tâm tập trung nghiên cứu đổi mới, 
sáng tạo các sản phẩm ứng dụng mới hoặc 
nâng cao cải tiến các sản phẩm MTUD đã có 
trên thi trường. Từ đây, xây dựng môi trường 
dạy và học mà phải gắn rất chặt với môi 
trường kinh doanh, với thực tiễn đặt hàng của 
xã hội 
Cần rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại hệ 
thống bài giảng, bài tập ứng dụng tại cơ sở 
giáo dục đại học, cao đẳng đào tạo về MTUD 
gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 
và nhu cầu của thị trường lao động trong cả 
nước, từng vùng và địa phương. 
Thực hiện tốt công tác tuyển sinh đại 
học, cao đẳng. Xây dựng cơ chế, chính sách 
phân luồng đào tạo và phát triển kỹ năng nghề 
nghiệp cho học sinh phổ thông. 
Đổi mới nội dung, phương thức đào 
tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả 
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, 
cơ sở vật chất của nhà trường cũng phải đáp 
ứng được hoặc có mức độ phù hợp nhất định 
đối với doanh nghiệp. 
Bốn là, cơ chế chính sách của trường 
phải đảm ứng được yêu cầu của doanh 
nghiệp. Cụ thể, thể hiện sự năng động, chủ 
động của nhà trường trong việc xây dựng các 
gói đào tạo hoặc chương trình đào tạo ngắn 
hạn cho doanh nghiệp. 
Năm là, thiết lập nhiều kênh kết nối trường 
đại học với doanh nghiệp. Cơ quan quản lý 
cần đứng ra chủ chì tổ chức nhiều hơn nữa 
các diễn đàn, hội nghị, hội thảo KH để nhà 
trường và doanh nghiệp có nhiều cơ hội tiếp 
cận gần gũi hơn 
- Nhà trường và doanh nghiệp nên thành lập 
các quỹ đầu tư phát triển chung để gia tăng 
sự ràng buộc, nâng cao tính năng động cũng 
như trách nhiệm của các chủ thể liên kết. 
Về phía nhà trường: Nên chủ động mời các 
nhà quản lý, nhân lực giỏi từ doanh nghiệp 
tham gia vào hoạt động đào tạo của nhà 
trường về những kỹ năng tác nghiệp trên máy 
móc, thiết bị thực tế để quá trình nghiên cứu, 
giảng dạy trên giảng đường sát với thực tiễn. 
+ Nâng cao năng lực đào tạo thông qua bồi 
dưỡng trình độ của đội ngũ giảng viên, đầu tư 
cơ sở vật chất thiết yếu; cập nhật, đổi mới 
chương trình nhằm bảo đảm chất lượng giáo 
dục. 
+ Thiết lập bộ phận chuyên trách về liên kết, 
hợp tác. 
Về phía doanh nghiệp: Tạo điều kiện tiếp 
nhận sinh viên kiến tập, thực tập, tham quan, 
khảo sát, tuyển dụng và sử dụng sinh viên tốt 
nghiệp của nhà trường. 
+ Có chiến lược nuôi dưỡng, ươm mầm tài 
năng tại các trường đại học với nhiều hình 
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 83 
thức như cung cấp học bổng, đầu tư cơ sở vật 
chất kỹ thuật, tuyển dụng trước và sau tốt 
nghiệp. 
+ Chủ động phối hợp với trường đại học 
trong việc biên soạn giáo trình, nội dung và 
phương pháp giảng dạy, bảo vệ đồ án, luận 
văn tốt nghiệp... để chương trình đào tạo “ăn 
khớp” với nhu cầu của Doanh nghiệp và xã 
hội. 
+ Cần có cơ chế, chính sách khuyến khích 
đội ngũ giáo sư, tiến sĩ, giảng viên có chất 
lượng cao trong các trường đại học tham gia 
vào các dự án hoặc chia sẻ, cố vấn cho doanh 
nghiệp thông qua các chương trình đào tạo 
nội bộ. 
Đặc biệt, Bộ cũng đề nghị đẩy mạnh việc hợp 
tác ba bên Nhà trường - Nhà khoa học - 
Doanh nghiệp. Trong đó, đa dạng hóa các 
hình thức hợp tác về xây dựng chuẩn đầu ra, 
chương trình đào tạo; tổ chức ký kết đào tạo 
theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp Bên 
cạnh đó, có sự phối hợp, hợp tác với cơ sở 
đào tạo cho sinh viên vừa học, vừa làm tại cơ 
sở đào tạo và doanh nghiệp. Đồng thời, hợp 
tác trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình 
độ, kỹ năng, cấp chứng chỉ nghề cho lao động 
và tuyển ngư 
ời vào học nghề, thực tập để làm việc cho 
doanh nghiệp. 
+ Đào tạo xây dựng một đội ngũ giảng viên 
giỏi về nghiên cứu làm nòng cốt trong Khoa 
+ Mạnh dạn thể nghiệm đào tạo các khóa 
chuyên sâu. Hay dạy theo nhu cầu của người 
học. Áp dụng phương thức đào tạo theo yêu 
cầu chất lượng cao của người hoc, và học 
theo modul tín chỉ, và có chứng chỉ . Hoàn 
thành tất cả các tín chỉ thì cấp bằng 
 + Thí dụ: gói kiến thức về mầu và bố cục trên 
mặt phẳng, gói về nghệ thuật in khắc, gói về 
Nghệ thuật chữ, thiết kế logo... Giảng viên sẽ 
ra các bài tập có thể gắn với thực tiễn xã hội, 
hoặc doanh nghiệp có thể đưa ra yêu cầu đào 
tạo chuyên sâu về một lĩnh vực của đơn vị 
mình, trong quá trình giảng bài giảng viên kết 
hợp với chuyên gia từ các doanh nghiệp, 
giảng dạy lý thuyết và thực hành thị phạm, 
kết quả dạy và học được đánh giá qua bài tập 
thể hiện của sinh viên. Thể hiện của sv có thể 
trên giấy. Có thể được thể hiện thành sản 
phẩm ứng dụng ngay cho doanh nghiệp. Tuỳ 
theo yêu cầu . 
+ Hình thành thư viện chuyên ngành 
+ Nâng cao trình độ ngoại ngữ, và công nghệ 
thông tin cho đội ngũ giảng viên và sinh viên 
trong Khoa. 
+ Xây dựng hình thức đào tạo theo yêu cầu 
của người học và đảm bảo chất lượng. Sau 
mỗi khóa học kiên quyết đưa hình thức đánh 
giá mức độ hài lòng của người học về giảng 
viên và môn học để khoa tự điều chỉnh môn 
học và thầy dạy. 
+ Xây dựng hệ thống quản trị khoa học, hiện 
đại, dân chủ với phương châm tăng mạnh uy 
tín đào tào của cơ sở thành thương hiệu xã 
hội. 
+ Thay vì đào tạo theo phương pháp hàn lâm, 
nặng về lý thuyết, thiếu thực hành, một số 
trường đã áp dụng mô hình đại học ứng dụng 
hiện đang rất phổ biến ở các nước phương 
Tây. Điểm ưu việt của mô hình thể hiện ở 
việc phân bổ thời gian dành cho lý thuyết và 
thực hành, theo đó lý thuyết chỉ chiếm 30%, 
còn lại 70% dành cho thực hành, thực tế tại 
doanh nghiệp. Các hoạt động trao đổi còn 
chưa phong phú và chưa liên kết toàn diện; 
Thiếu các hoạt động về trao đổi giữa giảng 
viên và cán bộ của doanh nghiệp trong hoạt 
động đào tạo. 
Đào tạo MTUD là lĩnh vực đào tạo 
khá chuyên biệt, hệ thống khoa học của nó 
cần tư duy khác biệt, việc đánh giá kết quả 
cũng cần có sự khác biệt, lực lượng chuyên 
sâu giảng dạy cũng cần có cách đòi hỏi 
riêng. Muốn vây cần có một thái độ và sự 
quan tâm đúng đắn cho sự phát triển của đào 
tạo MTUD trong ngành công nghiệp sản 
84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 
xuất của chúng ta, Đó là một thách thức 
chúng ta phải vượt qua, tư duy lãnh đạo giáo 
dục trong lĩnh vực này nên cập nhật sâu sắc 
tránh tình trạng thiên về yếu tố hành chính. 
Chúng ta cần sẵn sàng vượt qua giai đoạn 
phát triển này để hoàn thiện hơn. Đặc biệt, 
trong thời kì hội nhập quốc tế và phát triển 
tại Việt Nam đang sang một giai đoạn mới./. 
Tài liệu tham khảo: 
1. PGS.TS Nguyễn Ngọc Dũng Các bài viết về 
Design được đăng tải ở tập san “Mỹ thuật công 
nghiệp” (1976,1977,1978,1979) và website: 
tdcn.hou.edu.vn năm 2019, Bàn về thuật ngữ 
Design, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số 3,4/12, 
tr.12-15. 
2. PGS.TS Nguyễn Lan Hương(2018) Đào tạo 
ngành mỹ thuật ứng dụng trong bối cảnh cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0) 
3. Vương Quốc Chính (2018) “Những khó khăn 
và thuận lợi khi sử dụng Công nghệ thông tin 
trong giảng dạy và học tập ngành mỹ thuật ứng 
dụng” Tạp chí khoa học Trường ĐH Mở Hà Nội 
– 12/20198 
4.NguyễnMinh(2017)
n 
5. Uyên Huy, Mỹ thuật úng dụng và tính dân tộc 
trong thời đại kinh tế thị trường, 
so-7-8 
6.Vũ Quốc Tuấn, Thực trạng và giải pháp phát 
triển sản phẩm làng nghề Việt Nam, 
7. Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH, ngày 
15/12/2017 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã 
hội 
8. Công văn số 786/2018/TT-BLĐTBXH, ngày 
15/12/2017 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã 
hội 
Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Mở Hà Nội 
Email: vuongquocchinh@hou.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_moi_quan_he_giua_doanh_nghiep_va_cac_truong_dao_tao.pdf