Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện cho sinh viên tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội

Nghị quyết số 29 - NQ/TW, hội nghị Ban chấp hành trung ương 8 khóa XI xác định:

“Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào

tạo, đảm bảo trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào

tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin

cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối

kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy và tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà

trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”.

Trướ c yêu cầu hôị nhâp̣ càng sâu r ộng, viêc̣ nâng cao hi ệu quả công tác kiểm tra

đánh giá và nhanh chóng hoàn thiêṇ môṭ hê ̣thống đánh giá kết quả hoc̣ tâp̣ , rèn luyện

chất lươṇ g cao là môṭ yêu cầu tất yếu , vấn đề này laị càng có tầm quan troṇ g đăc̣ biêṭ

hơn.

Kiểm tra đánh gi á là khâu then chốt của quá trình dạy học . Đây cũng là khâu quan

trọng tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng đào tạo. Viêc̣ kiểm tra đánh giá

khách quan , nghiêm túc , đúng cách , đúng hướ ng sẽ là đôṇ g lưc̣ maṇ h mẽ khích lê ̣sự

vươn lên trong hoc̣ tâp̣ ,rèn luyện của sinh viên, thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng

của sinh viên.

pdf 9 trang yennguyen 7120
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện cho sinh viên tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện cho sinh viên tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội

Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện cho sinh viên tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC 
KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP, RÈN LUYỆN CHO SINH VIÊN 
TẠI TRUNG TÂMGIÁO DỤC 
QUỐC PHÒNG-AN NINH, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
Trung tá Nguyễn Thế Hậu 
CNBM - Khoa Chính trị 
Nghị quyết số 29 - NQ/TW, hội nghị Ban chấp hành trung ương 8 khóa XI xác định: 
“Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào 
tạo, đảm bảo trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào 
tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin 
cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối 
kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy và tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà 
trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”. 
Trước yêu cầu hôị nhâp̣ càng sâu r ộng, viêc̣ nâng cao hi ệu quả công tác kiểm tra 
đánh giá và nhanh chóng hoàn thiêṇ môṭ hê ̣thống đánh giá kết quả hoc̣ tâp̣, rèn luyện 
chất lươṇg cao là môṭ yêu cầu tất yếu , vấn đề này laị càng có tầm quan troṇg đăc̣ biêṭ 
hơn. 
Kiểm tra đánh gi á là khâu then chốt của quá trình dạy học . Đây cũng là khâu quan 
trọng tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng đào tạo. Viêc̣ kiểm tra đánh giá 
khách quan , nghiêm túc , đúng cách , đúng hướng se ̃là đôṇg lưc̣ maṇh me ̃khích lê ̣sư ̣
vươn lên trong hoc̣ tâp̣ ,rèn luyện của sinh viên , thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng 
của sinh viên. 
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng -An ninh, ĐHQGHN chuyển mô hình đào tạo tập 
trung đến nay là 9 khóa, chính vì vậy hoạt động dạy và học môn GDQP&AN cho sinh viên 
được tiến hành tương đối bài bản, chất lượng dạy học ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên 
so với yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục chung của Trung tâm thì vẫn còn một số hạn 
chế,bất cập. Đáng quan tâm là chất lượng, hiệu quả học tập, rèn luyện của một số sinh viên 
vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được những đòi hỏi về chất lượngcũng như yêu cầu ngày càng 
cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể như: trình độ nắm kiến thức môn 
học của nhiều sinh viên còn yếu, phương pháp học tập còn chưa đổi mới, nhất là kỹ năng 
thực hành của đa số sinh viên còn rất hạn chế, tinh thần thái độ, động cơ, ý thức học tập, 
rèn luyện của sinh viên chưa thực sự tích cực 
1. Thưc̣ traṇg hê ̣thống đánh giá kết quả hoc̣ tâp̣ , rèn luyện ở Trung tâm hiêṇ 
nay 
Thực tế hiêṇ nay, măc̣ dù phương pháp đánh giá đa ̃có nhiều cải tiến tích cưc̣ nhưng 
vâñ còn nhiều vấn đề cần phải bàn để tiếp tuc̣ hoàn thiêṇ: 
Thực tiễn đánh giá trong dạy học môn GDQP&AN cho sinh viên ở Đại học Quốc 
Gia Hà Nội còn có lúc, có nơi, chưa mang tính hệ thống, chưa thực sự đánh giá đúng 
năng lực của sinh viên. Trước thực tế đó trong thời gian vừa qua Trung tâm đã có 
nhiều cố gắng trong việc đổi mới đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên 
như xây dựng hệ thống ngân hàng đề thi theo hướng mở, nội dung phủ kín các vấn đề 
học tập, đi kèm với nó là một hệ thống đáp án và thang đánh giá rất chi tiết, việc coi 
thi và chấm thi được kiểm soát một cách chặt chẽ.Nhưng theo nhận định của các cấp 
quản lý và của chính các lực lượng sư phạm trực tiếp tham gia đánh giá thì kết quả 
học tập, rèn luyện của sinh viên vẫn được đánh giá cao hơn so với khả năng của người 
học. Việc đánh giá hiện nay mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn quá nặng về đánh 
giá kiến thức. Vấn đề đánh giá kỹ năng, đánh giá khả năng tư duy, thái độ của sinh 
viên chưa được quan tâm đúng mức. Các phương pháp và hình thức kiểm tra chưa đa 
dạng, phong phú, dẫn đến thông tin thu thập được về phẩm chất, năng lực của sinh 
viên rất nghèo nàn, thiếu tính toàn diện, đánh giá chủ yếu vẫn tập trung vào kết quả 
học tập cuối cùng của sinh viên, việc đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của người 
học không được chú ý đúng mức. Mặt khác, kết quả kiểm tra đánh giá lại rất rời rạc, 
không được liên kết thành hệ thống mang tính quá trình. Vì vậy thông tin phản hồi từ 
kiểm tra đánh giá là rất ít có tác dụng rất ít điều chỉnh hoạt động dạy và học. 
 Phạm vi thi và kiểm tra : vâñ còn tình traṇg môn hoc̣ giới haṇ phaṃ vi hep̣ ch ỉ có 
trong giáo trình, do đó dâñ tới tình traṇg sinh viên hoc̣ tủ, học lệch, học đối phó và đặc biệt 
là không ghi chép bài. 
 Nôị dung thi và kiểm tra : các câu hỏi thi và kiểm tra còn trùng l ặp, thiếu sáng taọ . 
Nhiều câu hỏi chủ yếu là tái hiêṇ kiến thức lý thuyết , thâṃ chí ra đúng như đề muc̣ trong 
bài, vì vậy nhiều sinh viên bỏ tiết không đi họ c nhưng vâñ thi được là nhờ hoc̣ thuôc̣ lòng 
(học vẹt, không cần hiểu) hoăc̣ quay cóp. 
Ngoài ra một vấn đề nữa mà theo tôi cũng cần phải quan tâm đó là vẫn còn có tình 
trạng (măc̣ dù rất cá biêṭ ) giáo viên, khoa, bô ̣môn có tâm lý dê ̃daĩ trong vấn đề đánh giá 
sinh viên của mình, ảnh hưởng đến tính động viên thi đua trong sinh viên 
Mặt khác có nhi ều sinh viên thuộc đối tượng chính sách , nhiều sinh viên đ ến 
từthành thị, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nên khả năng nhận thức cũng khác 
nhau. Măṭ khác , mặt trái của cơ chế thị trường và các tê ̣naṇ xã h ội thường xuyên tác 
động, nên một số ít sinh viên bản tính thích tự do, ý thức tổ chức kỷ luật kém, tính tự giác 
không cao, ít tham gia hoạt động xã hội nay lại phải học tập tập trung như môi trường 
quân đội sẽ cảm thấy rất khó chịu và dẫn đến vi phạm kỷ luật 
Ngoài những năng lực nhận thức cơ bản về chuyên môn, phải rèn luyện cho 
sinh viên những kĩ năng sống, làm việc trong môi trường thực, luôn thay đổi và 
nhiều thử thách. Trong quá trình đào tạo ấy, việc kiểm tra - đánh giá kết quả học tập, 
rèn luyện - một khâu trọng yếu được tiến hành liên tục trong cả quá trình học tập. 
Chúng ta phải giúp sinh viên phát triển những kĩ năng, những năng lực trong 
cuộc sống thực, bối cảnh thực và những sinh viên tốt nghiệp phải trình diễn được 
những năng lực được đánh giá bằng các bài kiểm tra - đánh giá thực, chứ không phải 
chỉ là lý thuyết. 
Thưc̣ tế cũng cho thấy , môṭ bô ̣phâṇ lớn sinh viên đa ̃tốt nghiêp̣ vâñ chưa đươc̣ xa ̃
hôị chấp nhâṇ do không đủ năng lưc̣ để phuc̣ vu ̣đươc̣ các nhiêṃ vu ̣thưc̣ tế , mà sự bất 
câp̣ trong hê ̣thống đánh giá kết quả hoc̣ tâp̣ , rèn luyện là môṭ vấn đề rất đáng quan tâm . 
Vì vậy ta cần phải có các giải pháp như sau. 
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra , đánh giá kết quả hoc̣ tâp̣ , 
rèn luyện của sinh viên 
2.1 Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, xây dựng động cơ, thái độ học tập 
đúng đắn cho sinh viên, đồng thời thiết lập nội qui, qui định học tập, rèn luyện phù hợp. 
Sinh viên muốn học tập tốt phải có mục đích động cơ học tập trong sáng, đúng đắn 
có tính hướng đích cao. Theo đó, làm cho họ nảy sinh sự ham học, ham hiểu biết, tăng 
tính tự giác tích cực, tự lực say mê tìm tòi nghiên cứu, tạo ra động lực kích thích việc học 
tập; sinh viên không thể có hoạt động học tập đích thực và càng không thể có được kết 
quả học tập tốt nếu không có hoặc mục đích động cơ học tập không rõ ràng. 
Cần phải tăng cường việc giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò của học tập và 
thường xuyên thúc đẩy hoạt động học tập cho sinh viên bằng nhiều biện pháp thích hợp 
sẽ giúp duy trì hứng thú, tạo ra sự chú ý liên tục ở sinh viên, giúp họ có được ý chí, nghị 
lực vượt khó khăn, đạt tới mục tiêu học tập đã xác định. Để đạt được mục tiêu, ý nghĩa 
nêu trên, hoạt động quản lý của trung tâm cần phải tập trung vào những nội dung và cách 
thức thực hiện đó là: Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục định hướng tư tưởng, 
giúp sinh viên nhận thức đúng đắn về mục đích, mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ của giáo dục 
- đào tạo của nhà trường; vị trí vai trò, tầm quan trọng của việc học tập môn học với xã 
hội nói chung và đối với người học nói riêng. 
Ngay từ đầu khoá học, giáo dục động cơ, thái độ học tập cho sinh viên phải được đề 
cập đến như là một vấn đề trọng tâm, trọng điểm trong hoạt động của Trung tâm. Cần 
phải phổ biến đến toàn thể sinh viên về quy chế, quy định đào tạo của toàn khóa học do 
Giám đốc Trung tâm phê duyệt. Căn cứ mục tiêu đào tạo, chương trình kế hoạch môn 
học, đặc điểm, trình độ của bản thân sinh viên, cán bộ quản lý, giảng viên hướng dẫn sinh 
viên làm kế hoạch học tập cho toàn khóa học cho phù hợp, khoa học. 
Cần đa dạng các hình thức giáo dục về học tập cho sinh viên. Đặc biệt, thông qua 
các buổi sinh hoạt, tọa đàm tập thể, kết hợp, lồng ghép các nội dung thảo luận trao đổi về 
kinh nghiệm học tập, nhấn mạnh tầm quan trọng, ý nghĩa của hoạt động học tập. Để làm 
tốt việc này Trung tâm cần phải thể chế hoá hoạt động quản lý học tập, rèn luyện thành 
các quy định trong tổ chức và hoạt động của Trung tâm, các tổ bộ môn, các khoa và đội 
ngũ giáo viên. 
Chú trọng bồi dưỡng động cơ, ý chí học tập cho sinh viên, nhấn mạnh vai trò 
ngườihọc nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm của sinh viên là vươn lên để chiếm 
lĩnh tri thức. Động cơ, ý chí học tập cho sinh viên phải được cụ thể hoá trong các hành 
động cụ thể của người học, bằng hệ thống thái độ hành vi và kết quả học tập, rèn 
luyện. 
Phát huy vai trò đội ngũ giáo viên trongxây dựng động cơ, nâng cao ý thức học tập, 
rèn luyện cho sinh viên. Trong quá trình thực hiện kế hoạch giảng dạy người giáo viên 
luôn có sự định hướng về nhận thức và xây dựng tính quyết tâm cho sinh viên, tạo điều 
kiện giúp sinh viên ý thức và sẵn sàng thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ học tập. Do 
đó, người giảng viên phải phối hợp, vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ 
chức dạy học nhằm kích thích tính tích cực nhận thức và phát triển năng lực trí tuệ cho 
sinh viên; đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập, rèn 
luyện cho sinh viên, nhằm khích lệ động viên kịp thời những sinh viên có ý thức học tập 
và đạt kết quả cao trong học tập, rèn luyện và có những biện pháp chấn chỉnh, uốn nắn 
những sinh viên chưa tự giác hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện. Từ đó hình thành ở 
sinh viên niềm tin, sự hy vọng, kích thích tính tích cực nhận thức, ý chí phấn đấu vươn 
lên đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện. 
2.2. Phát huy vai trò của giảng viên trong quản lý hoạt động học tập, rèn luyện của sinh 
viên 
Mục tiêu dạy học môn học là một công cụ để quản lý hoạt độnghọc tập, rèn luyện 
của sinh viên.Điều 4 luật Giáo dục Quốc phòng và An ninh xác định mục tiêu “Giáo dục 
cho công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền 
thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, 
tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa”.Cũng trong luật này điều 12 khoản 2 xác định mục tiêu giáo dục cụ thể cho đối 
tượng sinh viên như sau: “Bảo đảm cho người học có kiến thức cơ bản về quan điểm của 
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh; xây dựng nền quốc 
phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế 
trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; bổ sung kiến thức về 
phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự; sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ 
quốc”. 
Căn cứ vào mục tiêu của môn học giảng viên cần xác định mục tiêu cụ thể cho từng 
bài học, đây là việc làm đầu tiên của mọi giảng viên trước khi tiến hành giảng dạy, họ 
phải thường xuyên đặt câu hỏi, sau khi lên lớp sinh viên sẽ rút ra được điều gì bổ ích, 
hiểu được một khái niệm, nắm được một số nội dung, hay thực hành được một kỹ 
năngnếu những câu hỏi đó không thường trực thì mọi hoạt động chỉ là làm cho hết giờ, 
giải trí đơn thuần không phải là dạy học. Song thông thường điều mong đợi đó lại tiềm ẩn 
không được bày tỏ như là việc cố nhiên, hoặc là được bày tỏ một cách chung chung và lơ 
mơ đến mức ta không thể hình dung được rõ ràng sản phẩm mong đợi. Mục tiêu bài học 
cần được diễn tả chính xác bằng thao tác mà sinh viên có thể thực hiện để đi đến kết quả. 
Để có thể xây dựng được mục tiêu bài học chính xác và có hiệu quả cần tuân thủ các yêu 
cầu như sau: (1) bao giờ mục tiêu cũng phải được diễn đạt theo chức năng người học chứ 
không phải theo chức năng người dạy, mở đầu một mục tiêu bao giờ cũng bằng ngôn từ “ 
sinh viên, người học sẽ có khả năng” bởi vì chính người học là chủ thể thực hiện mục 
tiêu để chiếm lĩnh một khả năng mới.(2) Mục tiêu phải có tính chất đặc thù, tức là khả 
năng nói trên phải được diễn đạt bằng một động từ đơn nghĩa - không cho phép diễn giải 
bằng nhiều cách khác nhau, mục tiêu phải chính xác đến mức làm cho giảng viên và sinh 
viên đều nhìn nhận sản phẩm mong đợi dưới cùng một dạng. (3) Kết quả mong đợi phải 
được diễn đạt dưới dạng hành vi có thể quan sát được. Kết quả mong đợi là “hiểu” thì 
phải diễn tả hành vi chứng tỏ sinh viên đã hiểu, bản thân sinh viên biết mình đã đạt được 
mục tiêu. (4) Xác đình trình độ thành công từ đó ta có thể thừa nhận “đã đạt được mục 
tiêu”, hay là xác định các tiêu chí thừa nhận thành công. 
- Nội dung biện pháp 
Một giảng viên hiệu quả lên kế hoạch và chuẩn bị tổ chức lớp học cũng cẩn thận và 
chính xác như chuẩn bị cho một giờ học có chất lượng. Các khâu trong việc tổ chức lớp 
học bao gồm sắp xếp phòng học, thiết lập trật tự, tạo ra các thói quen và lên kế hoạch dạy 
cho sinh viên biết về sự tổ chức đó. Người giảng viên hiệu quả là người có thể tiên lượng 
được những yếu tố gì có thể làm cho lớp học hoạt động một cách trôi chảy. Sự khác biệt 
chủ yếu giữa những giảng viên mới vào nghề và giảng viên có kinh nghiệm là giảng viên 
mới vào nghề thường có xu hướng đi thẳng vào nội dung bài học ngay những ngày học 
đầu tiên. Thực tiễn dạy học môn GDQP&AN chỉ ra rằng, thử thách lớn của những giảng 
viên mới vào nghề là họ không có khả năng duy trì trật tự lớp học. Tất cả những giảng 
viên trẻ và giảng viên giàu kinh nghiệm đều nhận thấy được những khó khăn trong việc 
quản lý lớp học và hiểu rằng đây là yếu tố cần thiết để giờ dạy có chất lượng. Giảng viên 
hiệu quả không chỉ là người biết làm thế nào để hỗ trợ sinh viên học tập thông qua kỹ 
thuật giảng dạy mà còn phải là người tạo ra được môi trường khuyến khích sinh viên 
hăng hái học tập. Để có thể làm được điều đó giảng viên cần phải biết áp dụng những kỹ 
năng về tổ chức và quản lý lớp học. 
Áp dụng những kỹ năng quản lý lớp học. Để quản lý lớp học thành công thì các nội 
qui và kỉ luật là chưa đủ. Các nghiên cứu về quản lý lớp học đã chứng tỏ rằng giảng viên 
hiệu quả nhanh thích ứng với cách sinh viên cư xử, họ lôi cuốn sinh viên vào quá trình 
thiết lập và duy trì nội quy và quy tắc ứng xử trên lớp học. Những giảng viên hiệu quả có 
các phản ứng đối với các vấn đề chung về trật tự lớp học nên họ có thể tập trung phần lớn 
thời gian và công sức vào quá trình dạy học. Sinh viên sẽ không muốn hoặc không có 
thời gian để vi phạm kỉ luật khi tham gia hăng say vào bài học. 
 Giảng viên có thể dự đoán về sự thăng hoa cũng như phút trùng xuống của buổi 
học và tạo ra những bối cảnh phù hợp với sự trầm mặc hay sôi động của sinh viên. Thái 
độ tích cực của sinh viên thể hiện sự chuẩn bị chu đáo của giảng viên. Thái độ tích cực 
này có tính lan truyền và có thể nhân rộng khắp cả lớp. Đề cập đến mối liên hệ giữa thái 
độ của giảng viên và thành tích của sinh viên, một số nghiên cứu cho thấy những sinh 
viên có giảng viên tích cực, nhiệt tình, biết tạo động lực sẽ học tập tốt hơn sinh viên của 
những giảng viên không thể hiện phẩm chất này. Các yếu tố của quản lý lớp học hiệu quả 
bao gồm việc tạo ra các nội quy và quy tắc ứng xử để hạn chế sự ngưng trệ và mất thời 
gian trong giờ học, duy trì được sự diễn biến và đa dạng trong thực hành giảng dạy, kiểm 
tra và nhận xét các hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên. Những yếu tố này giúp 
sinh viên tham gia chủ động vào quá trình học tập. 
Những kỹ năng quản lý lớp học của những giảng viên hiệu quả luôn bao gồm những 
yếu tố sau: nhất quán và linh hoạt trong quản lý lớp học; thiết lập các tiến trình hoạt động 
để sinh viên tuân theo khi thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày; tạo ra sự cân bằng giữa sự 
đa dạng và tính thử thách trong các hoạt động của sinh viên; nhận thức rõ ràng về tất cả 
các hành động và hoạt động diễn ra trong lớp học; tận dụng không gian, sự gần gũi hay 
sự di chuyển trong lớp học để tiếp cận những sinh viên có vấn đề và củng cố sự chú ý của 
sinh viên. 
Áp dụng các yếu tố tổ chức: các kỹ năng tổ chức xứng đáng có một vị trí quan trọng 
trong việc quản lý lớp học và giảng dạy hiệu quả. 
Để quản lý lớp học tốt giảng viên cần chú ý đến nhu cầu của tất cả các sinh viên 
trong lớp học, không nên chỉ chú ý đến một hoặc một nhóm sinh viên trong lớp mà quên 
các sinh viên khác. Cũng tương tự họ tập trung vào nhận xét một số sinh viên tích cực mà 
bỏ qua các sinh viên khác. Cách cư xử như vậy có nguy cơ làm tăng các hành vi vi phạm 
kỷ luật của sinh viên. Một cách khác để ngăn các hành vi tiêu cực là xây dựng mối quan 
hệ giữa giảng viên và sinh viên. Một phần vững chắc cho mối quan hệ này là sự tin cậy, 
nếu không có sự tin tưởng, sinh viên chỉ dồn sức vào việc tự bảo vệ mình và trốn tránh 
việc học tập, rèn luyện. 
Những giảng viên thiết lập nên các qui định và luôn sát sao với các chuẩn mực hành 
vi trong lớp học sẽ thành công hơn trong việc quản lý lớp học và không phải thường 
xuyên đương đầu với các vấn đề kỷ luật so với những giảng viên không làm được điều 
đó. Những giảng viên đó nhận ra rằng việc thiết lập các chuẩn mực hành vi cho sinh viên 
không kém phần quan trọng đối với việc học tập, rèn luyện của sinh viên so với việc hình 
thành các nguyên tắc trong học tập. Lôi cuốn sinh viên vào công tác thiết lập nội quy và 
kỷ luật lớp học ngay từ đầu khóa học là cách tiếp cận mà những giảng viên giàu kinh 
nghiệm sử dụng để đảm bảo cho sinh viên nhận ra được tầm quan trọng về vai trò của 
mình trong lớp học. Giảng viên cần xử lý thỏa đáng vấn đề kỷ luật đối với từng cá nhân 
thay vì bắt cả lớp phải chịu phạt, đồng thời phải hết sức nhất quán khi tiến hành xử lý các 
hành vi vi phạm kỷ luật. 
- Cách thực hiện biện pháp 
Tăng cường mối quan hệ thầy - trò: mối quan hệ thầy - trò là yếu tố cốt lõi cho 
những nhân tố khác. Nếu giảng viên có quan hệ tốt với sinh viên, thì sinh viên sẽ sẵn 
sàng chấp nhận những tác động sư phạm của giảng viên. Nếu không có nền tảng là một 
mối quan hệ tốt, sinh viên thường thờ ơ, không muốn tiếp nhận hoặc tệ hơn là có những 
hành vi quậy phá đi ngược lại các nội quy và quy tắc ứng xử. 
2.3Hoàn thiện nội dung và đổi mới phương pháp dạy học và thi kiểm tra tạo điều 
kiện cho sinh viên có chất lượng học tập, rèn luyện tốt nhất. 
Kết quả quan sát cho thấy tiết học đầu: có 95% sinh viên tập trung chú ý, lắng nghe, 
ghi chép bài cẩn thận. Nhưng vào tiết học thứ hai sinh viên có biểu hiện mệt mỏi, thiếu tập 
trung. Như vậy, chúng ta thấy việc sử dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học môn 
Giáo dục quốc phòng và an ninh thì tiết học đầu sinh viên có thái độ thích học và hành động 
học tập tích cực tương đối tốt. Nhưng chỉ sử dụng duy nhất phương pháp thuyết trình trong 
suốt một bài học thì sau tiết học đầu sinh viên có biểu hiện mất tập trung, mệt mỏi về tâm lý 
dẫn đến nói chuyện, làm việc riêng... trong giờ học. Vì vậy, giảng viên cần phải sử dụng 
phương pháp dạy học tích cực, đưa ra các vấn đề tình huống buộc sinh viên phải chủ động 
làm việc phát huy tính năng động chủ quan chứ không chỉ thụ động nghe và ghi chép. 
Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy rất rõ ràng mức độ áp dụng phương pháp truyền 
thống trong dạy học ở Trung tâm GDQP-AN còn cao. Một vài giảng viên trong Trung tâm 
bước đầu có vận dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề nhưng chưa nhiều và chưa hiệu 
quả. Từ kết quả phân tích trên, tôi xin đề xuất ba vấn đề sau: 
Một là, đội ngũ giảng viên của Trung tâm GDQP-AN, Đại học Quốc Gia Hà Nội 
cần phải sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học, chú trọng các phương pháp dạy học 
theo quan điểm dạy học tích cực, mà cụ thể là phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. 
Hai là, phải đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả trong dạy học như 
kiểm tra tại lớp bằng các bài tập cá nhân, bài tập nhóm, tiểu luận cá nhân, nêu câu hỏi 
nhiều hơn... và cuối cùng là thi hết học phần, môn học kiểm tra bằng trắc nghiệm hay 
thực hành. Mặt khác, Trung tâm nên xem xét và sắp xếp số lượng sinh viên trong lớp học 
phù hợp. 
Ba là, đổi mới phương pháp phải gắn liền với đổi mới về cơ chế, chính sách. Thực 
tế cho thấy việc giảng viên ngại sử dụng các phương pháp dạy tích cực vì phải tốn nhiều 
thời gian, công sức và trí tuệ, song nếu như đơn vị không có chính sách động viên, 
khuyến khích, ưu đãi gì thì giảng viên cũng rất ngại đổi mới. Qua kết quả nghiên cứu cho 
thấy tình trạng giáo viên sử dụng phương pháp truyền thống còn rất nhiều... nguyên nhân 
dẫn đến tình trạng trên một phần là do khách quan. Tuy nhiên, cũng phải kể đến nguyên 
nhân chủ quan đó là do chính giáo viên không tích cực đổi mới. 
Tóm lại, Trong Trung tâm chúng ta đang coi trọng quan tâm đến lượng kiến thức 
mà sinh viên thu nhận được chứ ít khi đánh giá được họ sẽ sử dụng những kiến thức đó 
trong cuộc sống ra sao. Do vậy, đánh giá truyền thống dùng để đánh giá sự tiếp nhận kiến 
thức, kỹ năng của sinh viên và thường được xây dựng từ những câu hỏi nhiều lựa chọn và 
một số câu tự luận kiến tạo. Ngược lại, đánh giá thực bao gồm những nhiệm vụ như trình 
diễn, sản phẩm và cả những câu hỏi kiến tạo đòi hỏi sinh viên có sự vận dụng trực tiếp 
kiến thức, kỹ năng vào đời sống thực. 
Đánh giá thực không loại trừ đánh giá truyền thống mà chỉ là sự bổ sung hoàn hảo 
giúp người dạy cũng như người học gắn kết những kiến thức, kỹ năng được học với cuộc 
sống thực, giúp người học có ý thức hơn với những nhiệm vụ mà họ sẽ phải thực hiện 
trong thực tiễn. Quá trình dạy học trong Trung tâm cũng nhờ đó mà trở nên sống động 
hơn, giảng viên sẽ tìm tòi, sáng tạo hơn để tìm ra các bài tập hay, hỗ trợ sinh viên thực 
hiện các nhiệm vụ đó. Sinh viên sẽ khát khao hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức, rèn 
luyện kỹ năng để làm một việc có ý nghĩa hơn ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. 
Nâng cao chất lươṇg giảng daỵ nói chung là môṭ vấn đề r ất quan trọng. Tuy nhiên, 
không phải vì thế mà chúng ta phải tiế n hành môṭ cách vôị vàng , mà phải coi đó là 
phương châm giáo duc̣, là chiến lược giáo dục cần kiên tr ì thực hiện lâu dài đồng bô .̣ Đặc 
biêṭ, nếu đươc̣ các cấp lañh đaọ quan tâm đầu tư thích đáng , đươc̣ cán bô ̣giảng viên nhâṇ 
thức sâu sắc và hưởng ứng hơp̣ tác thì chắc chắn se ̃thành công ./. 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_nang_cao_hieu_qua_cong_tac_kiem_tra_danh_gia_ket_q.pdf