Giáo trình tâm lý học sáng tạo

1. Quan niệm về sáng tạo trong lịch sử phát triển nhận thức

Mục đích của phần này là điểm qua những quan niệm về sáng tạo và làm rõ sự thay đổi quan niệm về sáng tạo trong lịch sử nhận thức. Quan niệm về sáng tạo cũng có lịch sử của nó. Ở giai đoạn đầu của sự phát triển nhận thức, nghiên cứu khoa học và sáng tạo không được coi là có liên hệ với nhau. Khi con người phát hiện ra những quy luật trong thế giới vật lý, bắt đầu xuất hiện niềm tin rằng con người có thể hiểu được bản chất của tự nhiên mà không có sự can thiệp của lực lượng siêu nhân. Sáng tạo cũng như vậy, lúc đầu, sự sáng tạo của con người chưa được thừa nhận, con người có phát minh, sáng chế là do họ mang theo tính sáng tạo được lực lượng thần thánh gửi vào. Ngày nay đã có niềm tin rằng con người có thể sáng tạo và khoa học có thể giúp chúng ta hiểu được cách nào để sáng tạo. Tuy nhiên, rất gần đây thôi, nghiên cứu sáng tạo trong tâm lý học mới được các nhà khoa học quan tâm.

 

docx 336 trang yennguyen 10060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình tâm lý học sáng tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình tâm lý học sáng tạo

Giáo trình tâm lý học sáng tạo
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO
GIÁO TRÌNH
TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO
Tác giả: PHẠM THÀNH NGHỊ
LỜI GIỚI THIỆU
Tâm lý học sáng tạo là lĩnh vực tri thức về con đường con người tạo dựng cái mới, có tính độc đáo và có giá trị trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Khó khăn lớn nhất của nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo là ở chỗ các phát minh, sáng chế liên quan đến thời khắc thấu hiểu, “loé sáng" được nhiều nhà sáng tạo nhắc đến nhưng việc nghiên cứu hiện tượng vô thức, tiềm thức bằng các phương pháp khách quan gặp nhiều khó khăn. Thời điểm thấu hiểu, "loé sáng" mới đủ được các nhà sáng tạo kể lại thông qua tự quan sát và trải nghiệm. Trong khi đó nhiệm vụ cải thiện khả năng tư duy sáng tạo đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc tới. Giải quyết vấn đề theo "lôgíc sáng tạo" cũng có thể giúp tạo ra sản phẩm mới độc đáo (Phan Dũng, 2007). Trong thực tế, quá trình sáng tạo vẫn hàm chứa nhiều điều bí ẩn, bao gồm cả quy trình có tính lôgíc và quá trình mang tính trực giác. Làm thế nào để tăng cường năng lực sáng tạo của con người vẫn còn là câu hỏi mở chưa có câu trả lời thoả đáng. Nhiều kết quả nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo phát hiện ra rằng các yếu tố bối cảnh bên ngoài và các yếu tố chủ quan bên trong tác động tới việc tạo ra sản phẩm mới, độc đáo. Những tác động này là phức tạp, phi tuyến tính. Việc tạo ra môi trường cởi mở, khuyến khích mạo hiểm, thay đổi cách nhìn và đặc biệt sự say sưa theo đuổi công việc là những yếu tố quan trọng tác động tích cực đến việc ra đời sản phẩm sáng tạo.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường xuyên phải suy nghĩ và hành động đề giải quyết vấn đề mới nảy sinh trong công việc và cuộc sống một cách sáng tạo do điều kiện giải quyết vấn đề thay đổi cùng với sự thay đổi thường xuyên của môi trường xung quanh. Do đó, có thể nói hoạt động của con người ở những mức độ khác nhau đều có liên quan đến sáng tạo. Kiến thức về bản chất của sáng tạo, cơ sở sinh học, xã hội của sáng tạo, mối quan hệ giữa sáng tạo với các hiện tượng tâm lý khác như trí thông minh, tư duy, tưởng tượng, động cơ cũng như kiến thức về phương pháp nghiên cứu sáng tạo rất cần thiết đối với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và các nhà chuyên môn làm việc trong lĩnh vực tâm lý học. Cuốn giáo trình "Tâm lý học sáng tạo” này có mục tiêu cung cấp những kiến thức như vậy cho học viên.
Giáo trình được trình bày trong 7 chương. Chương I nêu những vấn đề chung về sáng tạo và tâm lý học sáng tạo như quan niệm về sáng tạo, các thuộc tính, cấp độ sáng tạo, các trường phái và xu hướng nghiên cứu sáng tạo.
Chương II trình bày phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo. Trong chương này 4 nhóm phương pháp chính, trắc đạc tâm lý, thực nghiệm sáng tạo, nghiên cứu trường hợp và trắc đạc lịch sử được trình bày cùng với những kết quả nghiên cứu đã có của các học giả.
Chương III phân tích bản chất của sáng tạo như một quá trình gồm nhiều giai đoạn mà mắt xích trung tâm của quá trình là sự chuyển hóa từ ấp ủ sang thấu hiểu, xuất hiện ý tưởng sáng tạo. Khái niệm dòng sáng tạo của Csikszentmithalyi (1996) được bàn đến như một sự đắm chìm vào diễn biến sự kiện mà chủ thể không còn ý thức rõ ràng sự tồn tại của chính mình. Việc giải quyết vấn đề sáng tạo được phân tích theo một số cách tiếp cận như tiếp cận lý thuyết trí tuệ tư duy theo chiều ngang, tiếp cận theo thành tố v.v
Chương IV phân tích cơ sở sinh học và xã hội của sáng tạo. Các cơ sở sáng tạo ở cấp độ tế bào thần kinh, bán cầu đại não, tác động của môi trường gia đình, giáo dục, môi trường làm việc, môi trường xã hội đối với sáng tạo được phân tích, trong đó văn hoá được coi là có nhiều tác động đến sáng tạo của con người.
Chương V phân tích các quan niệm về mối quan hệ giữa sáng tạo và trí thông minh, tư duy sáng tạo, tưởng tượng. Có nhiều quan điểm nghiên cứu mối quan hệ trí thông minh và sáng tạo, mỗi tác giả có cách tiếp cận riêng và có quan niệm riêng, điều đó không hề mâu thuẫn với bản chất của sáng tạo là quá trình đi đến cái mới. Tư duy sáng tạo có vai trò quan trọng trong phát hiện ra cái mới; tư duy sáng tạo không chỉ bao gồm thành phần lôgíc, các yếu tố phi lôgíc, tiền lôgíc, yếu tố trực giác có vai trò quan trọng trong tư duy sáng tạo. Tưởng tượng là thành phần không thể thiếu của sáng tạo, mặc dù có nguồn gốc từ thực tiễn nhưng tưởng tượng đóng vai trò quan trọng trong tạo dựng cơ chế phi lôgíc của sáng tạo.
Chương VI trình bày các đặc điểm nhân cách của người sáng tạo và động cơ sáng tạo. Không đi sâu vào cấu trúc kinh điển của nhân cách, chương này điểm qua một số đặc điểm nhân cách, có thể là những đặc điểm của xu hướng, năng lực hay tính cách, có mặt ở những người sáng tạo. Cũng tại chương này vấn đề động cơ sáng tạo được phân tích khá chi tiết. Động cơ trong có vai trò quyết định tới sáng tạo; động cơ ngoài hỗ trợ cung cấp thông tin có ý nghĩa xóa bỏ sự kiểm soát hay duy trì tính liên tục của hoạt động học tập và lao động góp phần thúc đẩy sáng tạo.
Chương VII trình bày vấn đề sáng tạo trong tổ chức và việc giáo dục, phát triển tính sáng tạo. Mặc dù sáng tạo là một hiện tượng tâm lý còn nhiều điều chưa được làm rõ, các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định triển vọng phát triển năng lực sáng tạo ở người học và phát huy tính sáng tạo ở người lao động.
Đây là tài liệu dùng cho học viên sau đại học nên vấn đề được trình bày khá cởi mở, đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến về một vấn đề. Học viên có cơ hội trải nghiệm các góc nhìn khác nhau và có thể lựa chọn cho mình quan điểm thích hợp.
Giáo trình được viết với thời lượng 3 tín chỉ, là tài liệu học tập của học viên cao học tâm lý học thuộc Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách còn là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu sinh, các nhà nghiên cứu tâm lý học và những ai quan tâm tới vấn đề sáng tạo và phát triển sáng tạo ở con người. Cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót, những ý kiến đóng góp của độc giả và đồng nghiệp xin gửi về địa chỉ email: ptnghi2008@gmail.com.
Hà Nội, ngày 12 tháng 2 năm 2012
Tác giả: GS.TS. Phạm Thành Nghị
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. SÁNG TẠO VÀ CÁC THUỘC TÍNH
1. Quan niệm về sáng tạo trong lịch sử phát triển nhận thức
Mục đích của phần này là điểm qua những quan niệm về sáng tạo và làm rõ sự thay đổi quan niệm về sáng tạo trong lịch sử nhận thức. Quan niệm về sáng tạo cũng có lịch sử của nó. Ở giai đoạn đầu của sự phát triển nhận thức, nghiên cứu khoa học và sáng tạo không được coi là có liên hệ với nhau. Khi con người phát hiện ra những quy luật trong thế giới vật lý, bắt đầu xuất hiện niềm tin rằng con người có thể hiểu được bản chất của tự nhiên mà không có sự can thiệp của lực lượng siêu nhân. Sáng tạo cũng như vậy, lúc đầu, sự sáng tạo của con người chưa được thừa nhận, con người có phát minh, sáng chế là do họ mang theo tính sáng tạo được lực lượng thần thánh gửi vào. Ngày nay đã có niềm tin rằng con người có thể sáng tạo và khoa học có thể giúp chúng ta hiểu được cách nào để sáng tạo. Tuy nhiên, rất gần đây thôi, nghiên cứu sáng tạo trong tâm lý học mới được các nhà khoa học quan tâm.
a. Quan điểm ban đầu về sáng tạo
Các học giả đều nhất trí rằng quan niệm ban đầu, nguyên thủy về sáng tạo của phương Tây là câu chuyện được kể trong kinh thánh, theo đó đức Chúa Trời đưa sự sáng tạo xuống trần thế. Boorstin (1992:42) viết “Về sự nhận thức khả năng của mình, giao kết là điểm quan trọng. Sự giao kết cho rằng con người kết nối lại thành cộng đồng bởi lòng tin của họ vào Đấng sáng tạo - Đức Chúa Trời. Họ khẳng định quyền lực sáng tạo của mình qua sự liên hệ, kết nối với các phẩm chất của Chúa, qua quan hệ máu thịt và tự nguyện của họ với Chúa".
Quan điểm này tồn tại cho đến thế kỷ thứ II sau công nguyên sau đó suy yếu dần và được thay thế bằng thuyết mới của Thánh Augustine (354 - 430). Lúc này Cơ đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên bố quyền năng sáng tạo. Thuyết mới này phản ánh sự khác biệt rất lớn giữa cách nhìn nhận của phương Đông và phương Tây về mục đích và vai trò của con người trong quá trình sáng tạo. Theo Hinđu giáo (1500-900 trước công nguyên) và Nho giáo (551-479 trước công nguyên), Lão giáo và Phật giáo thì sáng tạo là sự phát hiện và sự bắt chước. Phật giáo và Nho giáo nhấn mạnh vòng đời sự hài hòa và cân bằng, do đó tư tưởng sáng tạo không thể có trong thế giới âm dương từ số không (Boorstin, 1992:17). Theo Plato, không có gì mới có thể tạo ra được, nghệ thuật là sự cố gắng thích nghi hay bắt chước hình thức lý tưởng. Tính độc đáo, điểm nhấn trong sáng tạo, không phải là thuộc tính của sáng tạo trong lịch sử cổ đại. Trong suốt gần 1200 năm, tư tưởng này không có đối trọng, không có lực lượng phản đối. Trong thời trung cổ, tài năng, khả năng khác thường của cá nhân con người (thường chỉ là đàn ông) là biểu hiện của lực lượng tinh thần bên ngoài mà cá nhân chỉ là người được gửi gắm để mang theo mà thôi.
Thời kỳ Phục hưng có những thay đổi đáng kể trong cách nhìn nhận sáng tạo. Ở thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện quan điểm cho rằng tài năng sáng tạo nghệ thuật của cá nhân con người không phải là thuộc tính của lực lượng thần bí mà là của chính cá nhân con người đó. Hơn nữa, sự thay đổi trong cách nhìn nhận này không còn bị cô lập mà là sự chuyển biến của toàn bộ xã hội, bao gồm cả "sự từ chối thân phận nông nô, sự chiến thắng của tiếng Anh, sự đi lên của các ngành nghề như luật học và y học và sự phát triển của xu hướng phi tôn giáo. Sự thay đổi đó rất mạnh mẽ và tinh tế cho đến khoảng những năm 1500-1700. Mặc dù có sự chuyển biến này, sáng tạo vẫn còn là lĩnh vực rất mờ nhạt và thậm chí một số triết gia còn không có ý định xem xét vấn đề này.
b. Cuộc cách mạng trong nghiên cứu sáng tạo
Trong hầu hết những năm Phục hưng, nhiều tranh luận của các nhà triết học và những phát minh khoa học đã phá vỡ những quan điểm văn hóa và tôn giáo cũ. Phát minh của ba nhà bác học lỗi lạc - Copemirưs (1473-1543), Galileo (1564-1642) và Newton (1642-1727) - đã cung cấp chứng cứ cho sự thay đổi này. Nhưng phát hiện của họ đòi hỏi sự thay đổi trong nhìn nhận quy luật của thế giới tự nhiên và công nhận mối liên hệ của tự nhiên với sự tồn tại của con người. Trong thế kỷ thứ 18, hai cách tiếp cận liên quan đến quyết định luận và chủ nghĩa cá nhân đã định hình tư duy phương Tây: sự khai sáng được gắn kết với triết học trí tuệ mà biểu hiện rõ nhất của nó là sự tấn công vào những thế lực được nhà nước phong kiến bảo vệ dựa trên những căn cứ phản khoa học. Trong khi đó, khoa học tự nhiên được củng cố, thể chế hóa và sử dụng những phương pháp khoa học trong nghiên cứu. Cùng với cuộc cách mạng trong khoa học là những thay đổi đáng kể trong văn hóa phương Tây; vị thế của kinh thánh đã thay đổi. Trong hàng trăm năm, kinh thánh là nguồn tài liệu thần thánh về trí tuệ và đạo đức nhưng đến cuối thế kỷ 18 kinh thánh đã trở thành tài liệu thế tục. Prickett (1996) cho hay trong suốt thời gian cuối thế kỷ 18, Kinh thánh đã trải qua sự thay đổi đáng kể theo hướng giải thích rất tiến bộ và trở thành cuốn sách rất khác so với 100 năm trước đó, thậm chí những người phê bình gay gắt nhất cũng phải công nhận rằng kinh thánh đã khác xa với việc thần thánh hóa. Kinh thánh đã khẳng định vững chắc sự thay đổi trên thế giới; nội dung kinh thánh mềm dẻo và phổ cập. Kinh thánh được xem như là một sản phẩm văn hóa có sự thể hiện khá giống với các tài liệu thế tục khác.
Khi phong trào Khai sáng chống lại quyền lực thần bí và "trí tuệ tôn giáo", tự do đã trở thành một phần không thế thiếu được của quá trình này. Đó là quyền cá nhân được khám phá chính thế giới của mình mà không cần bất cứ sự cho phép, sự hướng dẫn hay can thiệp nào của lực lượng siêu nhân. Mặc dù ý tưởng về sáng tạo chưa có gì thay đổi trong suốt những năm từ 1500 đến 1700, đã có sự thay đổi đáng kể diễn ra và tạo nền tảng tho ý tưởng nghiên cứu. Sự phức tạp có thể thấy ở việc hợp nhất giữa mô hình khoa học và kỹ thuật mà nhiều người tin rằng đây là sự bắt đầu của nền văn minh phương Tây, "từ thế giới nơi đồ vật được xếp đặt theo bản chất ý tưởng tuyệt đối sang thế giới của sự kiện diễn ra theo quy luật của tự nhiên. Như vậy, đã có sự thay đổi trong quan niệm và thực tiễn về nguồn gốc của sáng tạo và ý nghĩa của các nghiên cứu thực chứng. Những quan niệm này ngày càng được củng cố nhờ sự ra đời của những phát minh trong khoa học tự nhiên và thiên văn học.
c. Những tiền đề thể chế và triết lý cho nghiên cứu sáng tạo
Giai đoạn Khai sáng ở Anh quốc đã tạo tiền đề cho những nghiên cứu thực nghiệm. Khai sáng đã tạo ra cơ sở triết học và xã hội cho sự đối lập với chính quyền (tôn giáo, chế độ quân chủ và các thế lực chính trị khác), cùng với đó là sự lớn mạnh của khoa học chống lại tư tưởng của chính quyền. Những cơ sở này tạo điều kiện cho sự đáp ứng nhu cầu cấp thiết của tự do ngôn luận, báo chí và tự do cá nhân. Tự do trong tranh luận, chẳng hạn, là điều kiện cốt lõi của tư duy duy lý thể hiện hàng ngày và được củng cố bởi các chứng cứ khoa học. Tất cả những ý tưởng đó được đưa ra tranh luận và được định hình trong thế kỷ 18 và 19. Khoa học được luật pháp công nhận. Hiệp hội Hoàng gia được Charles II công nhận từ năm 1662 đã trở thành địa chỉ cho các cuộc gặp gỡ của các nhà khoa học và Hiệp hội này đã đứng ra công nhận kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Hiệp hội còn phát hành ấn phẩm của các thành viên, các bài viết cá nhân không được truyền bá riêng. Báo khoa học in ấn trong Hiệp hội ngày càng có uy tín. Đặc biệt Hiệp hội trở nên có uy tín hơn khi hòa giải được sự tranh luận dai dẳng giữa Robert Hooke và Isaac Newton. Hiệp hội đưa ra phản ứng của mình với tư cách là một tổ chức của những người làm khoa học và là nơi ấn hành các kết quả nghiên cứu khoa học: Việc tập trung hoạt động này tạo thêm quyền lực và tính thực tiễn của khoa học. Hai hậu quả của việc thể chế hóa này là: cá nhân bị hạn chế xuất hiện trên ấn phẩm, trong khi đó Hiệp hội Hoàng gia khuyến khích sự xuất hiện của các nhà khoa học thiên tài trong trao đổi và chuyển hướng quan tâm của Hiệp hội từ những vấn đề cá nhân sang sự quan tâm đến tính quy luật của tự nhiên và việc phát hiện ý nghĩa thực tiễn của khoa học. Những lợi ích đó đánh dấu giá trị của quy luật tự nhiên và tầm quan trọng của thực nghiệm khoa học trong thế giới vật lý. Những cuộc tranh luận về ý tưởng, của suy đoán không được coi trọng. Các kết quả nghiên cứu sử dụng các phương pháp thực chẳng có khả năng tạo ra những lợi ích thực tiễn được chú ý. Mặc dù thế giới vật lý được xem là nguồn gốc trước tiên được chấp nhận và con người được coi là một bộ phận của tự nhiên, những nghiên cứu về bản chất con người vẫn chưa được chú ý một cách nghiêm túc trong giai đoạn này.
d. Những tranh luận dường như không bao giờ kết thúc
Sự phát triển của khoa học đã diễn ra trước khi quan niệm sáng tạo được tạo dựng. Trong nửa cuối thế kỷ 18, niềm tin khoa học về quy luật của tự nhiên đã được chấp nhận. Sự chứng minh của khoa học trong cuộc sống thực tiễn nhờ áp dụng những sáng chế trong khoa học tự nhiên, máy quay sợi, máy hơi nước đã làm tăng tốc cuộc cách mạng công nghiệp và đưa đến sự dẫn đầu của Anh quốc trong chế tạo và kinh doanh so với các quốc gia cạnh tranh khác.
Hai vấn đề được tranh luận suốt thế kỷ thứ 18 giữa các nghệ sỹ, nhà văn, nhà thơ và nhà triết học Anh quốc và châu Âu vẫn là: Sự giới hạn tự do của tư duy là ở chỗ nào? ý nghĩ ... ệc phát ý tưởng cần tiến hành một cách tự do, thoải mái, không có bất kỳ sự hạn chế nào về nội dung đưa ra. Những người phát ý tưởng không cần bất kỳ sự chứng minh nào.
(3) Trong nhóm phát ý tưởng, tuyệt đối không chấp nhận bất kỳ hình thức phê bình, chỉ trích bằng lời nói và biểu hiện sự ủng hộ hay chống đối bằng ngôn ngữ hay điệu bộ nào. Có thể có những ý tưởng sai lệch, buồn cười, nhưng không vì thế mà hạn chế quá trình đưa ra ý tưởng.
(4) Vai trò của người chủ trì buổi công não thể hiện ở chỗ bài toán cần được phát biểu bằng những khái niệm chung, đơn giản, dễ hiểu, có thể có những gợi ý.
(5) Nhóm đánh giá ý tưởng phải gồm những nhà chuyên môn liên quan đến lĩnh vực của bài toán. Việc đánh giá phải cẩn thận, tìm được lý do vì sao ý tưởng là không tồi và chú ý những ý tưởng có sự đánh giá không thống nhất (Phan Dũng, 2008, T. 6).
Mặc dù thuật ngữ công não bao hàm quá trình nhóm, các cá nhân có thể tự tạo ra bối cảnh giống như thế để đưa ra ý tưởng. Khi tiến hành công não, chúng ta phải cố gắng tạo ra càng nhiều càng tốt các phương án và cách tiếp cận tới vấn đề, tạm dừng phê phán và đánh giá các phương án này cho đến khi quá trình kết thúc.
Công não có thể được coi là quá trình tìm kiếm mà mục đích của sự tìm kiếm này là các ý tưởng sáng tạo, đổi mới và hữu dụng. Nhiều nhà nghiên cứu quá trình ra quyết định và giải quyết vấn đề nhấn mạnh tầm quan trọng của tìm kiếm như là yếu tố chính để xác định các phương án quyết định hay lựa chọn để tìm kiếm giải pháp mới cho vấn đề.
c. Chương trình CoRT (Cognitive Research Trust)
Chương trình CoRT được de Bono xây dựng và chỉ đạo, đặc biệt, trên nền tảng phát triển tư duy theo chiều ngang. De Bono (1970, 1973) phân biệt tư duy theo chiều ngang với tư duy theo chiều dọc. Có thể thấy sự khác biệt này cũng giống tư duy sáng tạo và tư duy phê phán.
De Bono cho rằng bộ óc con người là hệ thống tự tổ chức và hệ thống đó hoạt động rất tốt trong việc tạo ra các khuôn mẫu, lưu giữ và tái hiện các khuôn mẫu đó. Nhờ vậy hệ thống cũng phản ứng nhanh chóng khi gặp lại các khuôn mẫu cũ. Các khuôn mẫu đó có thể là khái niệm ý tưởng, hình ảnh; chúng có thể đứng riêng rẽ, cũng có thể được xếp theo trật tự thành các mẫu lớn hơn. Khi làm những việc quen thuộc hàng ngày, chúng ta có các mẫu đó trong đầu và một phần hay toàn bộ đã được tự động hoá. Nhưng khi sự vật ở trạng thái vận động, môi trường không quen thuộc, các khuôn mẫu không còn giúp chúng ta đạt được mục đích nữa. Người ta dạy lôgíc hình thức, toán học trong giải quyết vấn đề. Đây chính là tư duy theo chiều đứng. Tư duy theo chiều đứng có ưu thế trong giải quyết vấn đề quen thuộc hay trong phạm vi quy luật, phương pháp suy luận của lôgíc hình thức. Khi phải thay đổi khuôn khổ, kiểu tư duy theo chiều đứng không còn thích hợp nữa.
Tư duy theo chiều ngang bao gồm việc cấu trúc lại các mẫu, giải phóng các mẫu, làm nảy sinh các mẫu mới, xem xét sự vật theo những cách khác nhau, sắp xếp thông tin theo những cách mới để có được ý tưởng mới. De Bono cho rằng hai loại tư duy này bổ sung cho nhau.
Chương trình CoRT, như de Bono (1973) mô tả, bao gồm 6 phần, mỗi phần liên quan đến một chủ đề tư duy và gồm nhiều bài học. Mỗi bài học tập trung vào sáng tạo và cung cấp chiến lược để người tham dự tạo ra ý tưởng mà bình thường không thể xuất hiện được. 6 phần đó bao gồm: CoRT 1 về tầm rộng, CoRT 2 về tổ chức, CoRT 3 về tương tác, CoRT 4 về sáng tạo, CoRT 5 về thông tin và xúc cảm và CoRT 6 về hành động.
Giống như các thành phần khác, thành phần về sáng tạo (CoRT 4) trình bày tiếp cận cấu trúc tới giải quyết vấn đề sử dụng các "thao tác” chuyên biệt hay các thuật ghi nhớ để đặt ra các câu hỏi về tình huống. Các câu hỏi luôn đặt người trả lời vào tình thế phải xem xét các phương án hay tiếp cận về tình huống theo cách mới.
Chương trình CoRT được áp dụng ở Venezuela đầu những năm 1980 theo chủ trương của Chính phủ Venezuela cho học sinh tuổi 11-12. Kết quả đánh giá cho thấy khả năng sáng tạo của học sinh tăng lên đáng kể sau 1 năm học theo thương trình này.
d. Sáu chiếc mũ tư duy
De Bono tạo ra phương pháp 6 chiếc mũ tư duy, mỗi chiếc mũ đại diện cho một kiểu tư duy. Phương pháp 6 chiếc mũ tư duy khuyến khích tư duy cởi mở thay vì tạo cơ chế bảo vệ. Mọi người có thể đóng góp vào giải quyết vấn đề khi đội bất cứ chiếc mũ nào từ những cách nhìn khác nhau. Tên mũ được đặt để định hướng tư duy. 
Tư duy mũ trắng có định hướng cung cấp thông tin (sự kiện, số liệu, nhu cầu thông tin và khoảng trống thông tin). "Chúng ta cần tư duy mũ trắng ở thời điểm này" có nghĩa là cần xem xét số liệu, sự kiện và dữ liệu.
Tư duy mũ đỏ có định hướng cảm xúc, cảm giác, tình cảm. Mũ đỏ cho phép người tư duy đưa ra biểu đạt cảm xúc trực giác mà không cần phải chứng minh bằng lý sự, số liệu. "Đưa ra mũ đỏ, tôi cho rằng đó là một đề xuất đáng giá”. Thường thì tình cảm và trực giác được đưa ra trong thảo luận nếu nó được củng cố bằng yếu tố lôgíc, xúc cảm là chân thật nhưng không chính xác. Mũ đỏ cho phép người tư duy đưa ra xúc cảm, cảm giác của họ về chủ đề tại thời điểm nào đó.
Tư duy mũ đen có định hướng phán xét cái sai. Tư duy mũ đen cho thấy tại sao giải pháp hay lời khuyên đưa ra không phù hợp với sự kiện, kinh nghiệm hay hệ thống đang sử dụng, chính sách đang hiện hành.
Tư duy mũ vàng có định hướng tích cực, chỉ ra điểm tốt. Lôgíc ở đây là tích cực "Tại sao cái gì đó là tốt và có lợi". Nó có thể dùng được để tìm kiếm kết quả của một số hành động được đề xuất, nhưng có thẻ được sử dụng để tìm những giá tri ở chuyện gì đã xảy ra rồi.
Tư duy mũ xanh lá cây có định hướng sáng tạo, hướng tới ý tưởng mới. Đây là mũ sáng tạo, người đội mũ này có nhiệm vụ đề xuất các phương án, đưa ra những gợi ý hay sự thay đối.
Tư duy mũ xanh da trời có điịnh hướng tổng quan hay kiểm soát quá trình. Mũ xanh da trời không xem xét vấn đề cụ thể nào cả mà đưa ra định hướng tư duy về chủ đề. "Đưa mũ tư duy xanh da trời, tôi sẽ làm nhiều mũ xanh lá cây ở thời điểm này". Theo thuật ngữ kỹ thuật, mũ xanh da trời liên quan đến tự nhận thức, đánh giá, điều chỉnh quá trình tư duy.
e. Những cố gắng khác
Kỹ thuật tổng hợp được Gordon xây dựng (1981) kích thích tạo ra ý tưởng sử dụng phép tương tự và phép ẩn dụ. Kỹ thuật này giống công não ở chỗ mọi người được khuyến khích tự do đưa ra ý tưởng mà không bị phê phán. Sanders và Sanders (1984) đã đưa ra tiếp cận và sử dụng ẩn dụ để khơi gợi bao gồm xác định vấn đề, thu thập và xử lý số liệu, khẳng định tác động, chuẩn hoá quá trình và tổng quan các hoạt động và lập kế hoạch cho tương lai. Một số quy trình cho phép sự tham gia của nhóm vào giải quyết vấn đề rất giống với quy trình được Osbom, Gordon và những người khác đưa ra. Quy trình này được nhiều công ty Mỹ và các cơ quan chính phủ thực hiện.
Sternberg và Williams (1996) đã tiến hành khoá học cho học sinh phổ thông trung học về tâm lý học, ở đó họ dạy học sinh theo phương pháp khuyến khích sáng tạo, giúp học sinh xác định khung lý thuyết, thiết kế thực nghiệm, tiến hành thực nghiệm trong khi đó nhóm đối chứng được dạy theo cách thông thường. Những học sinh có điểm cao về sáng tạo đều thuộc nhóm được khuyến khích sáng tạo, ngược lại những người có điểm sáng tạo thấp đều thuộc về nhóm không được dạy theo phương pháp sáng tạo.
m. Tạo ra sự cân bằng
Trẻ em có thể cam kết với những biểu đạt sáng tạo trong lớp học mà không sợ bị nhạo báng và quở trách. Điều đó không có nghĩa là vì mục tiêu tăng cường sáng tạo mà trẻ em được phép làm bất cứ điều gì chúng muốn. Yêu cầu tuân theo hướng dẫn, tôn trọng kỷ luật, tự kiềm chế, tôn trọng truyền thống và tục lệ cũng quan trọng và thực tế cũng giống như việc đáp ứng nhu cầu được tự do, được biểu đạt tự nhiên, được đổi mới và mạo hiểm. Mặc dù sáng tạo có thể bi lụi tàn trong môi trường hà khắc, không nhất thiết phải nuôi dưỡng sự sáng tạo trong môi trường thiếu trật tự, quá tự do, vì điều đó cũng cản trở sáng tạo. Thách thức đối với việc tìm kiếm sự cân bằng thực sự là dạy trẻ em nhận biết và tôn trọng quy tắc, tôn trọng giới hạn mà không làm suy giảm sự hứng thú tới sáng tạo. Điều đó có nghĩa là không chỉ dạy quy tắc làm việc mà còn phải giải thích tại sao các quy tắc đó lại cần thiết và đặc biệt những quy tắc này có ý nghĩa gì đối với học sinh và những người xung quanh.
Tìm được sự cân bằng giữa nhu cầu và sự ủng hộ cũng là một thách thức. Trẻ em cần có mục tiêu để phát triển năng lực của chúng, nhưng chúng cũng cần môi trường hỗ trợ, khuyến khích những cố gắng thậm chí cả những cố gắng chưa đạt được kết quả. Chúng ta có lý do để tin rằng môi trường cần có cả yêu cầu cao và cả sự khuyến khích có lợi cho phát triển sáng tạo.
Tóm lại, năng lực sáng tạo có thể nuôi dưỡng và phát triển. Với động lực đầy đủ, con người học tập, tìm hiểu để nắm được các kiến thức cần thiết và phát hiện ra quy tắc giải quyết vấn đề sáng tạo; thiếu động lực đầy đủ, kiến thức bất cứ loại gì cũng không hữu ích được cho sáng tạo. Một điều kiện rất quan trọng cho ý tưởng mới xuất hiện là phải tạo ra môi trường học tập và làm việc an toàn, cởi mở, khuyến khích làm việc nhóm thảo luận và hợp tác, tạo dựng không gian cho thư giãn. 
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích những đặc điểm của tổ chức tác động đến sáng tạo?
2. Khả năng áp dụng các lý thuyết sáng tạo trong tổ chức?
3. Các giải pháp tăng cường sáng tạo trong tổ chức?
4. Công não và giải quyết vấn đề sáng tạo?
5. CoRT và các giải pháp phát triển tư duy sáng tạo của de Bono?
6. Phân tích một số giải pháp khác nhằm tăng cường sáng tạo?
Bài tập thực hành
Bài 1
Thực hành công não nhằm phát triển ý tưởng sáng tạo trong làm việc nhóm?
Bài 2
Sử dụng phương pháp PMI (điểm tốt, điểm dở, điểm hay) để nâng cao khả năng tư duy sáng tạo?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phan Dũng (2007). Các thủ thuật (Nguyên tắc) sáng tạo cơ bản. Trung tâm sáng tạo khoa học - kỹ thuật, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tập 4.
2. Phan Dũng (2008): Các phương pháp sáng tạo, Trung tâm sáng tạo khoa học - kỹ thuật, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tập 6.
3. Leontiev A.N. (2003). Hoạt động - Ý thức - Nhân cách. NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Phạm Thành Nghị (2008). "Đặc điểm nhân cách sáng tạo". Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3/2008.
5. Phạm Thành Nghị (2008). “Các hướng nghiên cứu trong tâm lý học sáng tạo ở phương Tây". Tạp chí Tâm lý học, số 11/2008.
6. Phạm Thành Nghị (2011a). "Phát triển tư duy sáng tạo thông qua hoạt động giải quyết vấn đề mới”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 68, tháng 5/2011, tr. 9-13.
7. Phạm Thành Nghị (2011b). Những vấn đề tâm lý học sáng tạo, NXB Đại học Sư phạm.
8. Phạm Thành Nghị (2011c). "Động cơ hoạt động sáng tạo", Tạp chí Tâm lý học, số 5/2011, tr.1-9.
9. Nguyễn Huy Tú (2006). Bộ trắc nghiệm sáng tạo TSD-Z của Klaus K/ Urban với những ứng dụng ở nước ngoài và Việt Nam. NXB Đại học Sư phạm.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Chương I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. SÁNG TẠO VÀ CÁC THUỘC TÍNH 
1. Quan niệm về sáng tạo trong lịch sử phát triển nhận thức. 
2. Khái niệm sáng tạo trong tâm lý học
3. Các thuộc tính của sáng tạo 
4. Các cấp độ sáng tạo
II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM CỦA TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO
1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học sáng tạo 
2. Nhiệm vụ của tâm lý học sáng tạo 
III. CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN TRONG TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO. 
1. Tiếp cận thần bí 
2. Tiếp cận động lực tâm lý 
3. Tiếp cận thực dụng 
4. Tiếp cận trắc đạc tâm lý
5. Tiếp cận nhận thức
6. Tiếp cận xã hội - nhân cách
Câu hỏi ôn tập
Chương II.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Trắc đạc tâm lý.
2. Thực nghiệm sáng tạo
3. Nghiên cứu trường hợp 
4. Trắc đạc lịch sử.
Câu hỏi ôn tập
Bài tập thực hành
Chương III.
BẢN CHẤT CỦA SÁNG TẠO 
I. QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO
1 Các bước của quá trình sáng tạo 
2. Sự xuất hiện vấn đề
3. Cuộc sống là nguồn gốc của vấn đề 
4. Ảnh hướng của những kiến thức đã biết
5. Áp lực của môi trường nhân văn 
6. Vấn đề đã xác định trước và vấn đề được phát hiện 
7. Thời điểm bí ẩn
8. Chức năng của thời gian nhàn rỗi.
9. Lĩnh vực, chuyên ngành và vô thức 
10. Kinh nghiệm "A ha"
11 Làm việc chuyên cần.
II. DÒNG SÁNG TẠO 
1. Sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi con người 
2. Hứng thú làm việc 
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SÁNG TẠO 
1. Lý thuyết chức năng trí tuệ của Guilord 
2. Tư duy theo chiều ngang 
3. Tiếp cận theo thành tố 
4. Mô hình tương tác giữa lĩnh vực - cá nhân - chuyên ngành
5. Tư duy ẩn dụ và giải quyết vấn đề sáng tạo 
6. Kịch bản xã hội 
7. Sáng tạo như một hoạt động giải quyết vấn đề mới 
IV. SÁNG TẠO TRONG CÁC LĨNH VỰC 
1. Sáng tạo khoa học
2. Sáng tạo kỹ thuật.
3. Sáng tạo nghệ thuật
V. SÁNG TẠO TRONG CUỘC SỐNG THƯỜNG NGÀY
1. Cuộc sống thường ngày và sáng tạo 
2. Quan niệm về sáng tạo trong cuộc sống thường ngày 
3. Sáng tạo là năng lực tiềm ẩn trong mỗi con người
4. Những đặc điểm của cuộc sống sáng tạo 
Câu hỏi ôn tập 
Bài tập thực hành 
Chương IV.
CƠ SỞ SINH HỌC VÀ XÃ HỘI CỦA SÁNG TẠO
I. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA SÁNG TẠO 
1. Hoạt động của nơron thần kinh
2. Hai bán cầu đại não 
II. CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA SÁNG TẠO
1. Môi trường gia đình
2. Môi trường giáo dục 
3. Môi trường làm việc
4. Văn hoá và sáng tạo 
Câu hỏi ôn tập 
Bài tập thực hành 
Chương V.
SÁNG TẠO, TRÍ THÔNG MINH, TƯ DUY VÀ TƯỞNG TƯỢNG
I. SÁNG TẠO VÀ TRÍ THÔNG MINH.
1. Quan điểm coi sáng tạo là một bộ phận của trí thông minh
2. Quan điểm coi trí thông minh như là một bộ phận của sáng tạo
3. Quan điểm coi sáng tạo và trí thông minh có những chỗ trùng lặp.
4. Quan điểm coi sáng tạo và trí thông minh như hai cấu thành trùng khớp
5. Quan điểm coi sáng tạo và trí thông minh là hoàn toàn khác nhau 
II. TƯ DUY SÁNG TẠO
1. Khái niệm tư duy sáng tạo
2. Những cản trở tư duy sáng tạo 
3. Thái độ đối với tư duy sáng tạo 
4. Phát triển tư duy sáng tạo thông qua hoạt động giải quyết vấn đề mới 
III. TƯỞNG TƯỢNG VÀ SÁNG TẠO 
1. Khái niệm tưởng tượng 
2. Những đặc điểm của tưởng tượng 
3. Vai trò của tưởng tượng trong sáng tạo
Câu hỏi ôn tập
Bài tập thực hành
Chương VI.
NHÂN CÁCH VÀ ĐỘNG CƠ SÁNG TẠO
I. NHÂN CÁCH SÁNG TẠO 
1. Nhân cách sáng tạo có thiên hướng về một lĩnh vực.
2. Cởi mở với tình huống không xác định 
3. Tưởng tượng tự do
5. Tính mềm dẻo của nhân cách 
6. Ưa mạo hiểm.
7. Cởi mở với sự thiếu trật tự
8. Trì hoãn hưởng thụ.
9. Giải phóng khỏi vai trò giới
10. Tính kiên trì
11. Lòng dũng cảm 
12. Những đặc điểm khác của nhân cách sáng tạo
II. ĐỘNG CƠ SÁNG TẠO
1. Những nghiên cứu ban đầu về động cơ sáng tạo
2. Vai trò của động cơ trong và động cơ ngoài 
3. Thực nghiệm kiểm tra giả thuyết động cơ rửa Amabile tại Việt Nam
4. Xu hướng tương lai 
Câu hỏi ôn tập 
Bài tập thực hành
Chương VII.
SÁNG TẠO CỦA TỐ CHỨC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LVC SÁNG TẠO
I. SÁNG TẠO CỦA TỔ CHỨC
1. Những đặc điểm của tổ chức có ảnh hưởng đến sáng tạo 
2. Lý thuyết sáng tạo và việc áp dụng trong tổ chức 
3. Tăng cường sáng tạo của tổ thức
II. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
1. Triển vọng phát triển năng lực sáng tạo 
2. Tăng cường động cơ hoạt động sáng tạo ở người học
3. Xây dựng nền tảng tho hành động lôgíc 
4. Xây dựng nền tảng cho hành động trực giác và kích hoạt ý tưởng sáng tạo 
Câu hỏi ôn tập 
Bài tập thực hành.
TÀI LỆU THAM KHẢO
---//---
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO
Tác giả: PHẠM THÀNH NGHỊ
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
- NĂM 2012 -

File đính kèm:

  • docxgiao_trinh_tam_ly_hoc_sang_tao.docx