Giáo trình Giáo dục học đại cương (Phần 2)

I. KHÁI NIỆM CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC

- Trong giáo dục học, các phạm trù lí luận đã được xác định tương quan với nội dung và

cấu trúc của các quá trình giáo dục. Các quá trình giáo dục đều diễn ra theo trình tự : mục tiêu, nội

dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhưng trong thực tiễn hoạt động giáo dục,

các phạm trù này thường thâm nhập, đan xen lẫn nhau, rất khó tách bạch như trong lý luận (ví dụ

như giữa nội dung và phương pháp tổng quát, giữa phương pháp và các biện pháp, cách thức tổ

chức thực hiện các hoạt động giáo dục).

Hơn thế nữa, thực chất toàn bộ quá trình giáo dục đều nhằm vào việc hình thành và phát

triển nhân cách con người theo mục đích giáo dục đã xác định. Nhân cách con người có được đó

chính là sản phẩm của các hoạt động tích cực của con người.

Do đó, phạm trù hoạt động chính là phạm trù có tính xuất phát, đồng thời chính là cơ sở để

xác định con đường giáo dục thích hợp. Có nghĩa là, nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển

thông qua các dạng hoạt động, với “những con đường khác nhau”.

- Như vậy, Con đường giáo dục không chỉ là một phạm trù lí luận mà chính là sự thể hiện

tổng hợp việc tổ chức thực hiện các hoạt động thực tiễn giáo dục và tự giáo dục của con người

nhằm giúp con người lĩnh hội một cách tích cực, sáng tạo các giá trị văn hoá xã hội đồng thời góp

phần sáng tạo nên các giá trị mới cho đời sống xã hội.

Từ cách hiểu này chúng ta thấy khái niệm về con đường giáo dục là một khái niệm rộng,

nhấn mạnh đến sự tổ chức hoạt động sáng tạo, năng động của con người, hướng tới mục đích giáo

dục đã định, vừa lĩnh hội các giá trị văn hoá đã có vừa sáng tạo nên các giá trị mới để phục vụ đời

sống.

Việc xác định đúng con đường giáo dục thực chất là việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo

nguyên lí giáo dục : “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn

liền với xã hội” trong giai đoạn mới, từ đó làm cho nguyên tắc, phương pháp giáo dục, các hình

thức tổ chức hoạt động giáo dục trở nên mềm dẻo, thích ứng với trình độ phát triển chung của xã

hội trên tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật và công nghệ,

dân trí, nguồn lực tạo nên : một xã hội học tập, mọi người đi học, học thường xuyên, học

suốt đời.

pdf 33 trang yennguyen 5900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục học đại cương (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Giáo dục học đại cương (Phần 2)

Giáo trình Giáo dục học đại cương (Phần 2)
 30 
CHƯƠNG 4 
KHÁI QUÁT VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC 
I. KHÁI NIỆM CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC 
 - Trong giáo dục học, các phạm trù lí luận đã được xác định tương quan với nội dung và 
cấu trúc của các quá trình giáo dục. Các quá trình giáo dục đều diễn ra theo trình tự : mục tiêu, nội 
dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhưng trong thực tiễn hoạt động giáo dục, 
các phạm trù này thường thâm nhập, đan xen lẫn nhau, rất khó tách bạch như trong lý luận (ví dụ 
như giữa nội dung và phương pháp tổng quát, giữa phương pháp và các biện pháp, cách thức tổ 
chức thực hiện các hoạt động giáo dục). 
 Hơn thế nữa, thực chất toàn bộ quá trình giáo dục đều nhằm vào việc hình thành và phát 
triển nhân cách con người theo mục đích giáo dục đã xác định. Nhân cách con người có được đó 
chính là sản phẩm của các hoạt động tích cực của con người. 
 Do đó, phạm trù hoạt động chính là phạm trù có tính xuất phát, đồng thời chính là cơ sở để 
xác định con đường giáo dục thích hợp. Có nghĩa là, nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển 
thông qua các dạng hoạt động, với “những con đường khác nhau”. 
 - Như vậy, Con đường giáo dục không chỉ là một phạm trù lí luận mà chính là sự thể hiện 
tổng hợp việc tổ chức thực hiện các hoạt động thực tiễn giáo dục và tự giáo dục của con người 
nhằm giúp con người lĩnh hội một cách tích cực, sáng tạo các giá trị văn hoá xã hội đồng thời góp 
phần sáng tạo nên các giá trị mới cho đời sống xã hội. 
 Từ cách hiểu này chúng ta thấy khái niệm về con đường giáo dục là một khái niệm rộng, 
nhấn mạnh đến sự tổ chức hoạt động sáng tạo, năng động của con người, hướng tới mục đích giáo 
dục đã định, vừa lĩnh hội các giá trị văn hoá đã có vừa sáng tạo nên các giá trị mới để phục vụ đời 
sống. 
 Việc xác định đúng con đường giáo dục thực chất là việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo 
nguyên lí giáo dục : “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn 
liền với xã hội” trong giai đoạn mới, từ đó làm cho nguyên tắc, phương pháp giáo dục, các hình 
thức tổ chức hoạt động giáo dục trở nên mềm dẻo, thích ứng với trình độ phát triển chung của xã 
hội trên tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật và công nghệ, 
dân trí, nguồn lực tạo nên : một xã hội học tập, mọi người đi học, học thường xuyên, học 
suốt đời. 
II. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC 
 Giáo dục là quá trình tác động để hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo mục đích xã 
hội. Quá trình này được thực hiện bằng các con đường quan trọng sau đây. 
1. Giáo dục thông qua dạy học 
 Một trong những con đường quan trọng nhất để giáo dục thế hệ trẻ là đưa học sinh vào học 
tập trong các nhà trường. 
 Hoạt động dạy và học là hoạt động đặc trưng của nhà trường. “Học là công việc của cả 
một đời người”; dạy học được xem như là một diễn tiến vị thế xã hội của con người vì qua đó, con 
người luôn luôn hoạt động và phát triển. 
 Quá trình dạy học diễn ra theo chiều hướng hội nhập văn hoá – xã hội. Trong xã hội phát 
triển cao thì trong đó “mỗi cá nhân sẽ lần lượt là người dạy lẫn người học”. Thông qua các dạng 
hoạt động dạy học với các phương pháp phong phú, đa dạng, chất lượng học tập (đào tạo) ngày 
càng được nâng cao, học sinh không những tiếp thu các hệ thống giá trị loài người đã có mà còn “ 
góp phần sáng tạo ra những giá trị mới”. Có nghĩa là thông qua con đường dạy học – con đường 
quan trọng nhất, học sinh sẽ phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là 
năng lực hoạt động sáng tạo, nhân cách được hoàn thiện. 
 31 
 Chẳng hạn, thông qua việc giảng dạy các môn học sẽ : 
 - Giúp học sinh hình thành thế giới quan và nhân sinh quan, đây chính là sản phẩm của 
nhận thức khoa học và hoạt động xã hội, hiểu được nguồn cội đất nước và sự phát triển của lịch sử 
Việt Nam, từ đó tạo nên lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, tạo lập thói quen tư 
duy, hành động theo chân lý, lẽ phải. 
 - Giúp học sinh nhận thức được những khái niệm cơ bản về văn hoá thẩm mỹ, nhận ra giá 
trị đích thực của nền văn minh nhân loại, giá trị cuộc sống chân chính. 
 - Giáo dục học sinh cả về kiến thức, thái độ và kỹ năng lao động sáng tạo, ý thức vận dụng 
khoa học vào đời sống. 
 Như vậy, dạy học là con đường giáo dục chủ động, ngắn nhất và có hiệu quả, giúp thế hệ 
trẻ tránh được những mò mẫm, vấp váp trong cuộc đời. Do đó, dạy học là con đường quan trọng 
nhất trong tất cả các con đường giáo dục. 
 Muốn cho việc dạy học đạt chất lượng và hiệu quả cao đòi hỏi phải tạo ra “môi trường kiến 
thức” thích hợp, trong đó hứng thú, nhu cầu học tập được khơi dậy, được định hướng đúng đắn 
đối với mọi người; mọi dạng hoạt động phải có trọng tâm, ưu tiên cho chất lượng; bảo đảm cho 
việc chuyển từ học đơn thuần tri thức sang mặt phát triển cả về trí tuệ, thể chất, tình cảm, xã hội 
và đạo đức đồng thời việc giảng dạy, học tập không thể tiến hành tách biệt với các hoạt động 
khác. 
2. Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng. 
 Toàn bộ cuộc sống của con người là một hệ thống liên tục các hoạt động và con người lớn 
lên cùng với các hoạt động đó. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách phát triển như thế 
ấy. Hoạt động tích cực là con đường để tiến thân, thành đạt và vươn tới hạnh phúc. Vì thế, đưa 
con người vào các dạng hoạt động thực tế phong phú và đa dạng là con đường giáo dục tốt và hiệu 
quả cao. 
 Con người sống có nhiều dạng hoạt động như lao động sản xuất, hoạt động xã hội, vui 
chơi giải ttrí Mỗi dạng hoạt động có những nét đặc thù và đều có tác dụng giáo dục. 
Thứ nhất, Vui chơi là hình thức hoạt động giải trí nhưng có ý nghĩa giáo dục to lớn. Vui chơi 
được thực hiện thông qua các trò chơi phù hợp với mọi lứa tuổi như : Thể dục thể thao, hoạt động 
văn hoá, văn nghệ, trò chơi trí tuệ sáng tạo 
 - Thông qua hoạt động thể dục thể thao để hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong luyện tập, rèn 
luyện thân thể, tăng cường sức khoẻ, sức bền và sự dẻo dai cơ thể, cơ thể phát triển cân đối, hài 
hoà, tạo nên sự nhanh nhạy và ý chí cá nhân. 
 - Thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ như : tổ chức các cuộc kỷ niệm lịch sử, các 
lễ hội dân tộc để giáo dục truyền thống dân tộc; xây dựng một môi trường văn hoá lành mạnh 
trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội với nếp sống văn minh, tình cảm đẹp giữa mọi người 
với nhau sẽ mang ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh. 
 Nghệ thuật là một biểu hiện cao nhất của các quan hệ thẩm mỹ trong đời sống xã hội. 
Nghệ thuật có chức năng nhận thức, tình cảm và giải trí. Các chức năng này đem lại cho con 
người niềm vui, lạc quan, tác động đến tư tưởng đạo đức và thế giới quan. Trong nhà trường, hoạt 
động nghệ thuật với các loại hình : văn học, văn hoá dân gian, nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, sân 
khấu bằng các hoạt động cụ thể như : các cuộc thi, biểu diễn văn nghệ vào các ngày lễ lớn, thi 
học sinh thanh lịch, thời trang học đường, nữ sinh tương lai, chương trình hoạt động giành cho 
sinh viên (SV), tiếng hát sinh viên sẽ tạo cho học sinh, sinh viên giảm bớt căng thẳng sau hoạt 
động học tập, hoà nhập với đời sống xã hội, bồi dưỡng năng lực nhận thức, cảm thụ và sáng tạo 
cái đẹp. 
 - Thông qua các trò chơi trí tuệ như : cờ vua (vừa là trò chơi trí tuệ vừa là môn thể dục thể 
thao), Đường lên đỉnh Olimpia, Kính vạn hoa, để bồi dưỡng trí thông minh, tính tổ chức, kết hợp 
học với hành. Đối với sinh viên có cuộc thi “sáng tạo Robot”.v.v... 
Thứ hai, Lao động sản xuất là một hoạt động quan trọng để giáo dục học sinh thói quen lao 
động, thích ứng, năng động, sáng tạo trong cuộc sống với nhiều loại hình lao động. 
 32 
 Trước hết là lao động tự phục vụ : Phục vụ cho sinh hoạt và học tập của cá nhân, tự phục 
vụ cho lớp, trường : trực nhật lớp học, vệ sinh trường lớp hàng tuần, sửa chữa thông thường. 
 Thứ hai, lao động công ích như vệ sinh làng xóm, đường phố, lao động giúp đỡ người già 
cô đơn, gia đình thương binh liệt sĩLao động công ích vừa mang giá trị giáo dục đạo đức vừa 
giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức cộng đồng. 
 Thứ ba, lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, đối với loại hình này vừa tạo cho học 
sinh tìm cách áp dụng kiến thức vào cuộc sống, vừa thử nghiệm, tìm ra phương pháp lao động 
sáng tạo. 
 - Tổ chức cho học sinh tham quan sản xuất để tận mắt quan sát quá trình sản xuất hàng 
hoá, quan sát các cơ sở có trình độ công nghệ cao để các em tiếp xúc với công nghệ tiên tiến, với 
những người lao động có trình độ kỹ thuật cao từ đó giáo dục tâm lý, ý thức, vừa học tập kỹ thuật 
vừa có xu hướng chọn nghề hoặc bước vào cuộc sống lao động. 
Thứ ba, Tổ chức các hoạt động xã hội 
 Hiện nay, công tác giáo dục cũng đang được phát triển theo hướng xã hội hoá. Hoạt động 
xã hội là một dạng hoạt động thực tiễn tạo cho con người có được mối quan hệ xã hội đa dạng 
phong phú. Thông qua các hoạt động xã hội làm cho nhận thức của học sinh về con người, về xã 
hội càng dần được hoàn thiện. Đồng thời, thông qua hoạt động xã hội, bản lĩnh của mỗi cá nhân 
càng được khẳng định, vững vàng, cá tính, bản sắc riêng cũng càng ngày càng đậm nét hơn. 
 Do tính phức tạp của hoạt động xã hội đòi hỏi con người phải cố gắng tìm ra các giải pháp 
hợp lý, do đó trí thông minh sáng tạo, tinh thần khéo léo, linh hoạt, tế nhị, văn hoá được hình 
thành. 
 Như vậy, tham gia các hoạt động xã hội, sự hiểu biết về thế giới và cuộc sống xã hội được 
mở mang, kinh nghiệm hoạt động được tích luỹ, tính tích cực xã hội được hình thành – đó chính 
là con đường tổ chức giáo dục có hiệu quả. 
3. Giáo dục thông qua hoạt động tập thể (sinh hoạt tập thể). 
 Tổ chức cho học sinh sinh hoạt tập thể là một hoạt động giáo dục quan trọng của nhà 
trường. Tập thể là một tập hợp nhiều cá nhân cùng nhau hoạt động theo một mục đích tốt đẹp. Hai 
yếu tố quan trọng của tập thể có ý nghĩa giáo dục lớn là chế độ sinh hoạt và dư luận tập thể. 
 Chế độ sinh hoạt tập thể hợp lý, với kỷ luật nghiêm, hoạt động có kế hoạch, có tổ chức và 
nề nếp sẽ tạo thói quen sống có văn hoá, hình thành ý chí và nghị lực cho học sinh. 
 Dư luận tập thể lành mạnh luôn trợ giúp con người nhận thức những điều tốt đẹp, điều 
chỉnh hành vi cuộc sống có văn hóa. 
 Trong hoạt động tập thể, các cá nhân cùng nhau hoạt động, tinh thần đoàn kết, tình thân ái, 
tính hợp tác cộng đồng được hình thành. Đó là những phẩm chất quan trọng của nhân cách. Trong 
sinh hoạt tập thể, một mặt các cá nhân tác động lẫn nhau, mặt khác sự tác động của nhà sư phạm 
thông qua tập thể, đến tập thể sẽ tạo thành tác động tổng hợp có tác dụng giáo dục rất lớn. 
 Tập thể vừa là môi trường, vừa là phương tiện giáo dục con người, tổ chức tốt các hoạt 
động tập thể là con đường giáo dục đúng đắn. 
 Muốn vậy, nhà trường và các nhà sư phạm cần : 
 - Xây dựng tốt các mối quan hệ tập thể (quan hệ tình cảm, quan hệ chức năng, quan hệ 
trách nhiệm công việc và quan hệ tổ chức thể hiện bằng nội quy, kỷ luật tập thể). 
 - Tổ chức các hoạt động đa dạng trong tập thể. 
 - Xây dựng các viễn cảnh trong tương lai cho tập thể. Việc xây dựng viễn cảnh xuất phát 
từ mục tiêu giáo dục của lớp, của trường từ đó đem lại niềm vui, hy vọng cho con người. Nếu 
không xác định mục đích cần đến trong tương lai, con người sẽ rơi vào tình trạng mất phương 
hướng. 
 - Xây dựng truyền thống tốt đẹp cho tập thể, chẳng hạn như : Truyền thống học tập giỏi, 
truyền thống lao động, truyền thống văn nghệ, thể dục thể thao giỏi; mỗi loại truyền thống đều có 
ý nghĩa giáo dục riêng. 
 33 
 - Xây dựng và hướng dẫn dư luận lành mạnh. Dư luận có sức mạnh điều chỉnh các mối 
quan hệ trong tập thể. Dư luận tập thể lành mạnh là một nhân tố quan trọng, có tác dụng lớn đến 
sự phát triển của các cá nhân và cả tập thể. 
 - Tổ chức phong trào thi đua trong lớp, trường. 
 Ngày nay, yêu cầu giáo dục trong tập thể cần được tiếp cận với những yêu cầu mới, hướng 
hoạt động của tập thể vào những mục tiêu rộng lớn hơn đến tinh thần “Giáo dục nhân văn, vì sự 
hiểu biết quốc tế”, làm cho con người không chỉ gắn với các tập thể nhỏ bé mà vươn tới cuộc sống 
trên bình diện quốc tế và lợi ích của nhân loại. 
4. Tự giáo dục. 
 Nhân cách được hình thành và phát triển bằng nhiều con đường trong đó có sự tự giáo dục 
hay còn gọi là tự tu dưỡng. 
 Tự tu dưỡng biểu hiện ý thức và tính tích cực cao nhất của cá nhân đối với cuộc sống. Tự 
tu dưỡng được thực hiện khi cá nhân đã đạt tới một trình độ phát triển nhất định, khi đã tích luỹ 
được những kinh nghiệm sống, những tri thức phong phú. 
 Tự tu dưỡng là kết quả của quá trình giáo dục, là sản phẩm của nhận thức và sự tạo lập của 
thói quen hành vi, là bước tiếp theo và quyết định kết quả đạt được của quá trình giáo dục. 
 Tự giáo dục bắt đầu bằng việc xây dựng các mục tiêu lý tưởng cho tương lai, tiếp đó là tìm 
các biện pháp và quyết tâm thực hiện mục tiêu đã xác định, thường xuyên tự kiểm tra các kết quả 
và phương thức thực hiện, tìm các giải pháp sáng tạo mới, xác định quyết tâm mới để hoàn thiện 
bản thân. Mỗi con người là sản phẩm của chính mình, tự giáo dục chính là phương pháp tự khẳng 
định. 
 Tóm lại, trong thực tế giáo dục, các con đường giáo dục chính là sự “tích hợp” giữa nội 
dung, phương pháp và hình thức giáo dục, hướng vào việc thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo dục 
của nhà trường. Thông qua các hoạt động dạy học, giáo dục và tự giáo dục, các năng lực và các 
phẩm chất nhân cách của học sinh được hình thành và phát triển ngày càng cao. 
- Nhà trường trong cơ chế mới phải hết sức năng động, tự điều chỉnh, thích ứng với các 
nhân tố mới, yêu cầu mới luôn luôn nảy sinh trong đời sống xã hội. Nhà trường cần phát huy vị 
trí, vai trò là trung tâm văn hoá – giáo dục ở địa phương thu hút và kết hợp mọi nguồn lực, mọi 
lực lượng tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo định hướng chung, đó là “đào tạo bồi dưỡng 
nguồn lực con người cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”. 
Các con đường giáo dục không phải là riêng rẽ, tách rời mà là một hệ thống gắn bó, thống 
nhất, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Phối hợp tốt các con đường giáo dục chính là nguyên tắc và cũng 
là nghệ thuật giáo dục. 
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC. 
Việc thực hiện các con đường giáo dục phải tiến hành theo các phương pháp giáo dục để 
đạt tới mục đích giáo dục đã xác định. 
Phương pháp giáo dục là cách thức tác động của nhà sư phạm đến đối tượng giáo dục để 
hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách cần thiết. 
Phương pháp giáo dục rất đa dạng, phong phú, nhà giáo dục cần phải vận dụng linh hoạt 
hệ thống phương pháp này cho phù hợp với mục đích, đối tượng và từng tình huống giáo dục cụ 
thể. Phương pháp giáo dục cũng chính là nghệ thuật giáo dục. 
Các phương pháp giáo dục chia thành 3 nhóm : 
- Nhóm phương pháp thuyết phục. 
- Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động. 
- Nhóm phương pháp kích thích hành vi. 
1. Nhóm phương pháp thuyết phục. Thuyết phục là nhóm các phương pháp tác động vào 
mặt nhận thức và tình cảm của con người để hình thành cho họ ý thức và thái độ tốt đẹp đối với 
cuộc sống. 
 Thuyết phục là phương pháp thu phục nhân tâm, giúp con người nhận ra cái chân, thiện, 
mỹ để sống và hành động theo lẽ phải. 
 34 
 Thuyết phục gồm các phương pháp cụ thể sau : 
1.1. Phương pháp kh ... ười thầy. 
 Nhiệm vụ này được thực hiện theo một số yêu cầu sau đây: 
 58 
 + Trau dồi lòng yêu nghề, yêu thương học sinh, luôn hành động “Tất cả vì học sinh thân 
yêu”. 
 + Giáo viên chủ nhiệm thực sự mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ 
không chỉ đối với học sinh lớp đang chủ nhiệm mà còn đối với gia đình, đồng nghiệp, cộng đồng, 
là một công dân mẫu mực (yêu cầu này được thể hiện ở mọi cử chỉ, ăn mặc, nói năng, đi đứng, 
thái độ biểu hiện của giáo viên khi có mặt hay không có mặt học sinh). 
 + Giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm theo dõi tình hình thời sự, chính trị trong và ngoài 
nước một cách thường xuyên. 
 Đây là điều rất dễ hiểu bởi mọi diễn biến phong phú, đa dạng trên mọi mặt của đời sống xã 
hội trong và ngoài nước luôn tác động vào tâm hồn, nhận thức của học sinh, ngoài các bậc cha mẹ 
thì giáo viên chủ nhiệm là người giúp các em nhận xét, lựa chọn thông tin và điều chỉnh nhận 
thức, hành vi một cách đáng tin cậy nhất. 
 Đặc biệt đối với bản thân giáo viên, việc cập nhật thông tin cũng là để làm phong phú 
nhận thức xã hội của mình, từ đó để điều chỉnh thích ứng với cuộc sống luôn vận động và phát 
triển. 
2.5. Nhiệm vụ thứ năm, giáo viên chủ nhiệm luôn không ngừng học tập nâng cao trình độ 
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, nhằm đổi mới công tác giáo dục, dạy học, góp phần nâng cao 
chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường phổ thông. 
 Nhiệm vụ này của giáo viên chủ nhiệm cũng chính là yêu cầu đối với người giáo viên về 
năng lực sư phạm và kỹ năng sư phạm đã nghiên cứu tại mục 4, 5 phần IV ở trên. 
2.6. Giáo viên chủ nhiệm phải là người tổ chức liên kết các lực lượng giáo dục trong và 
ngoài nhà trường để xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, thống nhất để thực hiện được 
mục tiêu, nội dung giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm. 
 Đây là nhiệm vụ rất đặc trưng giáo viên chủ nhiệm bởi nó thể hiện vai trò, chức năng tổ 
chức quản lý của người giáo viên chủ nhiệm. 
Tóm lại, trong quá trình giáo dục ở nhà trường trung học phổ thông, người giáo viên chủ 
nhiệm lớp giữ vị trí nòng cốt trong việc giáo dục toàn diện đối với sự hình thành và phát triển 
nhân cách của học sinh. Tuổi học sinh trung học phổ thông là tuổi của những ước mơ; tuổi 15 đến 
18 là tuổi của “thế giới thứ ba” – tồn tại giữa tuổi trẻ em và tuổi người lớn. Giáo viên chủ nhiệm 
cần hiểu rõ đặc điểm học sinh ở tuổi này để có những biện pháp, cách thức giáo dục học sinh 
thích hợp nhất, mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Bởi vì, muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu 
được học sinh, muốn cảm hóa được học sinh thì bản thân người thầy phải hòa nhập với các em để 
hiểu được tâm lý, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. 
Và để cảm hóa được học sinh, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm có lý tưởng nghề nghiệp đúng 
đắn, có chuyên môn vững vàng, có “tay nghề” cao, có sự khéo léo đối xử sư phạm, có uy tín đối 
với học sinh và cha mẹ học sinh và thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. 
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM 
 Nếu như ở bậc tiểu học, mỗi lớp do một giáo viên phụ trách, công tác của giáo viên tiểu 
học có tính đặc thù đó là: giáo viên vừa đảm đương giảng dạy tất cả các môn học, vừa giáo dục 
học sinh trong nội khóa, ngoại khóa và quản lý giáo dục toàn diện học sinh ở một lớp; thì ở bậc 
trung học phổ thông, công tác dạy học, giáo dục học sinh được tiến hành với nội dung ngày càng 
toàn diện hơn, phong phú hơn, sâu sắc hơn và hệ thống hơn. Các môn học đưa vào nhà trường với 
sự phân hóa ngày càng sâu. Việc dạy học và giáo dục học sinh không chỉ do một giáo viên đảm 
đương mà do cả một tập thể sư phạm (gồm các giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm) phụ 
trách. Học sinh ở mỗi lớp đồng thời được học với nhiều giáo viên khác nhau. Vấn đề đặt ra là, ai 
sẽ là người đứng ra phối hợp hoạt động của tất cả giáo viên dạy trong một lớp và với các lực 
lượng giáo dục khác. Đó là giáo viên chủ nhiệm. Do đó, nội dung và phương pháp công tác của 
giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học phổ thông có đặc thù của nó. 
 59 
1. Nội dung và phương pháp công tác giáo viên chủ nhiệm với tập thể học sinh 
 lớp chủ nhiệm. 
1.1. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục: Học sinh vừa là đối tượng giáo dục, vừa là chủ 
thể hành động có ý thức, năng động, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải hiểu một cách toàn diện, cụ 
thể và sâu sắc đối với cả cá nhân và tập thể học sinh. 
 Cụ thể, phải tìm hiểu và nắm được đặc điểm về tâm lý, tư tưởng, tình cảm, ý thức chính 
trị, đạo đức, năng lực nhận thức, thể lực, hoàn cảnh sống và các mối quan hệ với tập thể, với 
những người xung quanh.v.v Qua đó để thấy được mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh cũng 
như của tập thể lớp. 
 Cách thức tiến hành: 
 + Nghiên cứu hồ sơ học sinh (học bạ, lý lịch, y bạ). 
 + Nghiên cứu sản phẩm hoạt động như học tập, lao động của học sinh (bài kiểm tra, báo 
tường, sản phẩm lao động khác). 
 + Nghiên cứu hồ sơ, sổ sách của lớp. 
 + Quan sát hàng ngày về hoạt động, thái độ, hành vi của học sinh (trong và ngoài lớp; 
trong và ngoài trường). 
 + Đàm thoại với cá nhân và tập thể học sinh, với các giáo viên bộ môn, cán bộ đoàn thể về 
vấn đề quan tâm. 
 + Thăm gia đình học sinh và trò chuyện với phụ huynh học sinh. 
 + Tìm hiểu thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ. 
 + Hoặc là tiến hành thực nghiệm tự nhiên. 
 + Giáo viên ghi nhật ký chủ nhiệm. 
 Nhờ cách làm như vậy mà thông tin thu thập được sẽ phong phú, cụ thể, có độ tin cậy để 
có biện pháp giáo dục thích hợp. 
1.2. Xây dựng và phát triển tập thể học sinh: 
 Tập thể vừa là môi trường vừa là phương tiện để giáo dục học sinh. 
 Xây dựng tập thể học sinh vững mạnh phải trải qua 3 giai đoạn: 
- Giai đoạn giáo viên đề ra yêu cầu thống nhất cho tập thể học sinh. 
- Giai đoạn xuất hiện những phần tử tích cực xung quanh giáo viên. 
- Giai đoạn cả tập thể tự giác đề ra yêu cầu, biến yêu cầu bên ngoài thành nhu cầu bên trong 
của bản thân tập thể và tập thể có nhu cầu thực hiện tốt mục đích, yêu cầu đã đặt ra. 
 Chú ý, ở cả ba giai đoạn này tất cả các hoạt động đều gắn liền với việc tổ chức phong trào 
thi đua tập thể theo từng đợt với những chủ đề nhất định mang ý nghĩa giáo dục (20/11; 
22/12; 8/3; 26/3; 19/5) 
 Trong quá trình xây dựng tập thể, giáo viên cần phát huy ở học sinh tình cảm tập thể, tình 
cảm thầy trò; gây được dư luận lành mạnh, phát huy được truyền thống của lớp, trường 
đồng thời chú ý đề phòng tình trạng một số học sinh liên kết với nhau thành nhóm tự phát 
có những hành vi không trong sáng hoặc là rất có thể xuất hiện phần tử tiêu cực, gây mất 
đoàn kết nội bộ lớp. Nếu xẩy ra, giáo viên phải tìm hiểu nguyên nhân, bản chất để tuyệt 
đối không được cô lập các em, đẩy các em xa rời tập thể. 
1.3. Giáo dục thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức nhân cách cho học sinh. 
- Giáo dục thế giới quan khoa học phải kết hợp thông qua giáo viên bộ môn trong quá 
trình dạy và học các môn học. 
- Nghe báo cáo thời sự, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn, lao động công ích, cắm trại 
- Đánh giá của giáo viên chủ nhiệm kết hợp tự đánh giá của học sinh. (tránh cảm tính, 
thiên vị, đòi hỏi phải khách quan, công bằng, công khai). 
1.4. Nâng cao thành tích học tập của học sinh. 
 - Học tập là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của học sinh. 
 - Tổ chức nhóm học tập, thành lập cán sự bộ môn. 
 - Có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém. 
 60 
1.5. Giáo dục lao động và hướng nghiệp. 
 - Lao động vừa sức, mang tính chất phục vụ học sinh, lớp, trường, gia đình. Chú ý đến cả 
hiệu quả giáo dục và hiệu quả kinh tế. 
 - Hướng nghề phù hợp với sở thích, năng lực bản thân và yêu cầu xã hội, không chạy theo 
model nghề. 
1.6. Tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, rèn luyện 
 - Thể dục thể thao, tham quan, cắm trại, xem triển lãm, hội diễn văn nghệ 
 - Giữ gìn vệ sinh môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội. 
1.7. Phối hợp công tác với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài trường. 
 - Phối hợp với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ 
Chí Minh. 
- Kết nghĩa với đơn vị, cơ quan gần trường (lực lượng vũ trang, các đoàn thể, doanh 
nghiệp đóng ở địa phương). 
2. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm với các giáo viên khác. 
- Giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên giảng dạy hợp thành tập thể sư phạm. 
- Giáo viên chủ nhiệm là hạt nhân tập hợp lực lượng này để giáo dục học sinh. 
- Giáo viên chủ nhiệm theo dõi sổ sách của lớp, dự giờ của lớp chủ nhiệm khi học các bộ môn 
khác, từ đó tạo ra thông tin ngược cho giáo viên bộ môn để cải tiến nội dung, phương pháp, 
hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với trình độ của lớp. 
- Khi giáo viên chủ nhiệm đánh giá học sinh, tập thể lớp cần tham khảo ý kiến nhận xét của 
giáo viên bộ môn cho lớp mình. 
3. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm với cha mẹ học sinh. 
- Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường giáo dục đầu tiên của học sinh – cha mẹ có 
ảnh hưởng sâu sắc đến trẻ cả khi đã trưởng thành. Gia đình trở thành một bộ phận hữu cơ trong sự 
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. 
- Việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình, vai trò này thuộc về giáo viên chủ 
nhiệm lớp. 
- Giáo viên chủ nhiệm làm cho các bậc phụ huynh nắm được mục đích giáo dục của nhà 
trường. 
- Thống nhất với gia đình về yêu cầu giáo dục (thông qua các cuộc họp phụ huynh đầu 
năm học, cuối học kỳ 1, cuối năm học). 
- Có sổ liên lạc giữa nhà trường với gia đình. 
- Họp phụ huynh định kỳ: đầu năm, cuối học kỳ I, cuối năm học. 
- Có kế hoạch đi thăm gia đình học sinh (nên có báo trước). 
- Thành lập hội cha mẹ học sinh (lớp, trường). 
4. Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm: 
4.1. Ý nghĩa: 
- Việc lập kế hoạch công tác chủ nhiệm là thể hiện sự làm việc có tính khoa học. 
- Bản kế hoạch thể hiện tính nghiêm túc, tính sáng tạo của mỗi giáo viên chủ nhiệm. 
4.2. Trước khi lập kế hoạch, giáo viên chủ nhiệm cần nắm chắc và xử lý tốt các thông tin sau 
đây: 
+ mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của trường. 
+ đặc điểm của học sinh trong lớp, truyền thống của lớp, khó khăn, hạn chế của lớp. 
+ đặc điểm gia đình học sinh (chú ý đến cha mẹ). 
+ mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của các tổ chức đoàn thể. 
+ đặc điểm địa phương nơi trường đóng 
4.3. Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm: 
 61 
a- Đặc điểm của nhà trường, của lớp trong năm học. 
b- Mục tiêu phấn đấu và các nhiệm vụ chung của lớp. 
c- Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể; biện pháp thực hiện; điều kiện cần thiết về vật chất – kỹ thuật; 
tài chính; nhân lực; thời gian thực hiện và hoàn thành; người phụ trách Ứng với từng 
mặt hoạt động của lớp (giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức; học tập; lao động và hướng 
nghiệp; văn nghệ, thể dục thể thao; vệ sinh; vui chơi giải trí; hoạt động xã hội); ứng với 
công tác các giáo viên bộ môn, đoàn thể, hội phụ huynh; với chính quyền cơ quan đoàn 
thể ở địa phương 
d- Bản kế hoạch công tác chủ nhiệm được xây dựng từ đầu năm học tất nhiên không tránh 
khỏi những hạn chế do những biến động hoàn cảnh thực tế mang lại. Do đó, giáo viên chủ 
nhiệm cần điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch bằng cách linh hoạt, sáng tạo trong việc cụ 
thể hóa kế hoạch từng tuần, tháng, học kỳ, hoặc theo chủ đề. 
KẾT LUẬN 
Công tác chủ nhiệm lớp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giáo dục toàn diện học sinh. 
Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm lớp không những phải nêu cao tấm gương sáng về mọi mặt mà còn 
phải không ngừng nâng cao trình độ tổ chức, quản lý, giáo dục của mình, đảm bảo cho kế hoạch 
công tác được thực hiện với kết quả cao nhất, góp phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu, 
nhiệm vụ giáo dục của toàn trường. 
 CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 
1. Quan niệm của anh, chị về người giáo viên và nghề dạy học? 
2. Vai trò, nhiệm vụ của người thầy giáo Việt Nam? 
3. Phân tích các đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo? 
4. Những yêu cầu đối với người thầy giáo Việt Nam hiện nay? 
5. Hiểu biết của anh, chị về nghệ thuật sư phạm? 
6. Để trở thành người giáo viên, tại sao anh hay chị phải nghiên cứu về Nhà trường 
 và Người giáo viên ? 
 62 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn An, Bùi Kim Phượng, Giáo dục học, Trường ĐHSP Tp.Hồ Chí Minh, 1996 
2. Hoàng Anh (chủ biên), Hoạt động Giao tiếp Nhân cách, NXB ĐH Sư phạm, 2007 
3. Nguyễn Ngọc Bảo, Thực hành giáo dục học, NXB Giáo dục, 1991 
4. Phan Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo dục, 2006 
5. Babanxki Iu.K, Giáo dục học, NXB Giáo dục Matxcơva, 1985 
6. Phan Bình, Văn hoá - Giáo dục - Con người và Xã hội, NXB Giáo dục, 2000 
7. Nguyễn Hữu Châu, Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học, NXB 
 Giáo dục, 2005 
8. Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức, Đặng Quốc Bảo  Giáo dục Việt Nam 
 đổi mới và phát triển hiện đại hoá, NXB Giáo dục, 2007 
9. Bùi Hiền, , Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển Bách khoa, 2001 
10. Bùi Văn Huệ (chủ biên), Nghệ thuật ứng xử sư phạm, NXBĐH Sư phạm, H, 2003 
11. Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, Giáo dục học đại cương, NXB Giáo dục, 1999 
12. Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục, NXB Giáo dục, 2004 
13. Phạm Khải (dịch), Ian.P. McGREAL, Những tư tưởng gia vĩ đại phương Đông, NXB 
 Lao động, 2005 
14. Nguyễn Dương Khư, Chân dung các nhà tâm lý, giáo dục thế giới thế kỷ XX, NXB 
 Giáo dục, 1997 
15. Hà Thế Ngữ, Giáo dục học T1, NXB Giáo dục, 1987 
16. Hà Thế Ngữ, Giáo dục học – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB ĐHQG 
 Hà Nội, 2001 
17. Hà Thế Ngữ, Đặng Văn Đình, Giáo dục học, NXB Giáo dục, 1991 
18. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Giáo dục học, NXB Giáo dục, H, 1987 
19. Nguyễn Văn Nhật (dịch), Ken Bain, Phẩm chất của những nhà giáo ưu tú, NXB 
 Văn hoá Sài Gòn, 2008 
20. Võ Thuần Nho (tổng chủ biên), Những vấn đề về giáo dục học, T1, NXB Giáo dục, 
 1983 
21. Jean Piaget, Tâm lý học và Giáo dục học, NXB Giáo dục, 1999 
22. Tống Văn Quán, Nguyễn Quang Thuấn (dịch), Jean. Mare De nommé Madeleine Roy, POUR UNE 
PÉDAGOGIE ITERACTIVE – Latriade étudiant – enseignant – environnemet NXB Thanh niên, 2000 
23. Lê Minh Quốc, Danh nhân sư phạm Việt Nam, NXB Trẻ, 1998 
24. Nguyễn Công Tâm (biên soạn), Nghệ thuật giáo dục, NXB Trẻ 1998 
25. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) Lịch sử giáo dục Việt Nam, NXB Giáo dục, 1996 
26. Hà Nhật Thăng, Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, NXB 
 Giáo dục, 2000 
27. Hà Nhật Thăng, Phương pháp công tác của người giáo viên chủ nhiệm ở trường trung 
 học phổ thông, NXB ĐHQG Hà Nội, 2004 
28. Hà Nhật Thăng, Đào Thanh Âm, Lịch sử giáo dục thế giới, NXB Giáo dục, 1998 
29. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 
30. Dương Thiệu Tống, Suy nghĩ về văn hoá giáo dục Việt Nam, NXB Trẻ, 2000 
31. Bùi Quang Tú (biên soạn), Những mẩu chuyện về quản lý giáo dục, NXB Trẻ, 2002 
32. Thái Duy Tuyên, Giáo dục học hiện đại, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 
33. Phan Thế Sủng, Lưu Xuân Mới, Tình huống và cách ứng xử tình huống trong quản lý 
 giáo dục và đào tạo, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 
34. Phạm Viết Vượng, Giáo dục học, NXB ĐHQG Hà Nội, 2000 
35. Phạm Viết Vượng, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, Bộ GD&ĐT, H, 2001 
36. Luật giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005 
37. Tạp chí Giáo dục (ra hàng tháng) – Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_hoc_dai_cuong_phan_2.pdf