Giáo trình Giáo dục học đại cương (Phần 2)
I. KHÁI NIỆM CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC
- Trong giáo dục học, các phạm trù lí luận đã được xác định tương quan với nội dung và
cấu trúc của các quá trình giáo dục. Các quá trình giáo dục đều diễn ra theo trình tự : mục tiêu, nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhưng trong thực tiễn hoạt động giáo dục,
các phạm trù này thường thâm nhập, đan xen lẫn nhau, rất khó tách bạch như trong lý luận (ví dụ
như giữa nội dung và phương pháp tổng quát, giữa phương pháp và các biện pháp, cách thức tổ
chức thực hiện các hoạt động giáo dục).
Hơn thế nữa, thực chất toàn bộ quá trình giáo dục đều nhằm vào việc hình thành và phát
triển nhân cách con người theo mục đích giáo dục đã xác định. Nhân cách con người có được đó
chính là sản phẩm của các hoạt động tích cực của con người.
Do đó, phạm trù hoạt động chính là phạm trù có tính xuất phát, đồng thời chính là cơ sở để
xác định con đường giáo dục thích hợp. Có nghĩa là, nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển
thông qua các dạng hoạt động, với “những con đường khác nhau”.
- Như vậy, Con đường giáo dục không chỉ là một phạm trù lí luận mà chính là sự thể hiện
tổng hợp việc tổ chức thực hiện các hoạt động thực tiễn giáo dục và tự giáo dục của con người
nhằm giúp con người lĩnh hội một cách tích cực, sáng tạo các giá trị văn hoá xã hội đồng thời góp
phần sáng tạo nên các giá trị mới cho đời sống xã hội.
Từ cách hiểu này chúng ta thấy khái niệm về con đường giáo dục là một khái niệm rộng,
nhấn mạnh đến sự tổ chức hoạt động sáng tạo, năng động của con người, hướng tới mục đích giáo
dục đã định, vừa lĩnh hội các giá trị văn hoá đã có vừa sáng tạo nên các giá trị mới để phục vụ đời
sống.
Việc xác định đúng con đường giáo dục thực chất là việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo
nguyên lí giáo dục : “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội” trong giai đoạn mới, từ đó làm cho nguyên tắc, phương pháp giáo dục, các hình
thức tổ chức hoạt động giáo dục trở nên mềm dẻo, thích ứng với trình độ phát triển chung của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật và công nghệ,
dân trí, nguồn lực tạo nên : một xã hội học tập, mọi người đi học, học thường xuyên, học
suốt đời.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Giáo dục học đại cương (Phần 2)
30 CHƯƠNG 4 KHÁI QUÁT VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC I. KHÁI NIỆM CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC - Trong giáo dục học, các phạm trù lí luận đã được xác định tương quan với nội dung và cấu trúc của các quá trình giáo dục. Các quá trình giáo dục đều diễn ra theo trình tự : mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhưng trong thực tiễn hoạt động giáo dục, các phạm trù này thường thâm nhập, đan xen lẫn nhau, rất khó tách bạch như trong lý luận (ví dụ như giữa nội dung và phương pháp tổng quát, giữa phương pháp và các biện pháp, cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục). Hơn thế nữa, thực chất toàn bộ quá trình giáo dục đều nhằm vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người theo mục đích giáo dục đã xác định. Nhân cách con người có được đó chính là sản phẩm của các hoạt động tích cực của con người. Do đó, phạm trù hoạt động chính là phạm trù có tính xuất phát, đồng thời chính là cơ sở để xác định con đường giáo dục thích hợp. Có nghĩa là, nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển thông qua các dạng hoạt động, với “những con đường khác nhau”. - Như vậy, Con đường giáo dục không chỉ là một phạm trù lí luận mà chính là sự thể hiện tổng hợp việc tổ chức thực hiện các hoạt động thực tiễn giáo dục và tự giáo dục của con người nhằm giúp con người lĩnh hội một cách tích cực, sáng tạo các giá trị văn hoá xã hội đồng thời góp phần sáng tạo nên các giá trị mới cho đời sống xã hội. Từ cách hiểu này chúng ta thấy khái niệm về con đường giáo dục là một khái niệm rộng, nhấn mạnh đến sự tổ chức hoạt động sáng tạo, năng động của con người, hướng tới mục đích giáo dục đã định, vừa lĩnh hội các giá trị văn hoá đã có vừa sáng tạo nên các giá trị mới để phục vụ đời sống. Việc xác định đúng con đường giáo dục thực chất là việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo nguyên lí giáo dục : “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” trong giai đoạn mới, từ đó làm cho nguyên tắc, phương pháp giáo dục, các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trở nên mềm dẻo, thích ứng với trình độ phát triển chung của xã hội trên tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật và công nghệ, dân trí, nguồn lực tạo nên : một xã hội học tập, mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. II. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC Giáo dục là quá trình tác động để hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo mục đích xã hội. Quá trình này được thực hiện bằng các con đường quan trọng sau đây. 1. Giáo dục thông qua dạy học Một trong những con đường quan trọng nhất để giáo dục thế hệ trẻ là đưa học sinh vào học tập trong các nhà trường. Hoạt động dạy và học là hoạt động đặc trưng của nhà trường. “Học là công việc của cả một đời người”; dạy học được xem như là một diễn tiến vị thế xã hội của con người vì qua đó, con người luôn luôn hoạt động và phát triển. Quá trình dạy học diễn ra theo chiều hướng hội nhập văn hoá – xã hội. Trong xã hội phát triển cao thì trong đó “mỗi cá nhân sẽ lần lượt là người dạy lẫn người học”. Thông qua các dạng hoạt động dạy học với các phương pháp phong phú, đa dạng, chất lượng học tập (đào tạo) ngày càng được nâng cao, học sinh không những tiếp thu các hệ thống giá trị loài người đã có mà còn “ góp phần sáng tạo ra những giá trị mới”. Có nghĩa là thông qua con đường dạy học – con đường quan trọng nhất, học sinh sẽ phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực hoạt động sáng tạo, nhân cách được hoàn thiện. 31 Chẳng hạn, thông qua việc giảng dạy các môn học sẽ : - Giúp học sinh hình thành thế giới quan và nhân sinh quan, đây chính là sản phẩm của nhận thức khoa học và hoạt động xã hội, hiểu được nguồn cội đất nước và sự phát triển của lịch sử Việt Nam, từ đó tạo nên lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, tạo lập thói quen tư duy, hành động theo chân lý, lẽ phải. - Giúp học sinh nhận thức được những khái niệm cơ bản về văn hoá thẩm mỹ, nhận ra giá trị đích thực của nền văn minh nhân loại, giá trị cuộc sống chân chính. - Giáo dục học sinh cả về kiến thức, thái độ và kỹ năng lao động sáng tạo, ý thức vận dụng khoa học vào đời sống. Như vậy, dạy học là con đường giáo dục chủ động, ngắn nhất và có hiệu quả, giúp thế hệ trẻ tránh được những mò mẫm, vấp váp trong cuộc đời. Do đó, dạy học là con đường quan trọng nhất trong tất cả các con đường giáo dục. Muốn cho việc dạy học đạt chất lượng và hiệu quả cao đòi hỏi phải tạo ra “môi trường kiến thức” thích hợp, trong đó hứng thú, nhu cầu học tập được khơi dậy, được định hướng đúng đắn đối với mọi người; mọi dạng hoạt động phải có trọng tâm, ưu tiên cho chất lượng; bảo đảm cho việc chuyển từ học đơn thuần tri thức sang mặt phát triển cả về trí tuệ, thể chất, tình cảm, xã hội và đạo đức đồng thời việc giảng dạy, học tập không thể tiến hành tách biệt với các hoạt động khác. 2. Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng. Toàn bộ cuộc sống của con người là một hệ thống liên tục các hoạt động và con người lớn lên cùng với các hoạt động đó. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách phát triển như thế ấy. Hoạt động tích cực là con đường để tiến thân, thành đạt và vươn tới hạnh phúc. Vì thế, đưa con người vào các dạng hoạt động thực tế phong phú và đa dạng là con đường giáo dục tốt và hiệu quả cao. Con người sống có nhiều dạng hoạt động như lao động sản xuất, hoạt động xã hội, vui chơi giải ttrí Mỗi dạng hoạt động có những nét đặc thù và đều có tác dụng giáo dục. Thứ nhất, Vui chơi là hình thức hoạt động giải trí nhưng có ý nghĩa giáo dục to lớn. Vui chơi được thực hiện thông qua các trò chơi phù hợp với mọi lứa tuổi như : Thể dục thể thao, hoạt động văn hoá, văn nghệ, trò chơi trí tuệ sáng tạo - Thông qua hoạt động thể dục thể thao để hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong luyện tập, rèn luyện thân thể, tăng cường sức khoẻ, sức bền và sự dẻo dai cơ thể, cơ thể phát triển cân đối, hài hoà, tạo nên sự nhanh nhạy và ý chí cá nhân. - Thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ như : tổ chức các cuộc kỷ niệm lịch sử, các lễ hội dân tộc để giáo dục truyền thống dân tộc; xây dựng một môi trường văn hoá lành mạnh trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội với nếp sống văn minh, tình cảm đẹp giữa mọi người với nhau sẽ mang ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh. Nghệ thuật là một biểu hiện cao nhất của các quan hệ thẩm mỹ trong đời sống xã hội. Nghệ thuật có chức năng nhận thức, tình cảm và giải trí. Các chức năng này đem lại cho con người niềm vui, lạc quan, tác động đến tư tưởng đạo đức và thế giới quan. Trong nhà trường, hoạt động nghệ thuật với các loại hình : văn học, văn hoá dân gian, nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, sân khấu bằng các hoạt động cụ thể như : các cuộc thi, biểu diễn văn nghệ vào các ngày lễ lớn, thi học sinh thanh lịch, thời trang học đường, nữ sinh tương lai, chương trình hoạt động giành cho sinh viên (SV), tiếng hát sinh viên sẽ tạo cho học sinh, sinh viên giảm bớt căng thẳng sau hoạt động học tập, hoà nhập với đời sống xã hội, bồi dưỡng năng lực nhận thức, cảm thụ và sáng tạo cái đẹp. - Thông qua các trò chơi trí tuệ như : cờ vua (vừa là trò chơi trí tuệ vừa là môn thể dục thể thao), Đường lên đỉnh Olimpia, Kính vạn hoa, để bồi dưỡng trí thông minh, tính tổ chức, kết hợp học với hành. Đối với sinh viên có cuộc thi “sáng tạo Robot”.v.v... Thứ hai, Lao động sản xuất là một hoạt động quan trọng để giáo dục học sinh thói quen lao động, thích ứng, năng động, sáng tạo trong cuộc sống với nhiều loại hình lao động. 32 Trước hết là lao động tự phục vụ : Phục vụ cho sinh hoạt và học tập của cá nhân, tự phục vụ cho lớp, trường : trực nhật lớp học, vệ sinh trường lớp hàng tuần, sửa chữa thông thường. Thứ hai, lao động công ích như vệ sinh làng xóm, đường phố, lao động giúp đỡ người già cô đơn, gia đình thương binh liệt sĩLao động công ích vừa mang giá trị giáo dục đạo đức vừa giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức cộng đồng. Thứ ba, lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, đối với loại hình này vừa tạo cho học sinh tìm cách áp dụng kiến thức vào cuộc sống, vừa thử nghiệm, tìm ra phương pháp lao động sáng tạo. - Tổ chức cho học sinh tham quan sản xuất để tận mắt quan sát quá trình sản xuất hàng hoá, quan sát các cơ sở có trình độ công nghệ cao để các em tiếp xúc với công nghệ tiên tiến, với những người lao động có trình độ kỹ thuật cao từ đó giáo dục tâm lý, ý thức, vừa học tập kỹ thuật vừa có xu hướng chọn nghề hoặc bước vào cuộc sống lao động. Thứ ba, Tổ chức các hoạt động xã hội Hiện nay, công tác giáo dục cũng đang được phát triển theo hướng xã hội hoá. Hoạt động xã hội là một dạng hoạt động thực tiễn tạo cho con người có được mối quan hệ xã hội đa dạng phong phú. Thông qua các hoạt động xã hội làm cho nhận thức của học sinh về con người, về xã hội càng dần được hoàn thiện. Đồng thời, thông qua hoạt động xã hội, bản lĩnh của mỗi cá nhân càng được khẳng định, vững vàng, cá tính, bản sắc riêng cũng càng ngày càng đậm nét hơn. Do tính phức tạp của hoạt động xã hội đòi hỏi con người phải cố gắng tìm ra các giải pháp hợp lý, do đó trí thông minh sáng tạo, tinh thần khéo léo, linh hoạt, tế nhị, văn hoá được hình thành. Như vậy, tham gia các hoạt động xã hội, sự hiểu biết về thế giới và cuộc sống xã hội được mở mang, kinh nghiệm hoạt động được tích luỹ, tính tích cực xã hội được hình thành – đó chính là con đường tổ chức giáo dục có hiệu quả. 3. Giáo dục thông qua hoạt động tập thể (sinh hoạt tập thể). Tổ chức cho học sinh sinh hoạt tập thể là một hoạt động giáo dục quan trọng của nhà trường. Tập thể là một tập hợp nhiều cá nhân cùng nhau hoạt động theo một mục đích tốt đẹp. Hai yếu tố quan trọng của tập thể có ý nghĩa giáo dục lớn là chế độ sinh hoạt và dư luận tập thể. Chế độ sinh hoạt tập thể hợp lý, với kỷ luật nghiêm, hoạt động có kế hoạch, có tổ chức và nề nếp sẽ tạo thói quen sống có văn hoá, hình thành ý chí và nghị lực cho học sinh. Dư luận tập thể lành mạnh luôn trợ giúp con người nhận thức những điều tốt đẹp, điều chỉnh hành vi cuộc sống có văn hóa. Trong hoạt động tập thể, các cá nhân cùng nhau hoạt động, tinh thần đoàn kết, tình thân ái, tính hợp tác cộng đồng được hình thành. Đó là những phẩm chất quan trọng của nhân cách. Trong sinh hoạt tập thể, một mặt các cá nhân tác động lẫn nhau, mặt khác sự tác động của nhà sư phạm thông qua tập thể, đến tập thể sẽ tạo thành tác động tổng hợp có tác dụng giáo dục rất lớn. Tập thể vừa là môi trường, vừa là phương tiện giáo dục con người, tổ chức tốt các hoạt động tập thể là con đường giáo dục đúng đắn. Muốn vậy, nhà trường và các nhà sư phạm cần : - Xây dựng tốt các mối quan hệ tập thể (quan hệ tình cảm, quan hệ chức năng, quan hệ trách nhiệm công việc và quan hệ tổ chức thể hiện bằng nội quy, kỷ luật tập thể). - Tổ chức các hoạt động đa dạng trong tập thể. - Xây dựng các viễn cảnh trong tương lai cho tập thể. Việc xây dựng viễn cảnh xuất phát từ mục tiêu giáo dục của lớp, của trường từ đó đem lại niềm vui, hy vọng cho con người. Nếu không xác định mục đích cần đến trong tương lai, con người sẽ rơi vào tình trạng mất phương hướng. - Xây dựng truyền thống tốt đẹp cho tập thể, chẳng hạn như : Truyền thống học tập giỏi, truyền thống lao động, truyền thống văn nghệ, thể dục thể thao giỏi; mỗi loại truyền thống đều có ý nghĩa giáo dục riêng. 33 - Xây dựng và hướng dẫn dư luận lành mạnh. Dư luận có sức mạnh điều chỉnh các mối quan hệ trong tập thể. Dư luận tập thể lành mạnh là một nhân tố quan trọng, có tác dụng lớn đến sự phát triển của các cá nhân và cả tập thể. - Tổ chức phong trào thi đua trong lớp, trường. Ngày nay, yêu cầu giáo dục trong tập thể cần được tiếp cận với những yêu cầu mới, hướng hoạt động của tập thể vào những mục tiêu rộng lớn hơn đến tinh thần “Giáo dục nhân văn, vì sự hiểu biết quốc tế”, làm cho con người không chỉ gắn với các tập thể nhỏ bé mà vươn tới cuộc sống trên bình diện quốc tế và lợi ích của nhân loại. 4. Tự giáo dục. Nhân cách được hình thành và phát triển bằng nhiều con đường trong đó có sự tự giáo dục hay còn gọi là tự tu dưỡng. Tự tu dưỡng biểu hiện ý thức và tính tích cực cao nhất của cá nhân đối với cuộc sống. Tự tu dưỡng được thực hiện khi cá nhân đã đạt tới một trình độ phát triển nhất định, khi đã tích luỹ được những kinh nghiệm sống, những tri thức phong phú. Tự tu dưỡng là kết quả của quá trình giáo dục, là sản phẩm của nhận thức và sự tạo lập của thói quen hành vi, là bước tiếp theo và quyết định kết quả đạt được của quá trình giáo dục. Tự giáo dục bắt đầu bằng việc xây dựng các mục tiêu lý tưởng cho tương lai, tiếp đó là tìm các biện pháp và quyết tâm thực hiện mục tiêu đã xác định, thường xuyên tự kiểm tra các kết quả và phương thức thực hiện, tìm các giải pháp sáng tạo mới, xác định quyết tâm mới để hoàn thiện bản thân. Mỗi con người là sản phẩm của chính mình, tự giáo dục chính là phương pháp tự khẳng định. Tóm lại, trong thực tế giáo dục, các con đường giáo dục chính là sự “tích hợp” giữa nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục, hướng vào việc thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo dục của nhà trường. Thông qua các hoạt động dạy học, giáo dục và tự giáo dục, các năng lực và các phẩm chất nhân cách của học sinh được hình thành và phát triển ngày càng cao. - Nhà trường trong cơ chế mới phải hết sức năng động, tự điều chỉnh, thích ứng với các nhân tố mới, yêu cầu mới luôn luôn nảy sinh trong đời sống xã hội. Nhà trường cần phát huy vị trí, vai trò là trung tâm văn hoá – giáo dục ở địa phương thu hút và kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo định hướng chung, đó là “đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”. Các con đường giáo dục không phải là riêng rẽ, tách rời mà là một hệ thống gắn bó, thống nhất, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Phối hợp tốt các con đường giáo dục chính là nguyên tắc và cũng là nghệ thuật giáo dục. III. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC. Việc thực hiện các con đường giáo dục phải tiến hành theo các phương pháp giáo dục để đạt tới mục đích giáo dục đã xác định. Phương pháp giáo dục là cách thức tác động của nhà sư phạm đến đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách cần thiết. Phương pháp giáo dục rất đa dạng, phong phú, nhà giáo dục cần phải vận dụng linh hoạt hệ thống phương pháp này cho phù hợp với mục đích, đối tượng và từng tình huống giáo dục cụ thể. Phương pháp giáo dục cũng chính là nghệ thuật giáo dục. Các phương pháp giáo dục chia thành 3 nhóm : - Nhóm phương pháp thuyết phục. - Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động. - Nhóm phương pháp kích thích hành vi. 1. Nhóm phương pháp thuyết phục. Thuyết phục là nhóm các phương pháp tác động vào mặt nhận thức và tình cảm của con người để hình thành cho họ ý thức và thái độ tốt đẹp đối với cuộc sống. Thuyết phục là phương pháp thu phục nhân tâm, giúp con người nhận ra cái chân, thiện, mỹ để sống và hành động theo lẽ phải. 34 Thuyết phục gồm các phương pháp cụ thể sau : 1.1. Phương pháp kh ... ười thầy. Nhiệm vụ này được thực hiện theo một số yêu cầu sau đây: 58 + Trau dồi lòng yêu nghề, yêu thương học sinh, luôn hành động “Tất cả vì học sinh thân yêu”. + Giáo viên chủ nhiệm thực sự mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ đối với học sinh lớp đang chủ nhiệm mà còn đối với gia đình, đồng nghiệp, cộng đồng, là một công dân mẫu mực (yêu cầu này được thể hiện ở mọi cử chỉ, ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu hiện của giáo viên khi có mặt hay không có mặt học sinh). + Giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm theo dõi tình hình thời sự, chính trị trong và ngoài nước một cách thường xuyên. Đây là điều rất dễ hiểu bởi mọi diễn biến phong phú, đa dạng trên mọi mặt của đời sống xã hội trong và ngoài nước luôn tác động vào tâm hồn, nhận thức của học sinh, ngoài các bậc cha mẹ thì giáo viên chủ nhiệm là người giúp các em nhận xét, lựa chọn thông tin và điều chỉnh nhận thức, hành vi một cách đáng tin cậy nhất. Đặc biệt đối với bản thân giáo viên, việc cập nhật thông tin cũng là để làm phong phú nhận thức xã hội của mình, từ đó để điều chỉnh thích ứng với cuộc sống luôn vận động và phát triển. 2.5. Nhiệm vụ thứ năm, giáo viên chủ nhiệm luôn không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, nhằm đổi mới công tác giáo dục, dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường phổ thông. Nhiệm vụ này của giáo viên chủ nhiệm cũng chính là yêu cầu đối với người giáo viên về năng lực sư phạm và kỹ năng sư phạm đã nghiên cứu tại mục 4, 5 phần IV ở trên. 2.6. Giáo viên chủ nhiệm phải là người tổ chức liên kết các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, thống nhất để thực hiện được mục tiêu, nội dung giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm. Đây là nhiệm vụ rất đặc trưng giáo viên chủ nhiệm bởi nó thể hiện vai trò, chức năng tổ chức quản lý của người giáo viên chủ nhiệm. Tóm lại, trong quá trình giáo dục ở nhà trường trung học phổ thông, người giáo viên chủ nhiệm lớp giữ vị trí nòng cốt trong việc giáo dục toàn diện đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Tuổi học sinh trung học phổ thông là tuổi của những ước mơ; tuổi 15 đến 18 là tuổi của “thế giới thứ ba” – tồn tại giữa tuổi trẻ em và tuổi người lớn. Giáo viên chủ nhiệm cần hiểu rõ đặc điểm học sinh ở tuổi này để có những biện pháp, cách thức giáo dục học sinh thích hợp nhất, mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Bởi vì, muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được học sinh, muốn cảm hóa được học sinh thì bản thân người thầy phải hòa nhập với các em để hiểu được tâm lý, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Và để cảm hóa được học sinh, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm có lý tưởng nghề nghiệp đúng đắn, có chuyên môn vững vàng, có “tay nghề” cao, có sự khéo léo đối xử sư phạm, có uy tín đối với học sinh và cha mẹ học sinh và thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Nếu như ở bậc tiểu học, mỗi lớp do một giáo viên phụ trách, công tác của giáo viên tiểu học có tính đặc thù đó là: giáo viên vừa đảm đương giảng dạy tất cả các môn học, vừa giáo dục học sinh trong nội khóa, ngoại khóa và quản lý giáo dục toàn diện học sinh ở một lớp; thì ở bậc trung học phổ thông, công tác dạy học, giáo dục học sinh được tiến hành với nội dung ngày càng toàn diện hơn, phong phú hơn, sâu sắc hơn và hệ thống hơn. Các môn học đưa vào nhà trường với sự phân hóa ngày càng sâu. Việc dạy học và giáo dục học sinh không chỉ do một giáo viên đảm đương mà do cả một tập thể sư phạm (gồm các giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm) phụ trách. Học sinh ở mỗi lớp đồng thời được học với nhiều giáo viên khác nhau. Vấn đề đặt ra là, ai sẽ là người đứng ra phối hợp hoạt động của tất cả giáo viên dạy trong một lớp và với các lực lượng giáo dục khác. Đó là giáo viên chủ nhiệm. Do đó, nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học phổ thông có đặc thù của nó. 59 1. Nội dung và phương pháp công tác giáo viên chủ nhiệm với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. 1.1. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục: Học sinh vừa là đối tượng giáo dục, vừa là chủ thể hành động có ý thức, năng động, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải hiểu một cách toàn diện, cụ thể và sâu sắc đối với cả cá nhân và tập thể học sinh. Cụ thể, phải tìm hiểu và nắm được đặc điểm về tâm lý, tư tưởng, tình cảm, ý thức chính trị, đạo đức, năng lực nhận thức, thể lực, hoàn cảnh sống và các mối quan hệ với tập thể, với những người xung quanh.v.v Qua đó để thấy được mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh cũng như của tập thể lớp. Cách thức tiến hành: + Nghiên cứu hồ sơ học sinh (học bạ, lý lịch, y bạ). + Nghiên cứu sản phẩm hoạt động như học tập, lao động của học sinh (bài kiểm tra, báo tường, sản phẩm lao động khác). + Nghiên cứu hồ sơ, sổ sách của lớp. + Quan sát hàng ngày về hoạt động, thái độ, hành vi của học sinh (trong và ngoài lớp; trong và ngoài trường). + Đàm thoại với cá nhân và tập thể học sinh, với các giáo viên bộ môn, cán bộ đoàn thể về vấn đề quan tâm. + Thăm gia đình học sinh và trò chuyện với phụ huynh học sinh. + Tìm hiểu thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ. + Hoặc là tiến hành thực nghiệm tự nhiên. + Giáo viên ghi nhật ký chủ nhiệm. Nhờ cách làm như vậy mà thông tin thu thập được sẽ phong phú, cụ thể, có độ tin cậy để có biện pháp giáo dục thích hợp. 1.2. Xây dựng và phát triển tập thể học sinh: Tập thể vừa là môi trường vừa là phương tiện để giáo dục học sinh. Xây dựng tập thể học sinh vững mạnh phải trải qua 3 giai đoạn: - Giai đoạn giáo viên đề ra yêu cầu thống nhất cho tập thể học sinh. - Giai đoạn xuất hiện những phần tử tích cực xung quanh giáo viên. - Giai đoạn cả tập thể tự giác đề ra yêu cầu, biến yêu cầu bên ngoài thành nhu cầu bên trong của bản thân tập thể và tập thể có nhu cầu thực hiện tốt mục đích, yêu cầu đã đặt ra. Chú ý, ở cả ba giai đoạn này tất cả các hoạt động đều gắn liền với việc tổ chức phong trào thi đua tập thể theo từng đợt với những chủ đề nhất định mang ý nghĩa giáo dục (20/11; 22/12; 8/3; 26/3; 19/5) Trong quá trình xây dựng tập thể, giáo viên cần phát huy ở học sinh tình cảm tập thể, tình cảm thầy trò; gây được dư luận lành mạnh, phát huy được truyền thống của lớp, trường đồng thời chú ý đề phòng tình trạng một số học sinh liên kết với nhau thành nhóm tự phát có những hành vi không trong sáng hoặc là rất có thể xuất hiện phần tử tiêu cực, gây mất đoàn kết nội bộ lớp. Nếu xẩy ra, giáo viên phải tìm hiểu nguyên nhân, bản chất để tuyệt đối không được cô lập các em, đẩy các em xa rời tập thể. 1.3. Giáo dục thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức nhân cách cho học sinh. - Giáo dục thế giới quan khoa học phải kết hợp thông qua giáo viên bộ môn trong quá trình dạy và học các môn học. - Nghe báo cáo thời sự, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn, lao động công ích, cắm trại - Đánh giá của giáo viên chủ nhiệm kết hợp tự đánh giá của học sinh. (tránh cảm tính, thiên vị, đòi hỏi phải khách quan, công bằng, công khai). 1.4. Nâng cao thành tích học tập của học sinh. - Học tập là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của học sinh. - Tổ chức nhóm học tập, thành lập cán sự bộ môn. - Có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém. 60 1.5. Giáo dục lao động và hướng nghiệp. - Lao động vừa sức, mang tính chất phục vụ học sinh, lớp, trường, gia đình. Chú ý đến cả hiệu quả giáo dục và hiệu quả kinh tế. - Hướng nghề phù hợp với sở thích, năng lực bản thân và yêu cầu xã hội, không chạy theo model nghề. 1.6. Tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, rèn luyện - Thể dục thể thao, tham quan, cắm trại, xem triển lãm, hội diễn văn nghệ - Giữ gìn vệ sinh môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội. 1.7. Phối hợp công tác với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài trường. - Phối hợp với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. - Kết nghĩa với đơn vị, cơ quan gần trường (lực lượng vũ trang, các đoàn thể, doanh nghiệp đóng ở địa phương). 2. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm với các giáo viên khác. - Giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên giảng dạy hợp thành tập thể sư phạm. - Giáo viên chủ nhiệm là hạt nhân tập hợp lực lượng này để giáo dục học sinh. - Giáo viên chủ nhiệm theo dõi sổ sách của lớp, dự giờ của lớp chủ nhiệm khi học các bộ môn khác, từ đó tạo ra thông tin ngược cho giáo viên bộ môn để cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với trình độ của lớp. - Khi giáo viên chủ nhiệm đánh giá học sinh, tập thể lớp cần tham khảo ý kiến nhận xét của giáo viên bộ môn cho lớp mình. 3. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm với cha mẹ học sinh. - Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường giáo dục đầu tiên của học sinh – cha mẹ có ảnh hưởng sâu sắc đến trẻ cả khi đã trưởng thành. Gia đình trở thành một bộ phận hữu cơ trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. - Việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình, vai trò này thuộc về giáo viên chủ nhiệm lớp. - Giáo viên chủ nhiệm làm cho các bậc phụ huynh nắm được mục đích giáo dục của nhà trường. - Thống nhất với gia đình về yêu cầu giáo dục (thông qua các cuộc họp phụ huynh đầu năm học, cuối học kỳ 1, cuối năm học). - Có sổ liên lạc giữa nhà trường với gia đình. - Họp phụ huynh định kỳ: đầu năm, cuối học kỳ I, cuối năm học. - Có kế hoạch đi thăm gia đình học sinh (nên có báo trước). - Thành lập hội cha mẹ học sinh (lớp, trường). 4. Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm: 4.1. Ý nghĩa: - Việc lập kế hoạch công tác chủ nhiệm là thể hiện sự làm việc có tính khoa học. - Bản kế hoạch thể hiện tính nghiêm túc, tính sáng tạo của mỗi giáo viên chủ nhiệm. 4.2. Trước khi lập kế hoạch, giáo viên chủ nhiệm cần nắm chắc và xử lý tốt các thông tin sau đây: + mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của trường. + đặc điểm của học sinh trong lớp, truyền thống của lớp, khó khăn, hạn chế của lớp. + đặc điểm gia đình học sinh (chú ý đến cha mẹ). + mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của các tổ chức đoàn thể. + đặc điểm địa phương nơi trường đóng 4.3. Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm: 61 a- Đặc điểm của nhà trường, của lớp trong năm học. b- Mục tiêu phấn đấu và các nhiệm vụ chung của lớp. c- Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể; biện pháp thực hiện; điều kiện cần thiết về vật chất – kỹ thuật; tài chính; nhân lực; thời gian thực hiện và hoàn thành; người phụ trách Ứng với từng mặt hoạt động của lớp (giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức; học tập; lao động và hướng nghiệp; văn nghệ, thể dục thể thao; vệ sinh; vui chơi giải trí; hoạt động xã hội); ứng với công tác các giáo viên bộ môn, đoàn thể, hội phụ huynh; với chính quyền cơ quan đoàn thể ở địa phương d- Bản kế hoạch công tác chủ nhiệm được xây dựng từ đầu năm học tất nhiên không tránh khỏi những hạn chế do những biến động hoàn cảnh thực tế mang lại. Do đó, giáo viên chủ nhiệm cần điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch bằng cách linh hoạt, sáng tạo trong việc cụ thể hóa kế hoạch từng tuần, tháng, học kỳ, hoặc theo chủ đề. KẾT LUẬN Công tác chủ nhiệm lớp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giáo dục toàn diện học sinh. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm lớp không những phải nêu cao tấm gương sáng về mọi mặt mà còn phải không ngừng nâng cao trình độ tổ chức, quản lý, giáo dục của mình, đảm bảo cho kế hoạch công tác được thực hiện với kết quả cao nhất, góp phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục của toàn trường. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Quan niệm của anh, chị về người giáo viên và nghề dạy học? 2. Vai trò, nhiệm vụ của người thầy giáo Việt Nam? 3. Phân tích các đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo? 4. Những yêu cầu đối với người thầy giáo Việt Nam hiện nay? 5. Hiểu biết của anh, chị về nghệ thuật sư phạm? 6. Để trở thành người giáo viên, tại sao anh hay chị phải nghiên cứu về Nhà trường và Người giáo viên ? 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn An, Bùi Kim Phượng, Giáo dục học, Trường ĐHSP Tp.Hồ Chí Minh, 1996 2. Hoàng Anh (chủ biên), Hoạt động Giao tiếp Nhân cách, NXB ĐH Sư phạm, 2007 3. Nguyễn Ngọc Bảo, Thực hành giáo dục học, NXB Giáo dục, 1991 4. Phan Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo dục, 2006 5. Babanxki Iu.K, Giáo dục học, NXB Giáo dục Matxcơva, 1985 6. Phan Bình, Văn hoá - Giáo dục - Con người và Xã hội, NXB Giáo dục, 2000 7. Nguyễn Hữu Châu, Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học, NXB Giáo dục, 2005 8. Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức, Đặng Quốc Bảo Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện đại hoá, NXB Giáo dục, 2007 9. Bùi Hiền, , Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển Bách khoa, 2001 10. Bùi Văn Huệ (chủ biên), Nghệ thuật ứng xử sư phạm, NXBĐH Sư phạm, H, 2003 11. Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, Giáo dục học đại cương, NXB Giáo dục, 1999 12. Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục, NXB Giáo dục, 2004 13. Phạm Khải (dịch), Ian.P. McGREAL, Những tư tưởng gia vĩ đại phương Đông, NXB Lao động, 2005 14. Nguyễn Dương Khư, Chân dung các nhà tâm lý, giáo dục thế giới thế kỷ XX, NXB Giáo dục, 1997 15. Hà Thế Ngữ, Giáo dục học T1, NXB Giáo dục, 1987 16. Hà Thế Ngữ, Giáo dục học – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 17. Hà Thế Ngữ, Đặng Văn Đình, Giáo dục học, NXB Giáo dục, 1991 18. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Giáo dục học, NXB Giáo dục, H, 1987 19. Nguyễn Văn Nhật (dịch), Ken Bain, Phẩm chất của những nhà giáo ưu tú, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2008 20. Võ Thuần Nho (tổng chủ biên), Những vấn đề về giáo dục học, T1, NXB Giáo dục, 1983 21. Jean Piaget, Tâm lý học và Giáo dục học, NXB Giáo dục, 1999 22. Tống Văn Quán, Nguyễn Quang Thuấn (dịch), Jean. Mare De nommé Madeleine Roy, POUR UNE PÉDAGOGIE ITERACTIVE – Latriade étudiant – enseignant – environnemet NXB Thanh niên, 2000 23. Lê Minh Quốc, Danh nhân sư phạm Việt Nam, NXB Trẻ, 1998 24. Nguyễn Công Tâm (biên soạn), Nghệ thuật giáo dục, NXB Trẻ 1998 25. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) Lịch sử giáo dục Việt Nam, NXB Giáo dục, 1996 26. Hà Nhật Thăng, Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, NXB Giáo dục, 2000 27. Hà Nhật Thăng, Phương pháp công tác của người giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học phổ thông, NXB ĐHQG Hà Nội, 2004 28. Hà Nhật Thăng, Đào Thanh Âm, Lịch sử giáo dục thế giới, NXB Giáo dục, 1998 29. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 30. Dương Thiệu Tống, Suy nghĩ về văn hoá giáo dục Việt Nam, NXB Trẻ, 2000 31. Bùi Quang Tú (biên soạn), Những mẩu chuyện về quản lý giáo dục, NXB Trẻ, 2002 32. Thái Duy Tuyên, Giáo dục học hiện đại, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 33. Phan Thế Sủng, Lưu Xuân Mới, Tình huống và cách ứng xử tình huống trong quản lý giáo dục và đào tạo, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 34. Phạm Viết Vượng, Giáo dục học, NXB ĐHQG Hà Nội, 2000 35. Phạm Viết Vượng, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, Bộ GD&ĐT, H, 2001 36. Luật giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005 37. Tạp chí Giáo dục (ra hàng tháng) – Bộ Giáo dục và Đào tạo.
File đính kèm:
- giao_trinh_giao_duc_hoc_dai_cuong_phan_2.pdf